Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN LẬP PHÁP (theo HP 2013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.32 KB, 8 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời của Hiến pháp 2013 là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan
trọng, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Hiến pháp
năm 2013 đã kế thừa được các giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý to lớn của các bản Hiến
pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992; đã thể chế hóa các quan điểm,
phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng
ta. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới, trong đó phải kể đến một nội dung quan
trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đó chính là mối quan hệ giữa
quyền hành pháp và quyền lập pháp. Việc nhận thức cũng như giải quyết tốt mối quan hệ
giữa hai nhánh quyền này có ý nghĩa vô cùng quan trọng việc đảm bảo hiệu quả hoạt
động của nhà nước, đưa đất nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nên trong phạm vi bài viết này, nhóm
sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích "mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập
pháp theo Hiến pháp năm 2013".
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền lập pháp và quyền hành pháp
1.1.1. Khái niệm quyền lập pháp
1.1.2. Khái niệm quyền hành pháp
Ở nước ta, những tư duy lý luận về học thuyết phân quyền chỉ được thừa nhận như
một nguyên lý mang tính tổ chức – kỹ thuật trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Mặc dầu vậy, thực chất bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa kể từ Nhà nước Xô viết, cũng
như bộ máy nhà nước ta đều áp dụng hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền theo cách
của mình và điều đó thể hiện thành nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
trước kia trong hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa không đụng đến các thuật ngữ
“quyền lập pháp, “quyền hành pháp” và “quyền tư pháp”.
Ở nước ta, lần đầu tiên, các thuật ngữ này được chính thức nói tới trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) trong mục X “Tiếp tục cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước…”. Sau đó, đến năm 2001, Điều 2 sửa đổi năm
2001 của Hiến pháp 1992 đã chính thức quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có



sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuy nhiên, đây là chỗ duy nhất nói tới “quyền hành pháp”
trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Như vậy, quyền hành pháp cùng với quyền lập pháp và quyền tư pháp là ba nhánh
cấu thành quyền lực nhà nước thống nhất ở nước ta, trong đó quyền hành pháp có vai trò
chấp hành quyền lập pháp (chấp hành các đạo luật), đưa các đạo luật vào thực tế cuộc
sống. Ở nước ta quyền hành pháp được giao chủ yếu cho hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước khác, ở những chừng mực khác
nhau, cũng được giao thực hiện các quyền mang tính chất hành pháp, nhiều nhất là Chủ
tịch nước1.
Tuy nhiên, đến Hiến pháp năm 2013, quyền hành pháp đã được ghi nhận chính
thức trong Hiến pháp tại Điều 94:“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội”. Đây là quy định quan trọng, chứa đựng quan điểm, nhận thức
vừa có tính kế thừa, vừa mang tinh thần đổi mới về tính chất, vị trí và chức năng của
Chính phủ được hiến định. Nội dung và tinh thần quy định tại đoạn đầu của Điều 94 này
– điều đầu tiên của Chương VII về Chính phủ - mang ý nghĩa rất quan trọng, vừa thể hiện
tính kế thừa Hiến pháp 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp
năm 1992, vừa đổi mới có tính đột phá; chi phối mang tính quyết định đối với toàn bộ nội
dung các quy định của Chương này.
Bên cạnh việc kế thừa Hiến pháp năm 1992 (tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội) Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quy định mới, quan
trọng nhất, đó là Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Quy định Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp bao hàm cả vị trí của Chính phủ trong phân công thực hiện quyền lực
nhà nước, và chức năng hành pháp của Chính phủ.
Nói Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, trước hết là nói đến việc phân công
quyền lực (phân quyền) giữa các nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân

