Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học ý NGHĨA THỰC TIỄN của mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA lực LƯỢNG sản XUẤT và QUAN hệ sản XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182 KB, 29 trang )

Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Cùng với việc phát hiện quy luật giá trị thặng dư, Mác đã phát hiện ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trong đó lí luận hình thái kinh tế – xã hội là nền tảng. Lí
luận này nhằm vạch ra quy luật vận động, phát triển chung nhất của xã hội loài
người. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi vô cùng to lớn, sâu sắc, nhưng
nguyên lí về hình thái kinh tế – xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thời
đại.
Sản xuất vật chất là hoạt động đặc thù của con người và của xã hội loài
người. Sản xuất xã hội cấu thành từ các hoạt động cụ thể: sản xuất của cải vật
chất, sản xuất của cải tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Sản xuất
xã hội nói chung và sản xuất ra của cải vật chất nói riêng là những hiện tượng xã
hội khách quan. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh xã hội không thể tồn
tại được nếu không có quá trình thường xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Trong sản xuất xã hội, sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng.
Từ trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người đã tạo ra những
mối quan hệ xã hội của chính con người. Trong quan hệ xã hội, quan hệ giữa
người với người trong sản xuất vật chất (quan hệ sản xuất) là cơ bản nhất, giữ vai
trò quyết định. Chính quan hệ này tạo ra cơ sở kinh tế xã hội, tức là cơ sở hiện
thực của những quan hệ chính trị, tinh thần… của xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình hoạt động lao động của người lao động.
Trong quá trình đó, người lao động sử dụng công cụ lao động thích hợp tác động
vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của mình. Trong
sản xuất vật chất, con người không chỉ tạo ra những tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng
hàng ngày mà điều quan trọng là sản xuất ra tư liệu sản xuất.
Trong quá trình sản xuất xã hội, con người quan hệ với nhau nhưng chính
là để quan hệ với giới tự nhiên, nhằm biến đổi tự nhiên, trên cơ sở đó biến đổi


2


đời sống xã hội và biến đổi chính bản thân mình nữa. Ăngghen viết: “lao động là
điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một
mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản
thân con người”1.
Để sản xuất ra của cải vật chất, con người phải quan hệ với giới tự nhiên.
Quan hệ này được biểu hiện thành lực lượng sản xuất. Đồng thời, con người phải
quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất. Quan hệ này được biểu hiện thành
quan hệ sản xuất. Đây là quan hệ “kép” khách quan, phổ biến trong lịch sử sản
xuất vật chất của loài người.
Lực lượng sản xuất vật chất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của
một phương thức sản xuất, có mối quan hệ biện chứng. Nhận thức đúng đắn mối
quan hệ biện chứng ấy sẽ có tác dụng to lớn trong sự nghiệp xây dựng kinh tế và
cải tạo xã hội.
1. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nghiên cứu chủ nghĩa duy vật lịch sử chúng ta hiểu phương thức sản xuất
là biểu hiện cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, là sự thống nhất giữa lực lượng
sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Trong đó, lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà
Mác gọi là “quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của
con người với tự nhiên và quan hệ của con người với con người.
Lực lượng sản xuất lần đầu tiên được Mác nêu từ năm 1848 trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng nội dung của tác phẩm được ông nêu sâu sắc
thêm trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, “Lao động làm thuê và tư
bản”, “Tiền công và lợi nhuận” và đặc biệt là trong bộ “Tư bản”. Lực lượng sản
xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên là sự thống nhất hữu cơ
giữa lao động đã được tích luỹ và lao động sống, nghĩa là toàn bộ những yếu tố
1

Mác và Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,1994, t, 20, tr. 641.



3

vật và người của nền sản xuất cần thiết để từ những đối tượng của tự nhiên sản
xuất ra những vật có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con người. Lực
lượng sản xuất bao gồm người lao động với những kỹ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất
phụ thuộc các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, mà người lao động là yếu tố
quan trọng nhất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại”1.
Người lao động giữ vị trí số một, là chủ thể tích cực, sáng tạo có vai trò
quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, người lao động với lao động cơ
bắp và lao động trí tuệ, cùng quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí
tuệ hình thành phát triển cùng với lao động, làm cho lao động ngày càng có hàm
lượng trí tuệ cao hơn; con người chế tạo ra các công cụ lao động, cải tiến đối
tượng lao động và chính con người quyết định việc sử dụng các phương tiện,
công cụ lao động và nguyên vật liệu trong sản xuất. Không có con người với trí
tuệ, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động thì cũng không có bất cứ tư liệu lao
động và quá trình lao động nào. Công cụ lao động dù có hiện đại đến đâu cũng là
sản phẩm của đôi bàn tay và khối óc của con người, với bản chất của con người
là hoạt động có mục đích và sáng tạo, bằng trí tuệ và các công cụ sản xuất mới
nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng
của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, đưa nền
văn minh của xã hội loài người chuyển từ thấp đến cao, tự nó cũng đã nói lên
tính vô tận và sức mạnh vô cùng to lớn của trí tuệ con người.
Trình độ người lao động thể hiện ở sự khéo léo, ở kỹ năng, kỹ xảo, kinh
nghiệm mà mỗi người lao động tích luỹ, rút kinh nghiệm và đặc biệt nhất là
trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào quá trình sản xuất. Khi sự phát triển của cách mạng công nghiệp, cách mạng
khoa học kỹ thuật, rồi cách mạng công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp, cũng như để sử dụng có hiệu quả những thành tựu do các cuộc cách mạng
1

