Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG nền KINH tế độc lập tự CHỦ và CHỦ ĐỘNG hội NHẬP KINH tế QUỐC tế bài học THÀNH CÔNG của CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG THỜI kỳ đổi mới (1986 2001)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.06 KB, 25 trang )

1

XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ BÀI HỌC THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 2001)

Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, đây chính là biểu hiện cụ thể của bài học về kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh ngoài
nước trên lĩnh vực phát triển kinh tế đất nước trong công cuộc đổi mới, đặc
biệt thời kỳ 1986-2001, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nước
ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ và chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là một trong những
bài học chủ yếu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, một trong những nhân tố hết sức quan trọng tạo nên thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trước bối cảnh mới của tình hình cách mạng thế
giới và trong nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng (4/2001), đã
xác định đường lối phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh một nội dung rất
quan trọng là: “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp”.
Quan điểm của Đảng về phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ nguồn lực từ bên
ngoài cho phát triển đất nước là quan điểm hết sức đúng đắn, phản ánh tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta trên cơ sở nắm vững lý luận


2


chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn hoạt động lãnh
đạo cách mạng Việt Nam của Đảng mấy thập kỷ qua.
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Động lực của mọi sự vận động
phát triển của sự vật hiện tượng là do chính sự vận động, giải quyết các mâu
thuẫn nội tại trong sự vật hiện tượng và luôn có mối quan hệ biện chứng với
yếu tố môi trường bên ngoài, với sự vật hiện tượng khác; nhân tố bên ngoài
có tác động ảnh hưởng đến quá trình vận động, phát triển của sự vật hiện
tượng, đôi khi có vai trò to lớn. Song, trong mối quan hệ đó yếu tố bên trong
luôn giữ vai trò cơ bản, quyết định đến sự vận động, phát triển của chính sự
vật hiện tượng đó. Do vậy, đối với mỗi quốc gia dân tộc thì sự tồn tại, phát
triển của dân tộc do chính “nội lực” của dân tộc đó quyết định, sự giúp đỡ của
quốc tế là cần thiết quan trọng; bởi vậy, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là
nhân tố quyết định đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát
triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ con đường giải phóng là phải: nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, “đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”1. Ngay từ năm 1921, khi viết Tuyên ngôn của Hội Liên
hiệp thuộc địa Người chỉ rõ: Công cuộc giải phóng của anh em, chỉ có thể thực hiện
được bằng nỗ lực của bản thân anh em. Theo Người, cần phải chống tư tưởng trông
chờ, ỷ lại bên ngoài, bởi vì: nếu một dân tộc cứ ngồi chờ người khác đến giúp đỡ
mình thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập. Song, theo Người: độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường không có nghĩa là “đóng cửa” là “khép kín” mà lại phải
hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, vì cách mạng Việt Nam cũng
là một “bộ phận của cách mạng thế giới”.
Chính tư tưởng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường mà từ khi tìm đường cứu
nước, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Với ý chí
1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995 tr 554.



3

sắt đá, tinh thần yêu nước nồng nàn và phương pháp độc lập, tự chủ; qua hơn 10
năm nghiên cứu tìm tòi, xem xét đối chiếu, so sánh các con đường cứu nước theo tư
tưởng phong kiến, hay ngọn cờ dân chủ tư sản... đều không được thực tiễn lịch sử
chấp nhận. Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn và khẳng định dứt khoát: con đường cứu
nước chỉ có thể trên lập trường của giai cấp vô sản; Người nói: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1.
Quán triệt sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
hơn 70 năm qua trong hoạt động lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng quan
điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế luôn
luôn là hai mặt thống nhất trong đường lối cũng như trong hoạt động thực tiễn chỉ
đạo cách mạng của Đảng ta.
Ngay từ khi Đảng ra đời (3/2/1930) trong “Chính cương vắn tắt” và “Sách
lược vắn tắt” Đảng đã chỉ rõ phải thực hiện đoàn kết toàn dân với công nông là gốc
cách mạng, học trò nhà buôn, điền chủ nhỏ... là “bầu bạn” cách mạng . Đồng thời,
phải hết sức liên lạc với vô sản giai cấp và nhân dân lao động toàn thế giới, tạo sức
mạnh tổng hợp để làm cách mạng.
Thời kỳ 1930 - 1945, là khoảng thời gian đặc biệt trong tiến trình lịch
sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là khoảng thời giai đầy những cam
go thử thách của một Đảng vừa mới ra đời trong lòng xã hội thuộc địa nửa
phong kiến. Trong thời kỳ này tuy có sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản, nhưng
nếu không có sự nỗ lực trong Đảng, luôn nêu cao tinh thần chủ động, tự lực,
tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, thì hiển nhiên phong trào cách
mạng không thể phát triển được, tạo nên những cao trào cách mạng 19301931, 1936-1939 và 1939-1945 tiến lên giành thắng lợi to lớn trong cách
mạng tháng Tám 1945, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh dân
tộc. Thắng lợi đó bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng, con đường
1


Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG. Hà Nội, 1995, tr.314.