1 Xem: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.


thực hiện quyền tư pháp. Giữa 3 cơ quan (3 nhánh quyền lực) này có sự phối hợp và kiểm
soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được trao. Nói cách khác, trong cơ cấu
quyền lực nhà nước thống nhất, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, tương ứng với
quyền lập hiến, lập pháp thuộc về Quốc hội và quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân.
Sự phân công quyền lực này vừa bảo đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm tính phối hợp và
kiểm soát lẫn nhau, trên cơ sở hướng tới sự cân bằng và bảo đảm sự thông suốt của quyền
lực. Đây là bước tiến có tính đột phá trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Tuy nhiên, việc
phân công quyền lực này không phải là phân chia quyền lực, không phải là tam quyền
phân lập, cân bằng và đối trọng như trong các nhà nước tư sản.
2. Quyền hành pháp trong quan hệ với quyền lập pháp theo Hiến pháp 2013
2.1. Sự tác động của quyền lập pháp tới quyền hành pháp
Kết quả của việc thực hiện quyền lập pháp là tiền đề để thực hiện quyền hành pháp. Kết
quả của việc thực hiện quyền lập pháp chính là các văn bản quy phạm pháp luật được quy
định tại Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008, bao gồm: Hiến pháp, luật, pháp
lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định, thông tư, … Tuy nhiên, căn cứ pháp lý để
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp chỉ là Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và
pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ nhất, Điều 94 của Hiến pháp chính là cơ sở hiến định khẳng định quyền hành
pháp ở nước ta thuộc về Chính phủ. Điều này mang lại cho Chính phủ một vị thế mới
trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính độc lập tương đối hơn trong quan hệ với cơ quan
lập pháp và cơ quan tư pháp. Theo đó, tạo cơ sở tăng cường tính chủ động, linh hoạt và
tính sáng tạo của Chính phủ trong hoạt động, đồng thời, thiết lập tiền đề khách quan cho
việc Chính phủ có thể kiểm soát đối với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Với chức
năng thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ thực hiện việc hoạch định và điều hành
chính sách quốc gia, tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật để duy trì và bảo vệ trật tự
cộng cộng, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân 2.
Quy mô, cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Chính phủ cũng như các bộ, cơ quan

ngang bộ và các cấp chính quyền địa phương đều được quy định rõ trong các văn bản
2Nguyễn Phước Thọ, Văn phòng Chính phủ, Một số điểm mới về vị trí, chức năng của Chính phủ trong Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, tháng 01 năm 2015, truy cập lúc 02h19' ngày 05/03/2014,
/>sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=3&cad=rja&uact=8&ved=0CCgQFjAC&url=http%3A%2F
%2Fmoj.gov.vn%2Fpbgdpl%2FAnPham%2FLists%2FSach%2FAttachments%2F70%2FVi%2520tri%2C
%2520chuc%2520nang%2520cua%2520Chinh
%2520phu.doc&ei=xFT3VOm2PITr8AWx0IHgBA&usg=AFQjCNGyQPAlkg3Yy-wPz15x73u1muR8-g


như Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân năm 2003,… và các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ cũng như các cơ quan giúp
việc cho Chính phủ đều được quy định cụ thể và giới hạn trong các quy định của pháp
luật. Nói cách khác, Quốc hội trao quyền hành pháp cho Chính phủ để Chính phủ có thể
chủ động, linh hoạt trong để quản lý, chỉ đạo, điều hành,thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn
của mình nhưng hoạt động của Chính phủ luôn phải "nằm" trong khuôn khổ mà pháp luật
cho phép. Những thay đổi trong hoạt động lập pháp sẽ kéo theo việc thay đổi trong tổ
chức, hoạt động, cũng như việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Ví dụ:
Thứ hai, quyền hành pháp của Chính phủ được thể hiện qua các hoạt động triển khai và
bảo đảm thi hành các văn bản QPPL trên thực tế. Khoản 3 Điều 96 Hiến pháp năm 2013
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa,
xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối
ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động
viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân". Thông qua việc ban
hành các nghị định hướng dẫn thi hành luật, Chính phủ cụ thể hóa các điều khoản quy
định chi tiết; thực hiện chỉ đạo, kiểm soát đối với việc ban hành thông tư hướng dẫn của
các bộ và cơ quan ngang bộ, cũng như quá trình tổ chức thực thi ở địa phương. Các văn
bản QPPL này đều được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan tư pháp như tòa án,
viện kiểm sát … Như vậy, với quyền hạn rộng lớn cùng bộ máy giúp việc từ trung ương

đến địa phương - "những cánh tay nối dài" giúp Chính phủ quản lý được mọi mặt của đời
sống xã hội và là cơ quan có thực quyền nhất trong bộ máy nhà nước.
2.2. Sự tác động ngược trở lại của quyền hành pháp tới quyền lập pháp
2.2.1. Vai trò của cơ quan hành pháp - đặc biệt là Chính phủ trong việc xây dựng chính
sách và pháp luật
* Vai trò của Chính phủ trong việc xây dựng chính sách:
Khoản 2 Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ
trong việc: "Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định
tại Điều này". Những chính sách này, nếu phù hợp sẽ được ghi nhận trong chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng và thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật.