V.I Lênin: toàn tập , Nxb tiến bộ ,Mãtcơva, 1977, tập 38, tr 430


4

đó đem lại trình độ năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng
cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và
được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm tỷ lệ không đáng kể ở
thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay ở các nước phát triển, đối với một
số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và
được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90%, vật liệu, năng lượng, lao
động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10 - 20% tổng giá trị sản phẩm 2. Hiện nay, với tốc
độ phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang đưa
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế tri
thức. Ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỷ lệ cao, nguồn lợi
mà họ thu được từ chất xám chiếm 1/2 giá trị tài sản quốc gia. Ví dụ, ở Nhật Bản
riêng nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40% 3. Giờ đây, sức mạnh của trí
tuệ đạt tới mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt
trước” hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Bằng những
kỹ thuật - công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra mà nhân
loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trước
đây, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên. Ngày nay, đối
tượng lao động còn là sản phẩm của lao động, của khoa học - công nghệ mà hàm
lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm, không phụ thuộc một cách tiên
quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên mà phụ thuộc chủ yếu vào con người với
năng lực trí tuệ cao. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao

động, trong đó công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất và cách mạng nhất.
Công cụ lao động là kết tinh trí tuệ của con người, do con người chế tạo ra,
nhưng khi sử dụng nó đã thiết thực giúp con người nối dài bàn tay và các giác
quan của mình. Do đó, trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình
độ tự nhiên của con người, là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, do sự
2
3

tạp trí triết học , số 3,năm 2003, tr 22
tạp trí triết học, số 1,năm 1993, trang24


5

hoàn thiện của công cụ sản xuất đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong lực
lượng sản xuất và dẫn tới những cải biến trong xã hội, những sự thay đổi trong
các quan hệ sản xuất, các hình thái kinh tế xã hội. Để giảm bớt lao động nặng
nhọc và nâng cao năng xuất lao động, con người không ngừng cải tiến, hoàn
thiện và chế tạo ra những công cụ sản xuất mới. Ngày nay, quá trình tự động hoá
ở nhiều nước phát triển đã ở vào giai đoạn cao, công cụ lao động ngày càng hiện
đại. Do vậy, đòi hỏi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ để sử
dụng được những công cụ hiện đại đó.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ càng cao thì phân công lao động ngày
càng chuyên sâu, quy mô sản xuất càng mở rộng, việc ứng dụng kỹ thuật hiện
đại vào sản xuất ngày càng phổ biến. Khi sản xuất dựa trên kỹ thuật cơ khí hiện
đại, nhiều người lao động cùng tham gia vào một dây truyền sản xuất, mỗi người
đảm nhận một khâu trong dây truyền đó, tính chuyên môn hoá ngày càng sâu thì
lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá ngày càng rộng. Ngược lại, khi
trình độ người lao động còn thấp, sử dụng công cụ thủ công là chủ yếu, phân
công lao động kém phát triển, mỗi người có thể đảm nhiệm tất cả các khâu của

quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất mang tính cá thể.
Qua nghiên cứu lịch sử chúng ta thấy, lực lượng sản xuất nhất là công cụ
sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, có ý nghĩa quyết định năng xuất
lao động, nhưng công cụ chỉ có thể trở nên “sống động” phát huy được tác dụng
khi kết hợp được với nhân tố con người, bởi vì ngay từ thời kỳ mà công cụ sản
xuất hoàn toàn là thủ công thì nó đã không ngừng được con người cải tiến, sử
dụng các chất liệu khác nhau, làm ra nhiều kiểu dáng khác nhau cho phù hợp với
đều kiện cụ thể cho quá trình lao động sản xuất được dễ dàng hơn và năng xuất
cao hơn. Khi khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì các
công cụ và các phương tiện ngày càng phong phú, đa dạng, các thế hệ máy móc
được đổi mới, hoàn thiện rất nhanh chóng và tính chất xã hội hoá ngày càng cao,
nhiều sản phẩm công nghiệp hiện nay từ khi sản xuất từng chi tiết đến khi được


6

lắp ráp hoàn chỉnh là sự kết hợp liên kết sản xuất của nhiều nhà máy, nhiều công
ty, thậm trí được thực hiện ở rất nhiều nước khác nhau trên thế giới .
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa con người
với con người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra,
song nó được hình thành một cách khách quan, không hoàn toàn tuân theo ý
muốn chủ quan của con người. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng những
phải quan hệ với tự nhiên, dựa vào tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất, từng
bước nâng cao điều kiện sống của mình mà còn phải quan hệ với nhau, do đó sản
xuất bao giờ cũng mang tính xã hội. Vì vậy, Mác viết: “Trong sản xuất người ta
không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động
với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ
của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ những
mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”4.