4

giành chính quyền phù hợp với điều kiện lịch sử, phát huy nội lực của cả dân
tộc: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1
kết hợp chặt chẽ và tranh thủ tốt nhất những yếu tố tác động của cách mạng
thế giới để thực hiện giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến. Đảng luôn nắm vững tình hình cách
mạng, thế giới và trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ, chỉ đạo của Quốc tế cộng
sản một cách sáng tạo không máy móc dập khuôn, máy móc . Nêu cao ý chí
tự lực, tự cường đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản, các
Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, để nhanh chóng khôi phục phong
trào cách mạng(sau thời kỳ 1932-1935). Thời kỳ 1936 - 1939, nắm bắt sự tác
động của cách mạng thế giới và sự phát triển của mặt trận dân chủ thế giới
chống phát xít, chống chiến tranh bảo vệ hòa bình, Đảng đã phát động mọi
phong trào đấu tranh rộng lớn nhằm mục tiêu dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà
bình, xây dựng được lượng hùng hậu cho cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), nhân dân ta phải vượt
qua bao khó khăn thử thách, nhất là những năm đầu của cuộc kháng chiến. Do hoàn
cảnh đặc biệt, kẻ thù ở ngay trên đất nước ta, chúng bao vây phong toả, gây sức ép..
Các mối liên hệ Quốc tế, mọi nguồn viện trợ hầu như chưa có. Bắng tinh thần tự lực
cánh sinh tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 2. Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối và tổ chức
thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) điều kiện
đất đã khác trước: miền Bắc được giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã

1
2

1. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nsb CTQG, Hà Nội 1995, tr.554.
2 Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nsb CTQG, Hà Nội 1995, tr 48.


5

hội, trở thành hậu phương lớn của cả nước. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, nhân dân yêu chuộng hoà bình và giải phóng dân tộc trên thế giới
tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Cùng với sự
viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi tăng thêm sức
mạnh cho đất nước. Nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn trên cơ sở của ý trí độc lập, tự
chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường không chông chờ ỷ lại dựa dẫm để phải chịu sức ép
lệ thuộc từ bên ngoài.

Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở

hai miền trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong chỉ đạo,
xây dựng lực lượng, phát triển kháng chiến về mọi mặt. Đồng thới, hết sức tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh
thắng đế quốc Mỹ, xâm lược.
Sau khi nước nhà thống nhất, Đảng quyết định đưa cả nước quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Quyết định đó đáp ứng xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài
người, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Đó còn là sự lựa chọn của chính lịch sử,
của Đảng và Bác Hồ từ những năm 20 của thế kỷ XX. Trong mười năm (19751985) là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo mô hình
thống nhất trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Viện trợ của các nước anh em vẫn tiếp
tục nhưng hiệu quả thấp; cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp đã làm cho nền kinh tế
kém năng động, trong chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội Đảng ta đã phạm sai lầm chủ

quan duy ý trí, vi phạm các qui luật khách quan do đó kinh tế chậm phát triển hàng
hoá khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; sử dụng viện trợ còn lãng
phí, đầu tư không tập trung. hiệu quả vốn vay thấp, quan hệ kinh tế quốc tế còn hạn
hẹp cho nên đã làm cho kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng.
Bước sang thời kỳ đổi mới (1986 - đến 2001), trước diễn biến phức
tạp, của tình hình cách mạng thế giới, trước sự khủng hoảng và phong trào cải
tổ, cải cách... ở các nước xã hội chủ nghĩa, một lần nữa Đảng ta lại nêu cao
tinh thần độc lập,tự chủ, tự lực, tự cường, cả trong xác định đường lối và chỉ