Trên thực tế vai trò của Chính phủ cũng đã thay đổi từ một chính phủ quản lí thống
nhất mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội đến một chính phủ làm việc xây dựng thể chế,
chuẩn bị và tập trung hơn vào việc chuẩn bị và xây dựng chính sách ở tầm vĩ mô. Đây là
điểm nổi bật trong hoạt động của Chính phủ hiện nay so với trước đây và từ đó, điểm
thành công nổi bật thể hiện vai trò Chính phủ là bằng hoạt động cụ thể của mình góp
phần đảm bảo tính thống nhất, liên tục của hệ thống hành chính và sự phối hợp chặt chẽ
giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp để tạo thành cơ chế tổng thể thực thi quyền lực
và hiệu quả quản lí chung của Nhà nước
Ví dụ:
* Vai trò của Chính phủ trong việc xây dựng pháp luật:
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã có những thay đổi đáng kể về vị trí, tính chất của
Quốc hội, theo đó nếu Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định "Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp" nay được quy định lại: "Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp...". Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cũng có thay đổi quan trọng
theo đó tại Khoản 1 Điều 70 thì Quốc hội không còn nhiệm vụ, quyền hạn "quyết định
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh". Vấn đề này có thể được hiểu là, Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội phù hợp với thực tiễn đặt ra cho từng năm và từng giai đoạn 3. Quy định này là phù

hợp bởi một đạo luật từ lúc được xây dựng cho tới khi ban hành phải trải qua một quy
trình nghiêm ngặt theo quy định tại Luật ban hành văn bản QPPL, trong đó vai trò của
các chủ thể trình dự án luật, đặc biệt là Chính phủ (nơi có khoảng 90% các dự án luật
được trình ra trước Quốc hội), đều tham gia (đó là chưa kể đến việc trước khi trình Quốc
hội, Ban soạn thảo phải lấy ý kiến của các đối tượng được luật điều chỉnh, các chuyên
gia, nhà khoa học,...). Bởi vậy, việc quy định theo Hiến pháp hiện hành là phù hợp với
thực tế khách quan.
Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản luật, pháp lệnh
mà có những vấn đề về luật, các văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban thường
vụ Quốc hội thông qua là do Chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc
3 Viện nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - nền tảng
chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, TS. Bùi Ngọc Thanh, Nguyên Chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chế định Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013, tr.253 - 264, Nxb. Lao động xã hội, Hà
Nội - 2014.


hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ. Trong
những năm gần đây, hoạt động của Chính phủ đã tiến hành đều đặn mỗi tháng họp một
lần, kéo dài trong khoảng 1 đến 2 ngày, Chính phủ có kế hoạch làm việc theo tháng, Thủ
tướng và Phó thủ tướng có kế hoạch làm việc theo tuần. Về mặt nội dung, Chính phủ tập
trung nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án tại phiên
họp của Chính phủ và kết quả là Chính phủ đã ban hành một lượng lớn các văn bản quy
phạm pháp luật với chất lượng ngày càng cao.
Căn cứ vào trình tự và nội dung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có thể thấy
rõ vai trò quan trọng của Chính phủ và Uỷ ban pháp luật của Quốc hội trong hoạt động
này. Với tính chất là cơ quan hành pháp, việc Chính phủ đề xuất sáng kiến và trình dự án
luật, pháp lệnh vừa đảm bảo tính khả thi cao của các dự án luật, pháp lệnh, đồng thời tạo
điều kiện cho Chính phủ thực thi pháp luật và làm tốt hơn công việc hành pháp của mình.
Hiện nay, hầu hết các nước, Chính phủ là cơ quan trình dự án luật, trung bình chiếm tỷ lệ
80% đến 85%, thậm chí có nước tỷ lệ này là 95%. Ở nước ta, trong hoạt động lập pháp

vần đề đặt ra đối với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh không phải việc xác định ai
sẽ trình các dự án luật, pháp lệnh mà làm thế nào để nâng cao hiệu quả của chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh.
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh sau khi được Quốc hội xem xét thông qua,
UBTVQH và Chính phủ và các cơ quan có trách nhiệm giám sát, đôn đốc các cơ quan
được phân công chủ trì soạn thảo tổ chức xây dựng dự án đúng tiến độ. Việc đảm bảo
kinh phí để thực hiện các dự án cũng cần được cải tiến từ khâu lập dự toán, xét duyệt dự
toán, cấp phát kinh phí và quyết toán các khoản kinh phí này. Đây cũng là điều kiện quan
trọng giúp cho các cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện đúng tiến độ xây dựng các dự án
trong chương trình.
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành
văn bản pháp quy của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ như một
nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử
lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những quyền quan trọng nhất
của Chính phủ mà cụ thể là ban hành văn bản với tên gọi là Nghị định. Đây là loại văn
bản có giá trị và hữu dụng nhất thể hiện vai trò và vị trí của Chính phủ. Nghị định là văn


