Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chế độ pháp lý đối với văn phòng công chứng theo quy định pháp luật hiện hành.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.77 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CHV & CCDTPK
-----***-----

BÀI TIỂU LUẬN
Chuyên đề: Chế độ pháp lý đối với văn phòng công chứng theo quy
định pháp luật hiện hành.

Họ và tên: Đàm Thị Kim Hạnh
Sinh ngày: 13/12/1958
Lớp: 12C
SBD:

Hà Nội, ngày 05 tháng 08 năm 2011
1


LỜI MỞ ĐẦU
Sau bốn năm thi hành Luật công chứng (01/7/2007- 01/7/2011), tình hình phát
triển của mô hình Văn phòng công chứng hoạt thấy hoạt động công chứng trên phạm
vi cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã có những bước tiến rõ rệt, thực
hiện có hiệu quả lộ trình từng bước chuyển giao việc công chứng các hợp đồng, giao
dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng theo hướng dẫn tại điểm 8 của Thông tư
số 03/2008/TT- BTP ngày 08/9/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 79/2007/NĐ- CP, nhằm chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng để phục
vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu công chứng của công dân, tổ chức, đáp ứng yêu cầu
cải cách hành chính trong tình hình mới. Như vậy, việc “xã hội hóa” hoạt động công
chứng theo tinh thần của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật về
công chứng đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện cho thấy
các quy định của pháp luật về Văn phòng công chứng đã bộc lộ những bất cập cần
phải sửa đổi, bổ sung để từng bước hoàn thiện mô hình Văn phòng công chứng, với


mong muốn đưa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế
trong lĩnh vực công chứng. Để đi sâu nghiên cứu vấn đề này, tôi xin lựa chọn đề tài:
“Chế độ pháp lý đối với văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật hiện
hành” để làm bài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về chế độ pháp lý đối với Văn phòng công chứng.
1. Sự hình thành mô hình tổ chức Văn phòng công chứng.
Văn phòng công chứng là một trong hai hình thức tổ chức hành nghề công
chứng được quy định tại Điều 23 của Luật công chứng. Mô hình tổ chức Văn phòng
công chứng được hình thành trên cơ sở thực tiễn và ly luận sau đây:
- Thực tiễn hoạt động công chứng trong thời gian trước khi có sự xuất hiện mô
hình Văn phòng công chứng cho thấy nhu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân ngày
càng gia tăng về số lượng, yêu cầu công chứng của công dân, tổ chức đòi hỏi văn

2


bản công chứng phải đạt chất lượng cao nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp
đồng, giao dịch, trong khi sự phát triển về số lượng của các Phòng công chứng
không theo kịp do địa phương hạn chế về kinh phí, cơ sở vật chất và các điều kiện
khác ... để có thể thành lập thêm Phòng công chứng, dẫn đến nhu cầu công chứng bị
quá tải; bên cạnh đó, Công chứng viên là công chức nhà nước, việc bổ nhiệm Công
chứng viên phụ thuộc vào chỉ tiêu biên chế nên việc phát triển đội ngũ Công chứng
viên gặp rất nhiều khó khăn. Thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác công chứng
đã được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của bộ Chính chị là “xây dựng mô
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan
công chứng thích hợp; có bước đi thích hợp để từng bước xã hội hoá công việc
này”.
- Nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị
trường thì việc xã hội hoá hoạt động công chứng là chủ trương của Đảng và Nhà

nước là phù hợp với thực tiễn, chủ trương đó thể hiện rõ là Nhà nước ta đã ban hành
Luật công chứng, theo đó là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ,
ngành có liên quan đến công tác công chứng ra đời nhằm từng bước xã hội hóa hoạt
động công chứng, đảm bảo phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu công chứng của công
dân, tổ chức, góp phần thúc đẩy quá trình cải cách hành chính trong tình hình mới.
- Việc quy định Văn phòng công chứng do công chứng viên không phải là
công chức nhà nước thành lập phù hợp với mô hình công chứng Latin, phù hợp với
xu thế phát triển của công chứng nhiều nước tiến bộ trên thế giới; công chứng viên
không phải là công chức nhà nước nhưng do nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm. Văn
phòng công chứng không phải là cơ quan hành chính nhà nước mà là một loại hình
doanh nghiệp hoạt động dưới dạng là tổ chức nghề nghiệp, nhưng Công chứng viên
lại được nhà nước bổ nhiệm để thực hiện việc công. Một số quốc gia đã theo mô
hình công chứng nhà nước thuần tuý cũng có một thời kỳ quá độ tồn tại cả hai mô
hình công chứng nhà nước và công chứng hành nghề tự do như Trung Quốc, Nga,