6

đạo công cuộc đổi mới. Phát huy cao độ tinh thần, sức mạnh của dân tộc vừa
tranh thủ những tác động tích cực của thế giới trong hoàn cảnh mới, đưa đất
nước vượt qua thử thách vững bước tiếp tục đi lên theo con đường chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy tư tưởng độc lập,tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại luôn là tư tưởng nhất quán và thống nhất trong
cả đường lối và thực tiễn tổ chức hoạt động chỉ đạo cách mạng của Đảng, là
một trong những bài học chủ yếu, một trong những nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua.
Ngày nay, tình hình cách mạng thế giới và trong nước có những diễn
biến mới và phức tạp:
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học... đang có bước phát triển nhảy vọt, thúc
đẩy hình thành nền kinh tế tri thức làm biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng tất yếu khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều các nước, các dân tộc các vùng lãnh thổ tham gia.Thế giới
đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không có một quốc gia, dân tộc
nào có thể tự giải quyết nếu không có sức hợp tác quốc tế; các vấn đề dân tộc,

tôn giáo, ô nhiễm môi trường, nạn khủng bố... đang là thách thức mới đối với
thế giới. Trong đó khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát triển
năng động, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố dễ gây bất ổn định.
Ở trong nước, cách mạng nước ta đang đứng trước cơ hội, vận hội lớn:
Vị thế và uy tín của đất nước ngày một nâng cao, thế và lực của cách mạng đã
mạnh lên nhiều qua 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cơ sở vật chất kỹ
thuật được tăng cường, tiềm năng về tài nguyên và lao động, trí tuệ con người


7

Việt Nam ngày càng được khẳng định, tình hình chính trị - xã hội ổn định,
quốc phòng - an ninh ngày càng được tăng cường...
Bên cạnh lợi thế cơ bản đó, chúng ta cũng đang đứng trước nhiều khó
khăn, những thách thức lớn; đó là các nguy cơ mà Đảng đã từng cảnh báo
như: nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế sơ với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra
nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục
tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch
vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn
lật đổi, sử dựng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Thực tiễn tình hình thế giới,
trong nước đòi hỏi Đảng phải phát huy, vận dụng tốt hơn bài học kinh nghiệm
truyền thống của Đảng trong lãnh đạo cách mạng là kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. Theo phương hướng chung là kết hợp chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp lợi thế nguồn lực trong
nước với nguồn lực ngoài nước để tạo sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước.
Tổng kết thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng, nắm bắt đặc điểm

tình hình thế giới và trong nước, Đại hội VI(12/1986) của Đảng, đã rút ra 4
bài học kinh nghiệm trong đó có bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh ngoài nước...
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, được thông qua tại Đại hội VII(6/1991), khẳng định: “Ngày nay trước
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dận tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cách mạng khoa học và công


8

nghệ và quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới càng cần phải kết hợp chặt
chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại
để đưa đất nước tiến lên”
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996), khẳng định: tiếp tục thực hiện chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hóa với
tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên tinh thần đó, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 (khoá VIII) đã chỉ rõ nguyên tắc hội nhập quốc tế phải:
Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút
các nguồn lực bên ngoài.
Văn kiện Đại hội IX(4/2001) của Đảng, tiếp tục khẳng định: “đổi mới
phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, “phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững”.
Trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay, xác định vấn
đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
là hoàn toàn đúng. Hai mặt đó quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho
nhau làm phát triển kinh tế nước nhà vững mạnh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Quan niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu
khác nhau nên có nhiều quan niệm khác nhau về xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ trong quá trình hội nhập Quốc tế:
Quan niệm thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách
hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có
khả năng tự thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội; của quốc


9

phòng - an ninh và quá trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình
thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia.
Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các
quốc gia có đầy đủ nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý
tưởng, qui mô thị trường quốc gia đủ lớn, có trình độ phát triển cao về khoa
học-công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể
tồn tại và phát triển được.
Quan niệm thứ hai, cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá, mở cửa hội
nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén,
không tức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một
thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tham gia quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, điều quan trọng nhất là làm gì, làm thế nào để có được hiệu quả
kinh tế cao, thu được nhiều lợi nhuận, có tích luỹ theo nền kinh tế, không việc
gì phải rụt rè, cần phải tích cực chủ động trong thực hiện tự do hoá thương
mại, có cơ chế không thoáng nhất để thu hút đầu tư và tiếp nhận càng được
nhiều vốn, kỹ thuật bên ngoài càng tốt.
Quan niệm trên, mới nghe thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm

kỹ thì thấy không có cơ sở khoa học, vì nó quá giản đơn và phiến diện. Chúng
ta biết rằng, độc lập tự chủ là xu thế phát triển của thế giới. Trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức tạp như hiện
nay lại càng phải giữ vững độc lập tự chủ.
Quan niệm thứ ba, đồng nhất nền kinh tế độc lập tự chủ với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho rằng bản thân nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm đầy đủ tốt chất của nền kinh