Như vậy, trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người dù muốn
hay không cũng buộc phải thực hiện các mối quan hệ nhất định với nhau. Quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất trên ba mặt cơ bản:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ về phân phối kết quả sản xuất
Ba nội dung trên là ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng
vai trò quyết định.
Về mặt quan hệ đối với tư liệu sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất nói lên rằng: trong quá trình sản xuất, người lao động đang sử dụng
những tư liệu sản xuất đó là của ai và ai là người có quyền định đoạt tư liệu sản
4

C.Mác và Ăngghen,toàn tập, tập 6, Nxb chính trị quốc gia hà nội 1993,tr 552


7

xuất đó, hoặc là quan hệ sở hữu phản ánh quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất
chứa đựng các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Các quyền
này có thể hợp nhất trong một chủ thể, cũng có khi tách rời nhau và thuộc các
chủ thể khác nhau, nhưng quyền định đoạt có tính quyết định bao giờ cũng thuộc
về người sở hữu.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai
trò quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất. Cho nên, quan hệ
sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản
xuất. Chính nó quyết định mục đích, hình thức tổ chức kinh doanh, phương thức
quản lý, chi phối việc phân phối sản phẩm làm ra, tức là quyết định địa vị của

các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội. Trong xã hội có phân chia
giai cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai
cấp đó nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội, nắm quyền thống trị xã hội.
Tuy nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
thì quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có vai trò
rất quan trọng.
Quá trình phát triển của lịch sử xã hội cho ta thấy có hai loại hình sở hữu
cơ bản đối với tư liệu sản xuất đó là sở hữu công cộng và sở hữu cá nhân. Cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động của xã hội đã làm
cho các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên đa dạng.
Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất thấp kém, đối
với con người giá trị tự nhiên là thần bí, xa lạ. Để chống đỡ với những hiện
tượng tự nhiên và tồn tại, con người phải dựa vào nhau. Các hoạt động kinh tế
chủ yếu mang tính chất chiếm đoạt các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên như săn
bắt, hái lượm. Do vậy, chỉ có một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu công cộng
của thị tộc, bộ lạc. Nhưng từ xã hội nô lệ qua xã hội phong kiến đến xã hội tư
bản, do lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng
sâu sắc thì các hình thức sở hữu khác ra đời và ngày càng phong phú, đó là sở


8

hữu tư nhân, sở hữu Nhà nước và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng có nhiều loại khác nhau, đó là sở hữu nhỏ
của những người nông dân, của các thợ thủ công cá thể, sở hữu của các chủ nô
lệ, các điền chủ thời phong kiến và sở hữu của các nhà tư bản. Các hình thức sở
hữu tư nhân trên đây đã hàm chứa các kiểu quan hệ sản xuất khác nhau giữa
người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho
xã hội, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hiện nay, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất có thêm nội dung và tính chất

mới đó là sở hữu trí tuệ. Bởi, tri thức đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu,
các nhân tố sản xuất truyền thống như đất đai, lao động và tư bản không bị mất,
nhưng tầm quan trọng của nó không còn như cũ, các yếu tố sản xuất truyền
thống phân theo quy luật lợi nhuận giảm dần, còn tri thức lại tạo ra cơ chế lợi
nhuận tăng dần. Trong nền kinh tế tri thức, trí tuệ là nguồn lực cơ bản nhất của
quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, thì người đó có khả năng điều tiết và chi phối sự
phát triển của xã hội theo mục tiêu và lợi ích của mình. Điều quan trọng hơn là
trong xã hội tri thức, người lao động làm thuê được quyền sở hữu công cụ sản
xuất - trí tuệ của bản thân họ. Mác đã có phát kiến vĩ đại cho rằng: người công
nhân không có nhà máy và không thể sở hữu tư liệu sản xuất, do vậy bị “tha
hoá”. Ông chỉ rõ, người công nhân không thể sở hữu máy hơi nước và không thể
lấy máy hơi nước đi cùng với mình, khi họ chuyển từ công việc này sang công
việc khác. Nhà tư bản cần phải sở hữu động cơ hơi nước và cần phải kiểm soát
nó. Thế nhưng, những đầu tư thực sự trong xã hội tri thức không phải vào máy
móc hay công cụ, mà chính vào người công nhân trí thức, không có người công
nhân trí thức thì cho dù máy móc có hiện đại và tinh vi đến đâu chăng nữa cũng
không thể hoạt động được.
Về quan hệ trong tổ chức và quản lý, chúng ta thấy rằng: thích ứng với
một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định.
Trong các chế độ mà nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản


9

xuất thì người sở hữu tư liệu sản xuất là kẻ bóc lột, còn người lao động không có
tư liệu sản xuất là người bị quản lý và bị bóc lột. Điển hình của sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội loài người phải kể đến ba loại
hình là: sở hữu chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Trong các chế độ xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ công hữu thì
mọi thành viên đều có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân

phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã từng tồn tại trong buổi
đầu của xã hội loài người - chế độ công xã nguyên thuỷ và trong chế độ cộng sản
chủ nghĩa mà loài người đang hướng tới mà giai đoạn đầu của nó là xã hội chủ
nghĩa.
Thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong chế độ cộng sản chủ
nghĩa, thực hiện bình đẳng trong tổ chức quản lý và các mặt quan hệ khác là một
quá trình, chỉ có thể thực hiện từ thấp đến cao thông qua nhiều bước trung gian
quá độ.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ đối với tư liệu sản xuất, nhưng trong thực tế
quan hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trò rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở
hữu chưa có gì thay đổi nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn
phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy mô,
tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế, khi lợi ích của người lao động mâu thuẫn với
chủ sở hữu và quản lý nếu quan hệ tổ chức được điều chỉnh, mâu thuẫn được
tháo gỡ thì quan hệ trên mang tính hợp tác, dân chủ hơn, do vậy có thể khai thác
được tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
Quan hệ phân phối sản phẩm là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho
những người có quan hệ với quá trình sản xuất, điều đó phụ thuộc vào quan hệ
của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu rất đa dạng nên phương thức
phân phối cũng rất phức tạp. Chính ở những khía cạnh này đã bộc lộ những mâu
thuẫn về lợi ích giữa những người tham gia vào quá trình sản xuất, cho nên đã
xuất hiện các quan hệ khác nhau trong cách thức phân phối. Trong lịch sử phát


