Tải bản đầy đủ (.ppt) (52 trang)

một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 52 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CƯM’GAR
TRƯỜNG THCS ĐINH TIÊN HOÀNG
CHUYÊN ĐỀ:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÍ TẠI TRƯỜNG THCS ĐINH
TIÊN HOÀNG
Tổ: Địa- Sử GDCD-Nhạc-Công Nghệ

GV: Ngô Minh Phương


A.PHẦN MỞ ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng,
Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong mục tiêu tổng quát nghị quyết khẳng định
“Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu
cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia
đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền
giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và
phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội
hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Với tinh thần của nghị quyết trung
ương 2 khóa VIII



Trong những năm qua, chất lượng dạy và học của huyện CưM’gar nói
chung và trường trung học cơ sở Đinh Tiên Hoàng nói riêng ngày càng được nâng
cao. Các phong trào thi đua dạy tốt – học tốt do ngành phát động được đông đảo
cán bộ - giáo viên - công nhân viên và học sinh nhiệt tình tham gia hưởng ứng và
từng bước đạt được nhiều thành tích khá nổi bật như: phong trào viết sáng kiến
kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học, hội thi giáo viên dạy giỏi, cuộc thi tích
hợp,bài giảng E-Leaning, hội thi văn nghệ, hội khỏe phù đổng, thi chọn học sinh
giỏi … Qua các phong trào đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục, đồng thời tạo được niềm tin đối với các bậc phụ huynh học sinh,
các cấp chính quyền và đó cũng là động lực để những người làm công tác giáo
dục có những định hướng mới cho sự nghiệp đào tạo thế hệ tương lai của đất
nước.
Trong các phong trào thi đua đó, có thể khẳng định rằng trường trung
học cơ sở Đinh Tiên Hoàng, đã đạt được kết quả khá toàn diện và mang tính ổn
định ; phát triển trong đó có phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học
sinh giỏi môn Địa lý nói riêng.với đặc điểm là một trường có đến 67,5%là con em
đồng bào dân tộc tại chổ
Với vai trò là người giáo viên giảng dạy lớp 9, bản thân nhận thức được rằng
nhiệm vụ khá nặng nề và quan trọng – quan trọng vì phải đảm nhận công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi, công việc mà lãnh đạo nhà trường luôn xem là mũi nhọn, là
thế mạnh của trường.


Từ năm học 2011-2012 nay, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Địa lý của bản thân ít nhiều đạt được một số kết quả nhất
định, cụ thể là: hàng năm trường đều có học sinh giỏi Được
công nhận và đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh môn Địa lý và năm
học 2014 – 2015 vừa qua trường có một học sinh giỏi đạt giải
Ba và một học sinh giỏi đạt giải khuyến khích môn Địa lý trong
kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh.

Với những kết quả trên, xin chia sẻ một số biện pháp
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo hứng thú học tập cho học
sinh và góp phần nhỏ bé trong thành tích chung của phong trào
bồi dưỡng học sinh giỏi, và đặc biệt với những giáo viên đã và
đang bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý có thể xem đây là một
tài liệu tham khảo, một kênh thông tin để làm phong phú thêm
biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi tại trường THCS Đinh Tiên
Hoàng.


I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong những năm
học qua tôi nhận thấy rằng vấn đề quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng
cần có một quan niệm đúng về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn
Địa lý nói riêng. Bên cạnh đó, cần trả lời cho câu hỏi: “việc bồi dưỡng học
sinh giỏi nhằm mục tiêu gì ?” để từ đó người giáo viên bồi dưỡng lựa chọn
nội dung, chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích hợp và đạt
hiệu quả cao nhất.
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa
lý Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người được ví như “một trong những
cánh chim đầu đàn” của ngành khoa học Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam và
cũng là người có nhiều năm tham gia ra đề thi Cao đẳng, Đại học, thi học
sinh giỏi quốc gia môn đia lý cho rằng: “Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ cần
học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác vì Địa lý là môn khoa học có đối
tượng nghiên cứu phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý không chỉ
phân bố trên bề mặt đất mà cả trong không gian và trong lòng đất. Hơn nữa,
các hiện tượng ấy ở đâu và bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một
cách độc lập nhưng lại luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy,
người dạy và học Địa lý cần có phương pháp tư duy, phân tích, xét đoán các

hiện tượng địa lý theo quan điểm hệ thống”.


Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh
phải nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng được những
hiểu biết; những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu cầu
của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh
có năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt nhất những kiến thức, kỹ năng chắc
chắn về địa lý.
Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo quan
niệm của mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế nào
chung quy lại có những điểm tương đồng:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng nhằm
phát triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động và làm việc một cách sáng tạo.
- Phát triển các phương pháp, kỹ năng và thái độ tự học suốt đời.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
- Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Với những mục tiêu đó, chúng ta cũng thấy rằng việc bồi dưỡng học
sinh giỏi hiện nay của phần lớn giáo viên ít nhiều đã đáp ứng tương đối đầy đủ sáu
mục tiêu trên . Điều này được minh chứng qua kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của
giáo viên vì những em đạt giải học sinh giỏi là những em hội đủ các mục tiêu trên.


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong thực tế, qua một số năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Địa lý đạt kết quả khá khả quan: hàng năm trường đều có học
sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh bản thân luôn bám sát các mục tiêu bồi
dưỡng học sinh giỏi, đồng thời áp dụng các biện pháp cụ thể:

1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi:
Vào đầu năm học, lãnh đạo nhà trường chỉ đạo mỗi giáo
viên bồi dưỡng học sinh giỏi ở tất cả các môn phải xây dựng kế hoạch
chi tiết. Vì vậy, bản thân cũng đã lên kế hoạch cụ thể về: thời gian bồi
dưỡng; nội dung; thời lượng; số lượng học sinh bồi dưỡng; chỉ tiêu
phấn đấu đạt giải, thong qua việc đăng kí chất lượng giáo dục hang
năm của giáo viên … và bản thân đã thực hiện nghiêm túc theo kế
hoạch. Song song đó, Ban giám hiệu – trực tiếp là đồng chí Phó Hiệu
trưởng chuyên môn của trường thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc
bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên để công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi của trường đạt được kết quả cao nhất.


2. Chọn đối tượng bồi dưỡng và thường xuyên thực hiện
công tác tư tưởng với học sinh tham gia bồi dưỡng:
Như chúng ta đã biết theo quy chế thi học sinh giỏi thì đối tượng
được thi học sinh giỏi là những học sinh đang học lớp 9 tại trường,
có học lực ở học kỳ I của năm đang học đạt từ loại khá trở lên,
hạnh kiểm đạt loại tốt và trung bình môn thi học sinh giỏi đạt từ
8,0 trở lên.
Những năm qua việc chọn đối tượng bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lý ở trường về cơ bản được nhiều thuận lợi do:
- Đa số học sinh khối 9 đều có hứng thú và đam mê môn
Địa lý. Vì vậy, học sinh đăng ký dự thi khá tương đối, bình quân mỗi
năm có 3-5 học sinh.
- Số học sinh khối 9 của trường khá đông. Hàng năm, bình
quân trường có trên 250 học sinh khối 9 được bố trí từ 08 đến 09
lớp. Do đó, sức ép về vấn đề chọn số lượng học sinh tham gia bồi
dưỡng là không đáng kể.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi bước đầu đó, trong
quá trình bồi dưỡng bản thân cũng gặp một số khó khăn từ học
sinh (và cũng có thể bắt gặp đối với những giáo viên đang bồi
dưỡng học sinh giỏi), đó là:


- Do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan nên một số học sinh có sự mâu
thuẫn, chưa thông suốt giữa học sinh giỏi ở lớp với học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh
bộ môn: học sinh nghĩ rằng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ ảnh hưởng đến
thành tích học ở lớp và ngược lại, vì vậy một số em vẫn tham gia bồi dưỡng nhưng
mang tính hình thức, thiếu tập trung.
- Do nhận thức của phụ huynh còn hạn chế: bồi dưỡng học sinh giỏi không còn
thời gian phụ việc gia đình
- Một số học sinh, phụ huynh học sinh không đồng ý cho con ôn thi vì nghĩ môn
Địa lí không phải là môn học chính việc học giỏi môn địa lí chưa có tác dụng tích
cực để học sinh học tốt ở các cấp học tiếp theo.
- Xuất phát từ những khó khăn trên, bản thân đã thường xuyên động viên, khuyến
khích và kiên trì phân tích cho học sinh thấy được phải làm như thế nào để đạt hiệu
quả cao nhất trong công việc mà vẫn sử dụng hợp lý quỹ thời gian. Vì nếu suy cho
cùng việc bồi dưỡng học sinh giỏi muốn thành công hay thất bại nhờ vào vai trò
của người giáo viên – người giáo viên mới gặp những “lực cản” mà buông xuôi thì
khó có thể thành công. Do đó, có ý kiến cho rằng người giáo viên bồi dưỡng học
sinh giỏi được ví như đạo diễn của bộ phim, còn học sinh là những diễn viên thực
hiện theo ý định của đạo diễn, nhưng đạo diễn cũng cần biết quan tâm đến tâm tư,
nguyện vọng của diễn viên.