3


Ba Lan …Trong tương lai gần, việc xã hội hóa hoạt động công chứng ở nước ta sẽ
có những bước tiến mới bằng cách phát triển có chất lượng Văn phòng công chứng
từ hai thành viên trở lên, dần thu hẹp mô hình Phòng công chứng nhằm giảm dần
gánh nặng cho nhà nước, tạo môi trường phát triển cho mô hình Văn phòng công
chứng.
2.Tổ chức hoạt động của Văn phòng công chứng.
Từ ngày 01/7/2007, Luật công chứng có hiệu lực thi hành, kể từ thời điểm
Luật có hiệu lực cho đến nay, hoạt động công chứng trên phạm vi cả nước nói
chung, đặc biệt là 5 tỉnh (thành phố) trực thuộc trung ương (Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) đã có nhiều khởi sắc. Số lượng trên 130
Phòng Công chứng hiện có trên cả nước và các Văn phòng công chứng của các địa
phương được chính thức cấp Giấy phép hoạt động đã cùng nhau chia sẻ thông tin,

trao đổi nghiệp vụ, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau thông qua các chương trình tập
huấn, trao đổi công tác chuyên môn do Sở Tư pháp các địa phương tổ chức.
Với chính sách mở của Đảng và Nhà nước đã đưa đất nước tiến vào một kỷ
nguyên hội nhập với thế giới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ... Sự ra
đời của Luật công chứng là một trong những thành quả của quá trình hội nhập. Việc
“xã hội hóa” hoạt động công chứng đã tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử
nghề công chứng ở nước ta, các Văn phòng công chứng đã góp phần chia sẽ gánh
nặng hành chính tư pháp cho các cơ quan nhà nước, giải quyết nhanh chóng yêu cầu
công chứng của công dân, tổ chức, thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính.
Đây là một sự cải cách theo hướng đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước, mục đích tốt đẹp của nó là giảm thiểu việc sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà
của một bộ phận nhỏ công chức khi người công dân, tổ chức có nhu cầu công chứng
phải đến cơ quan công quyền, Từ cuối năm 2008 đội ngũ công chứng viên đầu tiên
đã được bổ nhiệm hành nghề tại các Văn phòng công chứng. Sang đến năm 2009 họ
là một lực lượng góp phần thay đổi dần thế độc quyền từ lâu của công chứng nhà
4


nước. Và dần dần các văn phòng công chứng đã và đang thể hiện tốt vai trò của
mình trên bước đường hoàn thiện tổ chức hoạt động công chứng. Người dân cũng
đang quen dần với mô hình công chứng mới này, nhất là tại các thành phố lớn như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… họ hoàn toàn hài lòng và đánh giá rất cao sự ra
đời của các Văn phòng công chứng. Thực tế thì nó đã đáp ứng một cách nhanh
chóng, kịp thời và có chất lượng cho những giao dịch dân sự trong nền kinh tế cơ thị
trường. Khách hàng được thụ hưởng dịch vụ công một cách tận tình, chu đáo, văn
minh. Họ hy vọng rằng dịch vụ công chứng này sẽ tạo ra sự ổn định, bền vững và
bình đẳng trong khi tham gia vào các hợp đồng, giao dịch với tư cách là những chủ
thể bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, càng nhiều các giao dịch, hợp đồng được công chứng thì nguy cơ
xẩy ra tranh chấp cũng như rủi ro càng thấp,theo đó sự tuân thủ pháp luật đối với

người dân ngày càng được nâng cao.
II. Chế độ pháp lý của văn phòng công chứng theo quy định của pháp
luật hiện hành.
1.Địa vị pháp lý của Văn phòng công chứng.
Văn phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công do một hoặc một số công
chứng viên thành lập.
Theo quy định tại điều 26 của Luật công chứng do công chứng viên hành nghề
tự do thành lập. Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ
chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; do hai công chứng viên trở
lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty hợp danh. Người đại
diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là trưởng Văn phòng công chứng.
Trưởng văn phòng công chứng phải là công chứng viên. Văn phòng công chứng có
trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính
bằng nguồn thu từ kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao
5