bản điều chỉnh chủ yếu hầu hết các quan hệ xã hội hiện nay. Chính phủ được ban hành
hai loại nghị định:
Loại thứ nhất, loại khá phổ biến, là nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
các luật hay pháp lệnh. Ở nước ta hiện nay đa số các văn bản luật hay pháp lệnh muốn có
hiệu lực thực tế phải thông qua một hoặc nhiều nghị định loại này. Sự xuất hiện của nghị
định này là cần thiết để quy định cụ thể hơn những vấn đề luật hay pháp lệnh chưa nói rõ,
cũng là cách để luật hay pháp lệnh được áp dụng một cách hiệu quả. Tuy nhiên với cách
thức thường làm “Chính phủ quy định chi tiết luật này”, “Bộ trưởng hướng dẫn thi hành”
thì Chính phủ và các bộ dễ dàng cụ thể hóa các quy định chung chung của luật theo

hướng bảo vệ lợi ích của mình. Từ đó, nghị định, thông tư trở thành phương tiện để nối
dài luật. Thực tế cho thấy chính nghị định, thông tư này, chứ không phải luật chung
chung được Quốc hội thông qua, mới thực sự chi phối ứng xử của các chủ thể trong đời
sống pháp lý và hiện tượng "luật chờ nghị định", "nghị định chờ thông tư" không còn xa
lạ trên thực tế.
Loại thứ hai là nghị định quy định về các vấn đề mới phát sinh nhưng chưa được
luật hay pháp lệnh điều chỉnh. Đây là loại nghị định quan trọng đối với bản thân Chính
phủ và cũng đặc biệt quan trọng đối với hệ thống pháp luật nước ta. Loại nghị định này
được các học giả nghiên cứu gọi là "nghị định không đầu" - chứa đựng các "quy phạm
tiên phát"4. Sự ra đời của loại nghị định này xuất phát từ việc trên thực tế có những quan
hệ xã hội cần được luật điều chỉnh nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên cả Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội đều chưa ban hành văn bản điều chỉnh và nghị định của
Chính phủ lúc này như là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp các
quan hệ xã hội đó.
Ví dụ:
Thẩm quyền này của Chính phủ thể hiện được vai trò của Chính phủ không chỉ
dừng lại ở việc tổ chức triển khai văn bản của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
mà còn chủ động đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2.2.2. Thực hiện quyền hành pháp chính là cơ sở để đánh giá kết quả của việc thực hiện
quyền lập pháp

4 Xem: Luật hành chính nước ngoài, Trường Đại học Quan hệ quốc tế Bộ Nội vụ CHLB Nga, Nxb.“XPART”, Mát
-xcơ-va, 1996, tr. 175-184 (tiếng Nga) hoặc PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
(tiếp theo) và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật


Quá trình thực hiện các quy định của pháp luật trên thực tế chính là "thước đo" để đánh
giá được tính đúng đắn, khả thi và khả năng dự báo của các quy định pháp luật bởi "nếu
pháp luật không được thực hiện trên thực tế thì nó chỉ nằm trên giấy mà thôi".
Ví dụ:

Trên cơ sở đánh giá các quy định của pháp luật, ban soạn thảo sẽ căn cứ vào điều kiện
kinh tế, xã hội,… để sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hoặc thay thế bằng một
văn bản mới để điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh.
C. KẾT LUẬN
Cùng với việc lần đầu tiên chính thức khẳng định tính chất, vai trò của Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp mới đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng cả
về phạm vi và nội dung quyền hành pháp của Chính phủ. Với quy định tại khoản 1 và 2
Điều 965 của Hiến pháp mới, quyền hành pháp của Chính phủ đã được bổ sung, đổi mới,
hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại: hoạch định,
điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thi hành các đạo luật. Hiến pháp cũng một lần
nữa khẳng định mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ
giữa quyền lập pháp và hành pháp trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước./.

5 Khoản 1 “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”
Khoản 2: “Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định...”



×