3. Giáo viên bồi dưỡng nên biên soạn tài liệu theo từng chuyên đề của nội
dung bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:
Có thể cho rằng đây là biện pháp mang tính đầu tiên, có tính khả thi,

quyết định cho các bước tiếp theo đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Địa lý. Từ thực tế kinh nghiệm bồi dưỡng những năm qua cho thấy nội dung bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý rất phong phú được trải đều ở 03 khối lớp 6, 8, 9
và ở mỗi khối lớp lượng kiến thức cần truyền đạt cho học sinh là vô hạn, giáo viên
bồi dưỡng rất khó xác định được nội dung kiến thức nào cần bồi dưỡng trước cho
học sinh, nội dung nào không quan trọng để giới hạn, đặc biệt là phần Địa lý tự
nhiên Việt Nam (khối 8) và Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam (khối 9), bên cạnh đó
trong một vài trường hợp người giáo viên không thể bồi dưỡng kiến thức trong sách
giáo khoa theo một trình tự cố định hết Bài 1 đến Bài 2, Bài 3 …do không đủ thời
gian hoặc do kiến thức được sắp xếp theo từng phần, từng chương theo phương
pháp dàn trải. Chính vì thế, bản thân đã tiến hành soạn tài liệu riêng theo từng
chuyên đề của nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi.
Từ nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi các năm qua theo tôi đã chọn các
chuyên đề sau:
- Chuyên đề về Địa lí tự nhiên đại cương(khối 6).
- Chuyên đề Địa lý tự nhiên Việt Nam (khối 8).
- Chuyên đề Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam (khối 9).
- Chuyên đề về Kỹ năng vẽ, phân tích và nhận xét các loại biểu đồ (chủ
yếu ở khối 9).


Như vậy, từ các chuyên đề trên giáo viên cần tìm những tài liệu liên quan để biên
soạn, và thông thường các chuyên đề này được giảng dạy chuyên sâu hơn ở chương
trình Địa lý lớp 12 – Nâng cao (đối với khối 8, 9) và chương trình Địa lý lớp 10 –
Nâng cao (đối với khối 6), hay được tập trung trong các bộ đề thi tốt nghiệp lớp 12,
thi Cao đẳng, Đại học môn Địa lý. Đối với bản thân, tài liệu biên soạn chủ yếu dựa
vào các nguồn:
- Hướng dẫn học và khai thác Atlat Địa lý Việt Nam (Tác giả: GS-TS Lê
Thông, PGS-TS Nguyễn Minh Tuệ, Vũ Đình Hòa do Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2008).

- Trọng tâm kiến thức và phương pháp làm bài môn địa lí(Tác giả:
Nguyễn Hoàng Oanh- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội)
- Chuyên đề Địa lý 12: Phần Địa lý tự nhiên - dân cư và phần Địa lý
kinh tế - xã hội Việt Nam (Tác giả: PGS-TS Nguyễn Đức Vũ do Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam xuất bản năm 2009).
- Tuyển chọn những bài ôn luyện thực hành kỹ năng môn Địa lý (Tác
giả: Đỗ Ngọc Tiến, Phí Công Việt do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2002).
- Một số đề thi học sinh giỏi môn Địa lý cấp THCS, THPT và tốt nghiệp
CĐ, ĐH (sưu tầm).
Khi đã biên soạn được tài liệu giáo viên rất thuận lợi trong việc bồi
dưỡng cho học sinh vì lượng kiến thức đã được định trước, đồng thời hạn chế việc
mất thời gian và có thể bồi dưỡng theo sở thích của mình.