công chứng và các nguồn thu nhập hợp pháp khác.
Việc xác định văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình doanh nghiệp
tư nhân hay công ty hợp danh nhằm mục đích chính là xác định về thuế, thuê lao
động, kế toán, thống kê… Các nghĩa vụ của Văn phòng công chứng được quy định
theo quy định của Luật công chứng và các quy định khác của luật có liên quan
(Khoản 8 Điều 32 Luật công chứng).
Văn phòng công chứng và Phòng công chứng bình đẳng về chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền, văn bản công chứng…, nhưng về địa vị pháp lý cũng có một số
điểm khác nhau.
2. Tên gọi của Văn phòng Công chứng.
Tên gọi Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập quyết định, theo
nguyên tắc đặt tên như quy định đặt tên cho doanh nghiệp.
Tên gọi của Văn phòng công chứng do công chứng viên lựa chọn nhưng phải

bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” không được trùng hoặc gây nhầm lẫn
với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được sử dụng từ ngữ, ký
hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
3. Bổ nhiệm Công chứng viên đối với Văn phòng công chứng.
Tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên quy định tại Điều 13 Luật công chứng
được áp dụng cho cả Văn phòng công chứng và Phòng công chứng, tiêu chuẩn đó là:
- Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam...
- Có bằng cử nhân luật;
- Có thời gian công tác pháp luật từ 5 năm trở lên tại cơ quan, tổ chức;
- Có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;
- Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
- Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề công chứng.
Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề công chứng được tính
6


vào thời gian công tác pháp luật.
Để tránh tuỳ tiện trong việc xác định thời gian đào tạo nghề công chứng và tập
sự hành nghề công chứng, Luật công chứng quy định thời gian đào tạo nghề công
chứng cụ thể là 06 tháng và thời gian tập sự hành nghề công chứng là 12 tháng.
* Luật công chứng quy định một số trường hợp sau đây được xem xét bổ
nhiệm công chứng viên để thành lập Văn phòng công chứng được miễn đào tạo
nghề công chứng và miễn tập sự hành nghề công chứng:
- Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề từ 3 năm
trở lên.
- Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật.
- Đã là thẩm tra viên cao cấp nghành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm
sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực
pháp luật.

Đối với luật sư đã hành nghề từ ba năm trở lên khi được bổ nhiệm công chứng
viên để thành lập Văn phòng công chứng thì khi làm thủ tục đăng ký hoạt động Văn
phòng công chứng phải có xác nhận đã rút tên khỏi danh sách thành viên của Đoàn
luật sư và chấm dứt hành nghề luật sư. Đối với luật sư được bổ nhiệm công chứng
viên để hành nghề công chứng tại Văn phòng công chứng đang hoạt động thì cũng
phải xác nhận đã rút tên khỏi danh sách thành viên của Đoàn luật sư và chấm dứt
hành nghề luật sư.
Quy định của Luật công chứng về việc bổ nhiệm công chứng viên mà trước
đây đã hành nghề luật sư cũng rất rõ ràng, bảo đảm tính chuyên môn cao khi đã
được bổ nhiệm thì chỉ làm một nghề.
4. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên của
Văn phòng công chứng:
Khoản 7 Điều 32 của Luật công chứng quy định: “Văn phòng công chứng có
nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức

7


mình”
Đây là hình thức ràng buộc trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện
công chứng.
Luật công chứng đặt ra vấn đề mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với
công chứng viên mà chưa quy định công chứng viên phải ký quỹ là một trong những
điểm khác biệt ưu ái dành riêng cho công chứng viên hoạt động tại Văn phòng công
chứng, nhằm khuyến khích và phát huy khả năng của những người lao động trong
lĩnh vực chuyên môn đặc thù này; đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển mô hình Văn phòng công chứng.
Việc Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình sẽ được điều chỉnh theo quy định của
Luật kinh doanh bảo hiểm, theo đó Văn phòng công chứng mua bảo hiểm tại doanh

nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam và mức mua bảo hiểm bao nhiêu
là do thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và Văn phòng công chứng. Luật kinh
doanh bảo hiểm quy định: Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải
đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả
thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Điều 8 của luật kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10 ngày 09 tháng
12 năm 2000) quy định bảo hiểm bắt buộc như sau:
Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo
hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện.
Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích
bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.
Tương lai khi Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên được thành
lập thì việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên có thể được
thực hiện thông qua Quỹ bảo hiểm nghề nghiệp của tổ chức Xã hội - nghề nghiệp