10

triển của xã hội, người ta đã từng biết tới các phương thức phân phối gắn với chế
độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất thuộc giai cấp chủ nô, của giai cấp địa chủ
phong kiến và giai cấp tư sản. Dưới chế độ bóc lột, người lao động bị chèn ép, bị
bóc lột và quan hệ phân phối là không bình đẳng. Sống dưới chế độ tư bản người

lao động được tự do về thân thể, tự do đi làm thuê, việc phân phối được tính theo
chi phí sản xuất hàng hoá và nó được xác định thông qua thị trường. Mác đã bóc
trần cách phân phối mà ở đó nhà tư bản đã chiếm đoạt giá trị thặng dư của người
công nhân, ở đó tuy người lao động tự do về thân thể, nhưng lại bị trói chặt hơn
vào guồng máy kinh tế tư bản và phương thức phân phối mang tính bóc lột trở
nên tinh vi hơn, được che đậy kín hơn.
Trong ba nội dung trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, nó chi phối các mặt khác của quan hệ sản
xuất. Khi chế độ sở hữu thay đổi căn bản thì chế độ quản lý phân phối cũng thay
đổi theo. Chẳng hạn, khi chế độ sở hữu công cộng kiểu thị tộc bộ lạc được thay
thế bằng chế độ sở hữu tư nhân, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ thì quan hệ quản lý
không như trước nữa, mà tính chất thống trị, chuyên chế và quan hệ phân phối
mang tính chất bất bình đẳng có lợi cho kẻ nắm giữ tư liệu sản xuất.
Từ sau chế độ công xã nguyên thuỷ, nền kinh tế xã hội tồn tại nhiều hình
thức quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, phản ánh trình độ
khác nhau của lực lượng sản xuất. Giữa nhiều mối quan hệ tác động qua lại của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, Mác và Ăngghen đã nhận thấy có một
mối quan hệ bản chất tất yếu, mối quan hệ này xác lập quy luật liên hệ giữa hai
mặt của nền sản xuất, đó là quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này
xuất phát từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, phải lấy lực lượng sản xuất làm
chuẩn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất Mác viết: “trong
đời sống xã hội, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc


11

vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất”5. Đó chính là yêu cầu của quy

luật, là sợi dây liên hệ quy định sự hình thành của quan hệ sản xuất và tất yếu
dẫn đến quan hệ sản xuất phải thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất,
nếu không có sự phù hợp thì các mối quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất là không xác định, không có “điểm tựa” ràng buộc lẫn nhau giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất nhất định.
Các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất cũng tác động qua lại lẫn nhau làm
cho quan hệ sản xuất vận động, nhưng chậm chạp hơn so với vận động của lực
lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất mang tính thể chế, tính pháp luật nên
tương đối ổn định. Trong khi, lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, phát
triển. Cho nên, nó sẽ tạo ra mâu thuẫn, phá vỡ mối quan hệ tương đối ổn định
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hiện thời, tạo ra một phương thức
sản xuất mới thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đó là mâu thuẫn tích cực, mâu
thuẫn do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Sự phù hợp của quy luật đòi
hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác viết: “tới một giai đoạn
phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của
những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ
trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển”6. Trong tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” Mác và Ăngghen viết: “chúng ta vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất
và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân, ở những giai đoạn công
nghiệp nhất định. Trong công nghiệp khai khoáng, sở hữu tư nhân còn hoàn toàn
ăn khớp với lao động cũng như trong công nghiệp nhỏ và trong toàn bộ nông
nghiệp. Cho tới nay, sở hữu là hiệu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện
có. Trong công nghiệp lớn, mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân
5
6

C.Mác và Ăngghen tuyển tập, gồm 6 tập, tập 2 Nxb sự thật hà nội,1981 tr637
C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15



12

là sản phẩm của một nền công nghiệp đã đạt đến một trình độ phát triển cao mới
có thể tạo ra mâu thuẫn ấy”7. Quan hệ sản xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển, nhưng khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp, mâu
thuẫn với lực lượng sản xuất thì khi đó: “từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu của một cuộc cách mạng xã hội”8. Khi đã mâu thuẫn,
quan hệ sản xuất trở thành những ràng buộc, cản trở gây khó khăn cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ, đã lỗi
thời bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất mang tính kế thừa, là kết quả của sự phát triển kinh tế
xã hội loài người. Các thế hệ sau khi ra đời đã có những lực lượng sản xuất do
thế hệ trước để lại. Đó là, cơ sở hạ tầng, công cụ sản xuất và những tri thức mà
thông qua đào tạo lớp người sau có thể học tập sử dụng các tư liệu lao động đã
có, tiếp tục sáng tạo ra những tư liệu lao động mới. Từ tính khách quan của lực
lượng sản xuất và tính quyết định của nó đối với quan hệ sản xuất, con người
không thể tuỳ tiện tạo lập một quan hệ sản xuất theo ý muốn chủ quan, cho dù
điều đó là hết sức tốt đẹp về đạo lý, là nguyện vọng của con người luôn hướng
tới. Ngược lại, người ta cũng không thể duy trì một quan hệ sản xuất đã lạc hậu,
để bảo vệ lợi ích của một số người trong xã hội. Mác đã chỉ ra: “không một hình
thái xã hội nào diệt vong trước khi các lực lượng sản xuất trong hình thái xã hội
đó tạo ra được đầy đủ cơ sở cho hình thái kinh tế xã hội mới ra đời và những
quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã
hội cũ”9.