10

tế độc lập tự chủ, vậy nên không cần phải nói đến kinh tế độc lập tự chủ, coi
đó là nhận thức, là định hướng, là nguyên tắc chỉ đạo xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn trong thực tế không nên đặt ra
những chính sách qui định riêng về nó.
Những quan niệm trên tuy có khía cạnh đúng, nhưng lại nhấn mạnh
một chiều, gây ra cách hiểu hoặc thiếu đầy đủ hoặc sai lệch kinh tế độc lập tự
chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng nền độc lập tự chủ. Quan niệm
về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhất là từ Đại hội VI đến
nay.
Đại hội VI của Đảng (12.1986) được tiến hành khi đổi mới đã trở
thành yêu cầu bức xúc và là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Với tinh
thần trách nhiệm cao trước toàn Đảng, toàn dân, Đại hội đã thẳng thắn nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá rõ những sai lầm khuyết. Đại hội VI đã có bước
đột phá, đề ra đổi mới toàn diện, tư duy mới về kinh tế của Đại hội là thừa
nhận sự tồn tại khách quan của qui luật sản xuất hàng hoá và của thị trường.
Những quan điểm quan trọng của Đại hội VI là bước mở đường của những tư

duy mới về kinh tế được hình thành và hoàn thiện, trong đó có nội dung về
kinh tế độc lập tự chủ. Đó chính là những luận điểm:
Để có nền kinh tế thật sự vững mạnh và không ngừng phát triển phải
xây dựng được chương trình hành động cụ thể, đặc biệt phải đảm bảo cho đủ
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho xã hội, bảo đảm lợi ích cho
người lao động, cho tập thể và cho Nhà nước.


11

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng thông
thoáng ở trong nước và mở cửa với bên ngoài.
Nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Thị trường xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất
trong cả nước và từng bước vào thị trường thế giới. Bởi vậy, kiên quyết đoạn
tuyệt với sợ chia cắt, khép kín về kinh tế.
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 1991-2000. Cương lĩnh nêu rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa của nước ta. Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, những quan niệm những
đặc trưng về chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội đã
được hình thành trên những nét chủ yếu nhất. Cơn chấn động chính trị to lớn
trên thế giới với sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã
tác động sâu sắc đến nước ta. Chúng ta phải tăng cường sức mạnh kinh tế trên
cơ sở phát huy nội lực, đồng thời mở rông quan hệ hợp tác, phá thế bị bao vây
cấm vận tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Kinh nghiệm rút
ra từ thực tiễn những năm tháng đó thực sự là những bài học lớn với việc
hình thành và từng bước hoàn thiện quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ của Đảng ta.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đã nêu rõ những quan điểm chỉ đạo:

“Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi
với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập
với khu và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn


12

phương án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực
tổ chức hiện có. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung
thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực và các địa bàn trọng điểm, đồng thời
quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, kết hợp kinh tế
với quốc phòng, an ninh”1. Như vậy, Đại hội VIII đã có những quan điểm có
tính đồng bộ hơn về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó là:
Đã nêu rõ quan điểm giữ vững độc lập tự chủ đi đối với mở rộng hợp
tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Đây là kết quả tư
duy mới trên cơ sở nắm bắt xu hướng quốc tế hoá kinh tế, phân công hợp tác
quốc tế.
Xác định rõ tính chất của kinh tế nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới. Như vậy, từ chỗ định hình kinh tế nước ta là kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Đại hội VI, VII, Đại hội VIII đã nêu bật việc tham gia vào xu thế quốc tế hoá,
toàn cầu hoá kinh tế, cụ thể là hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Xác định chiến lược phát triển hội nhập kinh tế là kết hợp giữ việc
hướng mạnh về xuất khẩu với việc thay thế nhập khẩu, bảo đảm đáp ứng nhu
cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt trong nước.
Bước đầu mô hình hoá nền kinh tế độc lập tự chủ là: cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sán xuất, bảo đảm cho giữ vững ổn định chính trị,

củng cố quốc phòng - an ninh.
Đã nêu bật những mục tiêu và bước đi cho 5 năm trước mắt cũng như
lâu dài. Những mục tiêu định tính và định lượng cũng như những bước đi và
giải pháp được đề ra vừa là những lời giải cho bài toàn phát triển kinh tế, vừa
1