8


của công chứng. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ công chứng viên trên toàn
quốc cùng chia sẻ trách nhiệm, hợp tác và giúp đỡ nhau trong hành nghề công chứng
phù hợp với thông lệ quốc tế. Bộ Tư pháp đang xây dựng Đề án thành lập Tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên theo hướng các công chứng viên sẽ tự
nguyện đứng ra thành lập Tổ chức - xã hội nghề nghiệp trong khuôn khổ theo quy
định của pháp luật,
5. Điều kiện, hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng:
Điều kiện, thủ tục hành chính về thành lập Văn phòng công chứng rất đơn
giản (về giấy tờ, kể cả trình tự giải quyết) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển mô hình Văn phòng công chứng. Theo Luật công chứng thì khi xin phép thành
lập Văn phòng công chứng, công chứng viên thành lập Văn phòng công chứng phải
có hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng gửi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh(thành phố), hồ

sơ gồm có:
- Đơn đề nghị thành lập Văn phòng công chứng theo hai loại mẫu (Quyết định
số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ Tư Pháp) đối với Văn phòng công
chứng do một công chứng viên thành lập và đối với Văn phòng công chứng do hai
công chứng viên trở lên thành lập.
- Đề án thành lập Văn phòng công chứng (Đề án thành lập cần phải nêu rõ sự
cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các
điều kiện vật chất; đặc biệt là phải có chương trình kế hoạch triển khai thực hiện)
- Bản sao Quyết định bổ nhiệm công chứng viên
Văn phòng công chứng có trụ sở riêng với địa chỉ cụ thể và phải đáp ứng các
yêu cầu như phải đủ diện tích làm việc cho công chứng viên, nhân viên ... và diện
tích dùng để lưu trữ hồ sơ công chứng theo quy định của pháp luật. Mục đích của
quy định này là để công chứng viên khi chuẩn bị các thủ tục thành lập Văn phòng
công chứng phải xác định rõ: hoạt động công chứng phải tương xứng với tính chất là
một tổ chức nghề nghiệp thay mặt Nhà nước thực hiện dịch vụ công nên phải được

9


nghiêm túc tổ chức thực hiện một cách quy củ, tránh tình trạng hình thức hóa hoặc
kết hợp thực hiện các dịch vụ khác không phù hợp với tính nghiêm túc của hoạt
động công chứng.
Sở Tư pháp là cơ quan giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố) tiếp nhận, xem
xét, kiểm tra hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng để trình Uỷ ban nhân
dân quyết định cho phép thành lập. Sau khi được thành lập, Văn phòng công chứng
phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp của địa phương nơi cho phép thành lập trong
thời hạn 90 ngày.
6. Nguồn tài chính của Văn phòng công chứng:
Văn phòng công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng
nguồn thu kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao công

chứng và các nguồn thu hợp pháp khác.
- Kinh phí đóng góp của công chứng viên.
- Phí công chứng: Phí công chứng bao gồm phí công chứng hợp đồng, giao
dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản công chứng. Mức thu phí công
chứng được áp dụng thống nhất đối với Phòng công chứng và Văn phòng công
chứng.
Căn cứ Điều 7 của Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng quy
định về phí công chứng, ngày 17/10/2008 Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư số 91/2008/TTLT- BTC- BTP hướng dẫn về mức thu, chế độ thu
nộp,quản lý và sử dụng phí công chứng (thay thế Thông tư Liên tịch số
93/2001/TTLT/BTC-BTP ngày 21/11/2001 của Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp hướng
dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí, lệ phí công chứng, chứng thực).
- Mức thu phí công chứng theo quy định tại khoản 1 mục II của TTLT số
91/2008/TTLT- BTC- BTP
- Thù lao công chứng: Là khoản tiền do Văn phòng công chứng thu từ việc

10


soạn thảo hợp đồng, sao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác liên quan đến
công việc công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng.
- Chi phí khác: Là khoản tiền do Văn phòng công chứng thu từ việc người yêu
cầu công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện công chứng ngoài trụ
sở.
III. Những bất cập trong chế độ pháp lý của văn phòng công chứng và
hướng hoàn thiện pháp luật.
Về điều kiện thành lập Văn phòng công chứng và tiêu chuẩn bổ nhiệm công
chứng viên: Thực tế quá trình thực hiện luật Công chứng trong thời gian qua cho
thấy đây là công việc đặc thù chứa đựng không ít rủi ro và để có một Văn phòng