C.Mác và Ăngghen, tuyển tập, gồm 6 tập , t 1,Nxb sự thật ,hà nội 1980,tr 332
C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15
9 C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 16
7
8


13

Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lòng xã hội phong kiến đã dẫn
đến sự ra đời của sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất và cùng với nó các
quan hệ phân phối, quản lý tổ chức của nền kinh tế tư bản ra đời, thay thế quan
hệ sản xuất phong kiến. Sự tồn tại và biến đổi quan hệ sản xuất là do lực lượng
sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất như thế nào, thì quan hệ sản xuất như
thế ấy. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, nó không ngừng biến đổi, bởi vì
trong quá trình sản xuất, người lao động dần dần tích luỹ được kinh nghiệm
nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của mình. Họ tìm cách cải tiến công cụ sản xuất để
làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất vì chính lợi ích của mình. Đạt được
những kết quả xã hội đó, chính là nhờ sự phát triển của lực lượng sản xuất và
phụ thuộc vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất mà trong đó quan hệ kinh tế giữa
người với người trong xã hội cũng biến đổi. Mác viết: “những quan hệ xã hội
đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực
lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do
thay đổi phương thức sản xuất... loài người thay đổi tất cả những quan hệ sản
xuất xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái
cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”10. Trong
các nước tư bản chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và lực
lượng sản xuất đã phá bỏ cái vỏ chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản trong buổi
bình minh của nó. Các hình thức sở hữu ngày càng càng được đa dạng hóa và
thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan
hệ sản xuất có tính độc lập tương đối của nó, điều này được biểu hiện: quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy, ngược lại,
khi không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

10

C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 4,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1995,tr 187


14

Ngày nay, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản xuất
đồ sộ, tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu
thuẫn này phát triển đến độ ngày càng gay gắt.


15

Để khắc phục những mâu thuẫn này, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện quá
trình điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế, chính sách xã hội, ứng dụng khoa
học kĩ thuật và công nghệ mới, hi vọng có thể điều hoà được những mâu thuẫn
đang phát sinh. Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế,
…., nên mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản mà cơ bản là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chưa bùng nổ bằng một cuộc cách mạng xã
hội. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết triệt để bằng cách mạng xã hội,
chứ không thể giải quyết được bằng sự điều hoà, điều chỉnh, thích nghi.
Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp của quan hệ sản xuất

với lực lượng sản xuất cũng tồn tại khách quan, bên trong của nền sản xuất vật
chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Phát triển là một quá trình không
ngừng phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Chính vì thế, chủ nghĩa xã
hội phải thường xuyên đổi mới, cải cách, cải tổ để giải quyết sự không phù hợp,
đem lại sự phù hợp mới của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn
được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của quá trình sản xuất vật chất. Vì
vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn phải tiến hành thường xuyên, tiên
tục. Không thực hiện theo kiểu chiến dịch, vì qui luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất là qui luật xã hội thông qua hoạt động của con người, cho
nên, việc phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bao giờ cũng phụ thuộc
vào nhân tố chủ quan đó là: trí tuệ, bản lĩnh và năng lực tổ chức thực hiện.


16

Dù phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
luôn thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác
động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục tiêu xã hội của sản xuất, khuynh
hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành hệ thống những yếu tố
hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Tác dụng thúc đẩy
hay kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất của quan hệ sản xuất chỉ có ý
nghĩa tương đối. Với sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất khi không còn phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ bị thay thế bằng một
kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải
giải quyết, nhưng con người không phát hiện được hoặc phát hiện mà không giải
quyết được hay do sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, thì tác
dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực
lượng sản xuất.

Trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, sự tác động trở lại của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế –
xã hội khác, đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người là do tác động của hệ
thống các quy luật xã hội và tự nhiên, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.


17

Trong chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là khách quan, do đó yêu cầu phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn
cũng là khách quan. Cho đến nay, tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa không phải từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà từ những
nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình và thấp hoặc chưa trải qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa theo sự phát triển của lịch sử. Mặt khác, với xu hướng toàn cầu
hoá ngày càng mở rộng, lực lượng sản xuất đã được quốc tế hoá lại càng đòi hỏi
chúng ta vận dụng sáng tạo phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, chủ quan, duy ý chí trong xây dựng và
phát triển kinh tế.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng và đi đến sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu là do nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân cơ bản
là các Đảng cầm quyền ở các nước đó không nắm vững về mặt lí luận của phép
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, không vận dụng một
cách sáng tạo và trí tuệ lí luận này vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện mới và điều kiện cụ thể mỗi nước. Vì vậy, trong cải cách kinh tế một
đòi hỏi thực tế khách quan đặt ra là, phải luôn tìm ra những hình thức, những
bước đi phù hợp để đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng của lực lượng sản

xuất trong điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều này phải được thực hiện
thường xuyên, nghiêm túc, khoa học.
2. Ý nghĩa thực tiễn.
Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga đã mở ra một thời đại mới trong
lịch sử nhân loại. Những thành tựu to lớn mà loài người đã tạo nên sau thắng lợi
của cách mạng tháng Mười có ý nghĩa thời đại sâu sắc: Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã đưa nhân loại đến với một nền văn minh
mới – văn minh trí tuệ. Các thành tựu mà loài người đã đạt được nhờ sự phát
triển của nền văn minh nhân loại đã làm cho bộ mặt của thế giới ngày càng thay