ĐCSVN (1996), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 184, 86


13

là luận cứ cho việc hoàn thiện quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế là:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiêu phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường an ninh - quốc phòng” trích dẫn
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Đại hội
IX đã có sự bổ sung hoàn chỉnh hơn, điều đó được biểu hiện trên một số mặt:
Thứ nhất, Đảng ta khẳng định tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, điều này xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp cách
mạnh nước ta, phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế không phải là một chủ trương nhất thời, một phản ứng tự vệ,

giải phóng đối phó tính thế, mà trên cơ sở nhận biết tình hình và quy luật
khách quan, Đảng ta vận dụng quy luật một cách chủ động.
Thứ ba, độc lập tự chủ về kinh tế Đảng ta luôn đặt trong mố quan hệ
biện chứng với độc lập tự chủ về chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.


14

Như vậy, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế được Đảng đề ra không chỉ xuất phát từ quan
điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ, mà còn xuất phát từ tình hình thực
tiễn, nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững, có hiệu quả cho nền kinh tế
cũng như cho việc chủ động mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm của
Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế là một bước phát triển về lý luận, vừa là sự kế tục những luận cứ của
các Đại hội trước.
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị Mác - Lênin,
quan điểm đường lối chính sách của Đảng, đồng thời có kế thừa, phát triển
các quan niệm nêu trên, tác giả luận văn xin được nêu quan niệm về xây dựng
nền kinh tế độc lập chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta nhằm làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững, hiệu quả
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thực lực kinh tế đủ mạnh, sức cạnh
tranh cao, cơ cấu kinh tế hợp lý có khả năng huy động được nguồn vốn trong,
ngoài nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế thành công.
Nội dung, đặc trưng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Chúng ta biết rằng độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản
để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị và tăng cường độc lập tự chủ của quốc
gia. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc


15

lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các mặt khác
sẽ tạo ra độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Vậy nội
dung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam hiện nay là:
Thứ nhất, độc lập tự chủ về kinh tế, trước hết phải nói đến độc lập tự
chủ về đường lối, chính sách phát triển, một nền kinh tế phát triển bền vững,
không bị lệ thuộc vào nước khác, hoặc vào tổ chức quốc tế nào đó về đường
lối, chính trị, định hướng phát triển, vào những điều kiện kinh tế, chính trị mà
họ áp đặt cho ta, gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân
tộc.
Thứ hai, độc lập tự chủ về kinh tế luôn đặt trong mối quan hệ biện
chứng
-Về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Độc lập tự chủ là một xu thế phát triển của thế giới. Trong điều kiện
“toàn cầu hoá” liên doanh liên kết rất đa dạng phức tạp như hiện nay lại càng
phải giữ vững tính độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ hoàn
toàn không phải là thiếu nhạy bén, bảo thủ, tư duy cũ.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan
điểm, đường lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn
nhằm bảo đảm sự độc lập tự chủ về chính trị, đảm bảo cho sự phát triển bền

vững có hiệu quả của chính nền kinh tế và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì phải xây dựng một nền kinh tế độc
lập tự chủ để khẳng định quyền độc lập, tự chủ của quốc gia. Đó là kinh
nghiệm của nước ta cũng như các nước khác. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh phức tạp với sự chống phá điên
cuồng của các thế lực thù địch. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập


16

tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, lôi kéo khống chế ép ta thay đổi chế độ chính trị, làm
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ chính là
xây dựng cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập
tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất đảm bảo cho độc lập tự
chủ về chính trị. Sẽ không có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về
kinh tế. Bởi vậy độc lập tự chủ về kinh tế phải đặt trong mối quan hệ biện
chứng với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác.
Vậy nền kinh tế độc lập tự chủ là gì?
Đó là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác hoặc
một tổ chức kinh tế nào. không bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế, tài
chính viện trợ... gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia dân tộc. Nền kinh tế độc
lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường, trước khủng
hoảng kinh tế tài chính bên ngoài nó vẫn có khả năng duy trì sự ổn định và
phát triển; trước sự bao vây cô lập chống phá của kẻ thù nó vẫn có thể đứng
vững, không bị rối loạn, sụp đổ.
Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là phải giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, giữ vững các giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc
trong quá trình phát triển kinh tế. Vấn đề giữ vững độc lập tự chủ phải được
xác định ngay từ đầu chứ không chờ đến khi đạt trình độ cao mới đặt vấn đề
độc lập tự chủ. Đồng thời, cần nhận rõ việc xây dựng một nền kinh tế độc lập

tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao ngày càng hoàn chỉnh.
Nhưng trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không có
nghĩa là khép kín, tự cung tự cấp. Bởi vậy, độc lập tự chủ phải đặt trong mối
quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, hợp tác cạnh tranh quốc tế; trên cơ
sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia, nhằm từng bước
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh.