công chứng với đầy đủ trang thiết bị đáp ứng được yêu cầu công chứng của công
dân, tổ chức phải có đội ngũ công chứng viên chuyên nghiệp với trình độ hiểu biết
pháp luật về đất đai, nhà ở, dân sự, kinh tế...công chứng viên phải có tâm huyết với
nghề. Tuy vậy, vấn đề này được Luật Công chứng quy định quá dễ dãi. Bên cạnh đó,
hệ thống các Văn phòng công chứng thiếu sự liên kết thông qua mạng nội bộ để chia
sẻ thông tin, không có cơ sở dữ liệu chung để kiểm soát thực trạng các hợp đồng...
Do vậy, đã có trường hợp một căn nhà đem bán cho hai người, mang đi công chứng
hợp đồng tại 2 Văn phòng khác nhau, một tài sản đem thế chấp, bảo lãnh ở nhiều
người, nhiều nơi, người đã chết nhưng vẫn công chứng “giao dịch”, công chứng cho
người có tài sản đã bán đấu giá thành để thi hành án, công chứng hợp đồng bán đấu
giá thành trước khi tổ chức bán đấu giá tài sản... gây hậu quả pháp lý rất nghiêm
trọng.
Về tiêu chí để xem xét bổ nhiệm công chứng viên, quy định tại điểm b khoản
1 Điều 13 Luật công chứng “có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại
các cơ quan, tổ chức” theo bản thân người viết thì thực tế với quy định này nhiều địa
phương chỉ có những người đang công tác trong cơ quan nhà nước mới đáp ứng
được yêu cầu này dẫn đến tình trạng cán bộ công chức nhà nước đủ tiêu để bổ nhiệm

11


công chứng viên xin nghỉ việc tại cơ quan nhà nước để được bổ nhiệm công chứng
viên dẫn đến tình trạng chảy chất xám từ cơ quan nhà nước ra bên ngoài gây biến
động về cơ cấu nhân sự cho cơ quan, tổ chức nhà nước.
Đối với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 13 Luật công chứng quy định như
thế chẳng qua là muốn nâng cao kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của công chứng
viên khi được bổ nhiệm, vậy theo người viết chúng ta có thể tăng thời gian tập sự
hành nghề công chứng thay vì quy định thời gian công tác như hiện nay. Vì theo
người viết nghĩ công tác pháp luật nói chung như quy định hiện tại thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau, một người làm tốt lĩnh vực pháp luật nào đó chưa chắc họ đã làm tốt

về lĩnh vực công chứng nên khi tăng thời gian tập sự hành nghề công chứng thì kiến
thức và kinh nghiệm về lĩnh vực công chứng của người đó có hiệu quả hơn là quy
định thời gian công tác pháp luật. Đồng thời khi quy định tăng thời gian tập sự hành
nghề công chứng chúng ta vừa đáp ứng được quá trình xã hội hóa công chứng có
hiệu quả vừa giảm được tình trạng chảy máu chất xám từ cơ quan, tổ chức nhà nước
ra bên ngoài như hiện nay.
KẾT LUẬN
Cùng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, việc “công chứng
hóa” hoạt động chứng nhận các giao dịch, hợp đồng nhằm tăng cường bảo đảm an
toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của người dân cũng được quan tâm đặc
biệt. Cần quán triệt một cách rõ ràng rằng, chủ trương xã hội hóa phải đi đôi với tăng
cường quản lý nhà nước, xã hội hóa càng mạnh, quản lý nhà nước càng phải tăng
cường. Xã hội hóa công chứng đang chập chững những bước đi đầu tiên, các tổ chức
hành nghề công chứng theo mô hình mới đang hình thành, không tránh khỏi những
lúng túng, bất cập trong hoạt động, quản lý. Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng
cần thấy rằng, một trong những yếu kém cần khắc phục trong công tác công chứng
là hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác này ở nhiều địa phương còn mờ nhạt,
chưa đi vào chiều sâu.

12


Hiện nay, các tổ chức hành nghề công chứng, nhất là các Văn phòng công
chứng đang phát triển nhanh ở các địa phương, nhiều công chứng viên được bổ
nhiệm là luật sư, kiểm sát viên, thẩm phán... chưa có kinh nghiệm hành nghề công
chứng. Do vậy, việc tăng cường hỗ trợ bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong hành nghề cần được các địa phương quan tâm, tổ
chức các diễn đàn trao đổi, nghiên cứu, thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin giữa các tổ
chức hành nghề công chứng, nhất là những thông tin ngăn chặn để bảo đảm an toàn
cho hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm về hoạt
động công chứng theo quy định của Nghị định 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp.
Thực hiện tốt các hoạt động này, chắc chắn hoạt động công chứng sẽ đi vào nề
nếp và có bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần quan trọng
vào công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân. Bên cạnh đó cũng nên tháo gỡ những vướng mắc trong
quy đinh của Luật công chứng để hoạt động công chứng được đảm bảo thực hiện tốt
hơn, đáp ứng nhu cầu xã hội hóa công chứng hiện nay.

13



×