18

đổi. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới xen lẫn với sự khủng hoảng
lớn của chủ nghĩa tư bản, sự phân hoá giàu nghèo trên thế giới đang diễn ra ngày
càng gay gắt, cùng với những diễn biến phức tạp của thế giới, ở nước ta cũng có
những biến đổi to lớn: sự nghiệp đấu tranh giành lại độc lập - tự do, thống nhất
Tổ quốc, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, những thắng lợi nổi bật của thời kì đổi mới đã đưa nước ta dần
thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
kì tích của những người cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong hoàn
cảnh chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng xã
hội chủ nghĩa lâm vào thoái trào. Chính những thành tựu đó đã làm cho chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam không những vượt qua được khủng hoảng mà còn tạo
ra thế mới, lực mới để tiếp tục phát triển. Có được những thành tựu to lớn như
vậy là nhờ Đảng ta biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đặc biệt là nhận thức ngày càng sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đề ra đường lối chiến lược, sách lược
trong xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với tình hình đất nước
trong từng giai đoạn cụ thể.

Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ năm 1954 đến nay cho thấy: Sự thất bại
của Liên Xô và các nước Đông Âu trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội là do
các Đảng cầm quyền chưa nhận thức đúng về quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, trong xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chủ yếu
dựa theo mô hình tập trung quan liêu như Lênin đã chỉ ra đó là: “một thứ không
tưởng quan liêu chủ nghĩa”. Thừa nhận sản xuất và lưu thông hàng hoá về mặt lí
luận, nhưng phủ nhận về mặt thực tế bằng chế độ tập trung quan liêu, bao cấp và
cho rằng, nền kinh tế có càng nhiều xí nghiệp quy mô lớn, càng phát triển nhanh
chế độ công hữu, càng thống nhất quản lí tập trung bao cấp thì càng sớm đi lên
chủ nghĩa xã hội. Những nhận thức không đúng này đã dẫn tới xoá bỏ hình thái


19

kinh tế hàng hoá trên thực tế, làm cho mọi hoạt động hoạch toán kinh tế, các hoạt
động kế toán, tài chính, ngân hàng mất hết nội dung kinh tế. Do đó, chủ nghĩa xã
hội không còn là kết quả tự nhiên của quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất
một cách tự giác. Nó đã bất lực trong giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội đặt
ra. Chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đó không chứng minh được tính ưu việt của
mình, trái lại rơi vào tình trạng lạc hậu so với chủ nghĩa tư bản, cũng như bất cứ
sự vật nào, chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế của nó cũng có quá trình phát sinh,
phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu không xuất phát từ điểm bắt
đầu từ đâu và đi tới đâu với các mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử sẽ
làm cho sự lãnh đạo kinh tế của Đảng kém hiệu quả và phải trả giá. Thực tế, mô
hình kinh tế của chủ nghĩa xã hội từ 1917 đến nay đã có nhiều mô hình: Mô hình
“Cộng sản thời chiến” (1917-1921), mô hình “Chính sách kinh tế mới” (19211924) và mô hình “Xô Viết” từ 1928 đến trước ngày tan rã. Lênin đã nhìn thấy
khiếm khuyết của mô hình “Cộng sản thời chiến” đã thay bằng mô hình “Chính
sách kinh tế mới” với kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được đưa ra thị trường
và coi trọng ba lợi ích. Với mô hình “Chính sách kinh tế mới” mà Lênin đã đưa

ra là một sự đổi mới rất cơ bản quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Nhưng những
người kế tục Lênin đã loại bỏ “Chính sách kinh tế mới” (NEP) và thay thế vào
đó mô hình “Xô Viết” với những sai lầm rất cơ bản như đồng nhất hợp tác hoá
với tập thể hoá, áp dụng biện pháp kế hoạch hoá triệt để làm mất đi động lực
trong kinh tế. Coi mô hình “Xô Viết” như là cái bất biến suốt từ những năm 1930
đến mãi những năm 1980, khi chìm đắm trong khủng hoảng mới đặt vấn đề cải
tổ. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của cơ chế kinh tế và sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Thực tiễn, ở Việt Nam từ 1954 đến nay đã khẳng định công cuộc đổi mới
của Đảng ta bắt đầu từ những thành tựu lớn lao và cả từ những hậu quả của
những sai lầm nghiêm trọng kéo dài nhiều năm trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội.