17

Muốn giữ vững được độc lập tự chủ về kinh tế cần đảm bảo những
điều kiện hết sức quan trọng đó là: phải có đường lối chính trị, đường lối,
chính sách xây dựng, phát triển kinh tế độc lập tự chủ và phải có thực lực
kinh tế đủ mạnh. Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế tức là ta phải
tự lựa chọn định hướng đi, xác định chủ trương chính sách, mô hình kinh tế,
không bị lệ thuộc, chịu sức ép của bên ngoài. Với tinh thần đó, Đại hội IX của
Đảng (4/2001) đã xác định đường lối kinh tế của nước ta là: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát
huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập quốc tế phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Có thực lực kinh tế đủ mạnh là: phải tạo ra giá trị sản xuất trong nước
phải đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, có tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế cho tái sản xuất mở rộng; phải có thể chế kinh tế - xã hội bền vững,
cơ cấu kinh tế gắn với cơ cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh và có
khả năng tạo ra sức cạnh tranh có hiệu quả. đáp ứng yêu cầu thị trường trong

nước, chiếm lĩnh giữ vững thị trường ngoài nước; đảm bảo nhịp độ tăng
trưởng nhanh, ổn định, bền vững.
Phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để có thể làm
chủ công nghệ nhập khẩu và có khả năng sáng tạo công nghệ mới Việt Nam,
bảo đảm trao đổi bình đẳng về kinh tế và công nghệ với nước ngoài, đặc biệt
trong điều kiện hiện nay khi sức cạnh tranh kinh tế ngày càng dựa vào thế
mạnh và khả năng về khoa học và công nghệ. Khoa học công nghệ đã thực sự


18

trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Giữ được ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài chính, tiền tệ lành
mạnh, cán cân thương mại bảo đảm, có dự trữ ngoại tệ cần thiết...
Phải có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cho phát
triển như: an ninh lương thực, an toàn năng lượng, môi trường... đồng thời,
phải có một số cơ sở công nghiệp nặng làm nền tảng tạo sức mạnh phát triển
công nghiệp quốc gia để có thể đương đầu với các tình huống phức tạp như:
bao vây cấm vận, chiến tranh xâm lược...
Muốn có thực lực kinh tế đủ mạnh thì chúng ta phải đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, trong suốt thời kỳ quá độ. Có đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa mới tạo ra cơ sở, vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra thực lực
của đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.
Về hội nhập kinh tế quốc tế:
Nhận thức đúng tình hình thế giới trong giai đoạn mới, Đảng ta đã
khẳng định nước ta cần chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thực tế
chúng ta đã và đang tham gia tích cực và có hiệu quả. Đảng nhấn mạnh yêu
cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội

nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta luôn xác định hội nhập kinh tế quốc tế là một
nội dung trong đường lối kinh tế, đường lối đối ngoại của Đảng. Kết hợp nội
lực với ngoại lực để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đáp ứng yêu cầu lợi ích quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế
để phát huy vai trò tiềm năng của nước ta trong quá trình hợp tác quốc tế,
tranh thủ nguồn vốn vật tư, khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý,


19

mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác quốc tế cùng có lợi, làm cho nước ta
phát triển ngày càng nhanh và bền vững. Tránh quan điểm nhìn vấn đề hội
nhập mở cửa chỉ thấy mặt trái, mặt tiêu cực do đó chỉ muốn đóng cửa, khép
kín, không dám mở rộng, trong hợp tác kinh tế quốc tế.
Nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế mà có thể tham gia
từng bước là mở cửa thị trường thương mại đầu tư và dịch vụ.
Về hình thức của hội nhập có cả đa phương và song phương. Ta có thể
vừa tham gia các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập
quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học... với từng nước.
Vừa tăng cường tham gia các tổ chức kinh tế thế giới, khu vực vừa
không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước các vùng lãnh thổ.
Thực tế thế giới cho ta thấy hợp tác song phương gắn chặt với đa phương, hợp
tác song phương phải dựa theo các qui định, của hợp tác đa phương. Nếu
không tham gia các tố chức đa phương thì rất khó khăn trong quan hệ song
phương. Các quan hệ đa phương vừa đưa lại lợi ích kinh tế trực tiếp vừa đưa
lại lợi ích khác như sự liên kết trong Khối các nước đang phát triển cùng đấu
tranh, bảo vệ lợi ích chung, chống sự áp đặt, bất bình đẳng từ các nước phát
triển
Nguyên tắc cơ bản, bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế là phải

bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
vững chắc an ninh quốc gia, giữ vững giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ và cải thiện môi trường. Phải giữ vững nguyên tắc bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Hội nhập kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích của
đất nước, giữ vững độc lập tự chủ và sự cân bằng trong các mối quan hệ,
tránh sự lệ thuộc một chiều bị động.


20

Hội nhập kinh tế phải nắm vững phương châm chủ động; vừa hợp tác
vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mền dẻo nhằm bảo vệ được lợi ích chính
đáng của đất nước, của từng thành phần kinh tế , từng doanh nghiệp, từng
người lao động của dân tộc ta. Đồng thời, tranh thủ được các thời cơ thuận
lợi. trong bất cứ tình huống nào cũng phải luôn luôn chủ động. Phải chủ động
trong xác định chủ trương, chính sách, nội dung, mức độ, lộ trình (bước đi)...
trong hội nhập không để bị lôi cuốn thúc ép...
Đồng thời, phải thường xuyên cảnh giác trước những âm mưu thủ
đoạn của các thế lực thù địch muốn dùng quan hệ kinh tế, thương mại để
“diễn biến hoà bình” với ta.
Muốn tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao cần làm tốt
các vấn đề sau:
Phải không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế, của
từng đơn vị sản xuất kinh doanh, từng mặt hàng sản phẩm. Bởi trong nền kinh
tế thị trường, sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa được biểu hiện tập
trung ở chất lượng, hiệu quả, giá cả của sản phẩm.
Thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức quản lý để tạo điều kiện
môi trường đầu tư sản xuất tốt hơn đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước, nhằm làm tăng sức cạnh tranh và giữ vững vai trò nòng cốt trong
hội nhập kinh tế, ngăn chặn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến

chèn ép, hiện tượng “cá lớn nuốt cá bé”.
Xây dựng và thực hiện một lộ trình hội nhập phù hợp với tình hình thế
giới và đặc điểm tiềm năng của kinh tế Việt Nam khi tham gia hợp tác quốc
tế. Chỉ có một lộ trình hợp lý những bước đi đúng và vững chắc mới đưa lại
hiệu quả cao cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.


21

Đồng thời, phải tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nguồn nhân lực
đặc biệt với những người trực tiếp làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý
sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm
vụ. Đặc biệt chủ trọng bồi dưỡng cho họ nắm vững đường lối chủ trương của
Đảng chính sách pháp luật Nhà nước và nâng cao phẩm chất đạo đức, tình độ
chuyên môn nghiệp vụ cần thiết theo yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Nguyên tắc tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế được Đảng ta chỉ rõ
trong quan điểm chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc tế của Bộ Chính trị
(27/11/2001) là:
1. Quán triệt chủ trương được khẳng định tại Đại hội IX là: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế đảm bảo độc lập tự chủ... bảo vệ môi trường”.
2.Hội nhập kinh tế quốc là sự nghiệp của toàn dân phải phát huy mọi
tiềm năng nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội trong đó kinh
tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vừa
có nhiều cơ hội và không ít thách thức do đó phải tỉnh táo linh hoạt khôn
khéo... vừa đề phòng tư tưởng trì trệ thụ động, vừa chống giản đơn nóng vội.
4.Phải nhận thức đầy đủ đặc điểm của nền kinh tế nước ta để có kế
hoạch, lộ trình hợp lý phù hợp trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng
các qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế vừa tranh thủ những ưu đãi giành

cho các nước đang phát triển và chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung bao cấp
sang kinh tế thị trường.
5. Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế với quá trình và yêu cầu
giữ vững an ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh


22

đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để “diễn biến
hoà bình” với nước ta.
Như vậy, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ nguồn lực bên ngoài ,
kết hợp nội lực với ngoại lực tạo sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước là
quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng trong thời kỳ đổi mới và đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam thực hiện chủ trương quan
điểm đúng đó, trong những năm đổi vừa qua chúng ta đã giành những thành
tựu đáng tự hào: sản xuất nông nghiệp, phát triển vững chắc. Tính bình quân
từ 1986 - 2001, sản lượng lương thực tăng 1 triệu tấn/năm. Với sản lượng
năm 1986 là 18,37 triệu tấn đến năm 2001 đặt 35,4 triệu tấn. Trong công
nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định ở
mức13%/năm từ 1986 - 2001. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nhờ thực hiện
đa dạng hoá đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nên tuy thị
trường truyền thống (Liên Xô cũ và Đông Âu) biến động song ta đã tham gia
nhiều tổ chức quốc tế, quan hệ với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ (ta có
quan hệ buôn bán với 170 quốc gia và vùng lãnh thổ). Từ 1991 - 2000 kim
ngạch xuất khẩu tăng bình quân 19,25%/năm.
Lĩnh vực dịch vụ phát triển nhanh và đa dạng. Đặc biệt cơ cấu kinh tế
có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Đặc biệt đến nay (năm 2003), Việt Nam vẫn được đánh giá là một

trong các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh loạt hàng đầu (7%/năm).
Tóm lại: Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy cao
độ nội lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài,
kết hợp nội lực với ngoại lực, phát triển đất nước chính là sự vận dụng, phát


23

triển sáng tạo bài học kinh nghiệm về kết hợp sức mạnh thời đại trong giai
đoạn cách mạng mới. Chỉ có trên cơ sở chủ động hội nhập kinh tế quốc tế mới
có điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ và chỉ có độc lập
tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội
lực và ngoại lực tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng nước Việt
Nam giàu mạnh và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa./.
Bổ xung
1. Quan niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
-ở nước ta do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên có
nhiều quan niệm khác nhau về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập Quốc tế:
Quan niệm thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách
hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có
khả năng tự thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội; của Quốc
phòng - an ninh và quá trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình
thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia [32,tr.19].
Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các
quốc gia có đầy đủ nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý
tưởng, qui mô thị trường quốc gia đủ lớn, có trình độ phát triển cao về khoa
học-công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể

tồn tại và phát triển được.
Quan niệm thứ hai, cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá, mở cửa hội
nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén,
không tức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một


24

thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tham gia quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, điều quan trong nhất là làm gì, làm thế nào để có được hiệu quả
kinh tế cao, thu được nhiều lợi nhuận, có tích luỹ theo nền kinh tế, không việc
gì phải rụt rè, cần phải tích cực chủ động trong thực hiện tự do hoá thương
mại, có cơ chè không thoáng nhất để thu hút đầu tư và tiếp nhận càng được
nhiều vốn, kỹ thuật bên ngoài càng tốt.
Quan niệm trên, mới nghe thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy ngẫm
kỹ thì thấy không có cơ sở khoa học, vì nó quá giản đơn và phiến diện. Chúng
ta biết rằng, độc lập tự chủ là xu thế phát triển của thế giới. Trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức tạp như hiện
nay lại càng phải giữ vững độc lập tự chủ.
Quan niệm thứ ba, đồng nhất nền kinh tế độc lập tự chủ với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho rằng bản thân nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm đầy đủ tốt chất của nền kinh
tế độc lập tự chủ, vậy nên không cần phải nói đến kinh tế độc lập tự chủ, coi
đó là nhận thức, là định hướng, là nguyên tắc chỉ đạo xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn trong thực tế không nên đặt ra
những chính sách qui định riêng về nó[15, tr.34].
Những quan niệm trên tuy có khía cạnh đúng, nhưng lại nhấn mạnh
một chiều, gây ra cách hiểu hoặc thiếu đầy đủ hoặc sai lệch kinh tế độc lập tự
chủ.

-Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng nền độc lập tự chủ. Quan niệm
về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc


25

tế đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhất là từ Đại Hội VI đến
nay.
Đại Hội VI của Đảng(12.1986) được tiến hành khi đổi mới đã trở
thành yêu cầu bức xúc và là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Với tinh
thần trách nhiệm cao trước toàn Đảng, toàn dân, Đại hội đã thẳng thắn nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá rõ những sai lầm khuyết. Đại hội VI đã có bước
đột phá, đề ra đổi mới toàn diện, tư duy mới về kinh tế của Đại hội là thừa
nhận sự tồn tại khách quan của qui luật sản xuất hàng hoá và của thị trường.
Những quan điểm quan trọng của Đại hội VI là bước mở đường của những tư
duy mới về kinh tế được hình thành và hoàn thiện, trong đó có nội dung về
kinh tế độc lập tự chủ. Đó chính là những luận điểm:
+ Để có nền kinh tế thật sự vững mạnh và không ngừng phát triển phải
xây dựng được chương trình hành động cụ thể, đặc biệt phải đảm bảo cho đủ
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho xã hội, bảo


×