20

Sau hoà bình lập lại năm 1954, nền kinh tế miền Bắc nước ta vốn đã rất
lạc hậu lại bị nhiều năm chiến tranh tàn phá nên ở trong tình trạng tiêu điều. Nền
kinh tế lúc này chủ yếu là kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu thương,
tiểu chủ còn chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế quốc dân. Trước tình hình đó, Hội
nghị Trung ương lần thứ 14 (11-1958) đã ra quyết định ba năm 1958 – 1960 lấy
cải tạo làm trọng tâm. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhiều thành phần là tất
yếu vì từ một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải tiến hành cải biến cách mạng về mọi mặt cả về quan hệ sản xuất lẫn lực
lượng sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng, nhưng chúng ta đã
không quy định các bước đi cụ thể. Sau những chiến dịch ồ ạt, gò ép đến cuối
năm 1960: 85% hộ nông dân với 70% diện tích ruộng đất đã hợp tác hoá và tập
thể hoá, 77% hộ làm muối, 67% hộ thủ công nghiệp vào hợp tác xã, 97% tổng số
hộ tư sản đã vào công tư hợp doanh, tạo ra một kiểu “chủ nghĩa xã hội thật trong
sạch”. Điều này được lặp lại trong quá trình cải tạo ở các tỉnh phía Nam từ sau

khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (91960) quyết định chuyển sang lấy xây dựng làm trọng tâm với “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ”. Đường lối Đại hội III được cụ thể hoá trong các Nghị quyết Trung
ương lần thứ 5 (7-1961) về nông nghiệp, lần thứ 7 (6-1962) về công nghiệp, lần
thứ 10 (12-1964) về thương nghiệp giá cả. Thực hiện Nghị quyết Đại hội III và
các Nghị quyết Trung ương đã thu được nhiều thắng lợi, hàng loạt xí nghiệp mới
ra đời, tốc độ phát triển công nghiệp tăng 20% hàng năm. Nhưng nội dung, bước
đi của công nghiệp hoá, phương hướng phát triển các ngành công nghiệp nặng
không rõ, chưa lấy công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Cho nên, trong tổ chức
thực hiện đã làm cho cái ưu tiên chi phối tất cả các ngành kinh tế khác do tập
trung quá lớn cho công nghiệp nặng, với nhận thức càng nhiều quốc doanh càng
tốt. Đến cuối năm 1965 tỷ trọng trong công nghiệp quốc doanh đã đạt tới 91,4%
dẫn đến việc tập trung quá mức sản xuất và phân phối trong tay Nhà nước.


21

Tháng 8 – 1964 đế quốc Mĩ bắt đầu phát động chiến tranh phá hoại miềm Bắc,
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3 – 1965), lần thứ 12 (12 – 1965) quyết định
chuyển hướng kinh tế, lấy nông nghiệp, thủ công nghiệp làm trọng tâm, phân tán
các xí nghiệp lớn, phát triển công nghiệp địa phương nhằm bảo vệ sản xuất và
hậu cần tại chỗ cho chiến tranh. Thực hiện những Nghị quyết đó, nền kinh tế xã
hội được giữ vững, có mặt được tăng cường. Cùng với sự viện trợ không hoàn lại
của các nước, đời sống nhân dân được ổn định. Nhưng nó cũng phát sinh hậu
quả tiêu cực sau chiến tranh, đó là tâm lí ỷ lại bên ngoài, thiếu sự tự lực, tự
cường trong xây dựng kinh tế. Mặt khác, nó cũng làm đảo lộn nề nếp quản lí
bước đầu đã được xây dựng mà nhiều năm sau vẫn chưa khôi phục được. Đại đội
lần thứ IV năm 1976 với tư duy mới trong kinh tế đã được hình thành tập trung ở
đường lối chung và đường lối kinh tế trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, Hội nghị
Trung ương lần thứ 6 (9 – 1979) đã đề ra biện pháp khắc phục yếu kém trong

quản lí kinh tế sản xuất “bung ra” đúng hướng, do đó tính năng động trong sản
xuất kinh doanh đã phát huy mạnh mẽ. Nhưng nôn nóng, vội vàng, không làm rõ
đặc điểm kinh tế của đất nước với những khó khăn trong tình hình mới để xác
định cơ cấu, chỉ tiêu đúng đắn, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
của thời kì chiến tranh. Đại hội lần thứ V (1982) đã đánh giá đúng mức những
thành tựu và phê phán những thiếu sót, sai lầm, đồng thời xác định nước ta đang
ở chặng đường đầu của thời kì quá độ. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 8 (khoá
V) về giá - tiền – lương và Nghị quyết Dự thảo Bộ chính trị 306 đã tập trung giải
quyết những mắt xích quan trọng, những khâu đột phá của nền kinh tế. Nhưng
tất cả các Nghị quyết đó đều không được thực hiện đúng đắn, cơ cấu sản xuất, cơ
cấu đầu tư không điều chỉnh mà vẫn tham quy mô lớn, nôn nóng trong cải tạo,
không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa cụ thể.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế Đảng ta đã phạm một số
sai lầm, khuyết điểm: nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều trong vận dụng cơ


22

chế kinh tế, chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất đi trước mở đường tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Biểu hiện rõ nhất ở việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa diễn ra một cách nóng vội về mặt thời gian, ồ ạt về số lượng và diện rộng,
muốn xóa bỏ ngay và hết các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, dẫn đến
các biện pháp thực hiện gò ép hướng tới mục tiêu chủ quan, bất chấp quy luật
khách quan là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong khi nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ, cá
thể dựa trên kỹ thuật thủ công, nhưng lại muốn xã hội hóa nhanh về quan hệ sản
xuất. Chính sự không phù hợp đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển trong
nhiều năm.
Trong nhận thức về quan hệ sản xuất chúng ta chưa nhận thấy rõ sự tác

động của cả ba nội dung là thống nhất biện chứng, cho nên, chỉ nhấn mạnh đến
quan hệ sở hữu, đẩy nhanh quá trình xây dựng kinh tế quốc doanh và tập thể hóa
kinh tế cá thể. Trong khi quản lý lại mất dân chủ, phân phối lại mang tính chất
bình quân, chỉ chú ý đến lợi ích Nhà nước, chưa coi trọng khuyến khích vật chất
đối với người lao động. Vì vậy, đã dẫn đến hậu quả là thiết lập chế độ sở hữu
chung kiểu “cha chung không ai khóc” dẫn đến sử dụng nguồn lực của nền kinh
tế kém hiệu quả.
Những hạn chế trên đây đều xuất phát từ nhận thức giản đơn, giáo điều về
một mô hình chủ nghĩa xã hội. Trước đây, khi nói về một mô hình chủ nghĩa xã
hội, chúng ta thường nói đến chế độ sở hữu là quá trình biến tư liệu sản xuất trở
thành sở hữu toàn dân và tập thể, cuối cùng đi đến một hình thức sở hữu duy
nhất là sở hữu toàn dân, từ đó dẫn đến công hữu hóa hàng loạt, càng nhanh càng
tốt. Như vậy, xét về thực chất là chưa nhận thức đúng quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chính điều này đã vô tình
tách quan hệ sản xuất ra khỏi lực lượng sản xuất. Sai lầm đó đã dẫn đến cuộc
khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm 80 của thế kỉ XX ở Việt Nam và
ở tất cả các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, điển hình là ở Liên Xô.


23

Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nước có nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm chiến tranh, buộc Đảng ta phải đổi
mới cả trong nhận thức lý luận, cũng như thực tiễn xây dựng quan hệ sản xuất
sao cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 với sự tỉnh táo
cách mạng, Đảng ta đã thấy được sai lầm trong việc sử dụng cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp; thấy cần thiết một cuộc đổi mới cơ chế
kinh tế, đổi mới tư duy và Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện, đồng
bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng phải có bước đi

thích hợp, trước hết là phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Từ đó,
nước ta đã chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của công cuộc đổi mới trong quá trình xây dựng và phát triển
quan hệ sản xuất ở nước ta từ năm 1986 đã được Đảng ta nhận thức ngày càng
đúng đắn và đầy đủ hơn. Nước ta đang trong quá trình tiến lên từ một nền sản
xuất nhỏ tới một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đó là quá trình chuyển từ nền
kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nền kinh tế
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà tồn tại khách quan trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đúng như Lênin đã từng khẳng định trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những mảnh, những thành
phần của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng các hình thức sở hữu,
nhưng hình thức công hữu đối với tư liệu sản xuất phải giữ vai trò chủ đạo chi
phối trong toàn bộ nền kinh tế là điều kiện cần thiết ở nước ta hiện nay. Có nghĩa
là chúng ta phát triển kinh tế nhưng phải giữ được bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế là giải
phóng sức sản xuất, phát huy tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho sự


24

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường vận động theo quy luật
khách quan của nó, tất yếu sẽ phát huy tác dụng thúc đẩy các đơn vị kinh tế
hướng vào mục tiêu là phân phối và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế có
hiệu quả. Đồng thời, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Vì
vậy, Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, có chính sánh điều tiết

nền kinh tế vĩ mô, hướng các mục tiêu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nhấn mạnh: “muốn đưa
nền kinh tế thoát khỏi rối ren, mất cân đối, dứt khoát phải sắp xếp lại nền kinh tế
quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các vùng, các thành phần kinh tế ... phải
được bố trí cân đối, đan kết với nhau phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho
nền kinh tế phát triển ổn định”10.
Để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, phải mở rộng quan hệ hàng hóa
tiền tệ, tạo cho sản xuất hàng hóa phát triển, cần có sự đa dạng hóa các loại hình
sở hữu và gắn với nó là sự tham gia hoạt động của nhiều chủ thể kinh tế thuộc
các thành phần kinh tế khác. Đây là vấn đề có tính quy luật đòi hỏi chúng ta phải
tôn trọng, có chủ trương, chính sách, biện pháp hợp lí trong sử dụng sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa
ra quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần: “đi đôi phát triển nền kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và
tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác”11.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6 - 1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh đã chỉ ra mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng với 6 đặc trưng
cơ bản là.
10
11

Văn kiện đại hội Đảng VI,tr 47
Văn kiện đại hội Đảng VI,tr 56


25

- Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là do nhân dân lao động làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách
kinh tế và các công cụ khác. Đại hội lần thứ VII của Đảng đòi hỏi, phải phát huy
cho được “thế mạnh của các thành phần kinh tế” trong thời kỳ quá độ ở nước ta
là: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản Nhà nước, các thành phần kinh tế này “vừa cạnh tranh vừa hợp tác bổ
sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”. Nhằm tạo ra sự đa dạng
hóa trong sản xuất kinh doanh mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế phát triển.
Nhà nước khuyến khích mọi người kinh doanh sản xuất làm giàu chính đáng,
nhưng sẽ thông qua chính sách điều tiết thu nhập và các chính sách bảo hiểm,
bảo trợ xã hội để giảm bớt chênh lệch về thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp dân
cư. Bằng cách đó Nhà nước sẽ thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo trong từng bước đi và trong suốt quá trình
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó cũng là yêu cầu cơ bản hàm chứa cả nội
dung kinh tế và chính trị, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nếu chỉ nhấn mạnh đến công
bằng xã hội mà không thấy sự kích thích từ lợi ích kinh tế sẽ làm triệt tiêu sự



×