B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. QUY TRÌNH VÀ CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN HỌC SINH CẦN
ĐẠT ĐƯỢC
Giáo viên nên bồi dưỡng những chuyên đề cơ bản, trọng tâm trước và
ưu tiên thời lượng cho những chuyên đề này, hoặc trên cơ sở “phán
đoán” sở trường hay sở thích của người ra đề mà có thể bồi dưỡng
trước những chuyên đề đó (đương nhiên điều này chỉ mang ý nghĩa
tương đối và thực tiễn những năm qua cho thấy đề thi học sinh giỏi
thường tập trung vào phần đặc điểm và ảnh hưởng của khí hậu Việt
Nam đến phát triển kinh tế), hay bản thân thích nhất chuyên đề nào
thì bồi dưỡng trước, nhưng không nên bồi dưỡng theo phương pháp
từ thấp lên cao theo hướng: khối 6 → khối 8 → khối 9 → biểu đồ vì
dễ mất thời gian nhưng hiệu quả không cao do các chuyên đề có mối
liên hệ với nhau không nhiều (ví dụ: chuyên đề về Trái đất với chuyên
đề về Địa lý tự nhiên Việt Nam) . Theo kinh nghiệm của bản thân, tôi
áp dụng theo quy trình sau:



Trước tiên, tôi phát tài liệu biên soạn của cá nhân phần Địa lý kinh tế xã hội Việt nam (khối 9) để học sinh tự nghiên cứu vì phần này các em
đã và đang được học trên lớp do đó giáo viên có điều kiện mở rộng
kiến thức cho học sinh, đồng thời đối với học sinh các em cũng có điều
kiện khắc sâu kiến thức, nâng cao khả năng tư duy, các kỹ năng địa lý
bước đầu cũng được phát triển. Tiếp theo, giáo viên bồi dưỡng phần
Địa lý tự nhiên (khối 8) và Địa lý về Trái đất (khối 6) vì hai phần này
học sinh đã được học ở các lớp dưới giáo viên chỉ cần ôn tập lại cho
học sinh thông qua nội dung đang học ở khối 9. Sau cùng, giáo viên
tập trung vào kỹ năng vẽ và nhận xét các loại biểu đồ.
Cũng cần nói thêm rằng, mỗi giáo viên bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lý đều có những điểm giống nhau như: khung chương
trình bồi dưỡng, trình độ tay nghề, sự nhiệt tình, trình độ học sinh,
phương tiện phục vụ bồi dưỡng (Atlat, compa, thước đo độ, máy tính
…) … nhưng kết quả đạt được có sự khác biệt vì mỗi giáo viên có hình
thức tổ chức và phương pháp bồi dưỡng khác nhau. Sau đây xin trình
bày một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý mà bản
thân đã thực hiện trong các năm qua.


1. Kiến thức
a) Kiến thức địa lí phổ thông hiện hành gồm cả địa lí đại cương (Trái
Đất-Các thành phần tự nhiên của Trái Đất), địa lí các châu lục trên thế
giới (Các môi trường địa lí- đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội cảu các
châu lục, các khu vực trên thế giới), địa lí Việt Nam (tự nhiên, kinh tế xã hội). Chương trình địa lí THCS yêu cầu HS phải nắm vững một số
kiến thức phổ thông, cơ bản, mang tính hệ thống, thiết thực về :
- Trái Đất –Các thành phần tự nhiên (các thành phần cấu tạo và tác
động qua lại giữa chúng, một số quy luật của môi trường tự nhiên trên
Trái Đất; Các thành phần tự nhiên của Trái đất, củng như tác động qua

lại giữa các thành phần tự nhiên).
- Đặc điểm các môi trương địa lí, địa lí tự nhiên và kinh tế xã hội các
châu lục và khu vực trên thế giới.các vấn đề mang tính chất toàn
cầu(Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, can kiệt tài nguyên, dân số
đông…)
- Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh tế và những
vấn đề đặt ra đối với tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của đất nước,
của các vùng và địa phương nơi HS đang sinh sống.


b) Trong mỗi lĩnh vực, những kiến thức cơ bản mà HS cần hiểu sâu, nhớ lâu, vận
dụng được là các khái niệm, mối liên hệ nhân quả địa lí, quy luật địa lí, các học
thuyết, quan điểm địa lí. Những loại kiến thức này làm rõ bản chất tri thức địa lí.
- Các khái niệm địa lí nhằm phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng địa lí và mối
quan hệ giữa chúng với nhau. Trong chương trình địa lí, chúng có thể được trình
bày theo nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào nội dung khái niệm. Có những khái
niệm được trình bày một cách khái quát, ngắn gọn, chẳng hạn như : "Thổ nhưỡng
(đất) là lớp vật chất tơi xốp ở bề mặt lục địa, được đặc trưng bởi độ phì", hay "Nội
lực là lực phát sinh ở bên trong Trái Đất",... Tuy nhiên, do nội dung phức tạp của
nhiều sự vật, hiện tượng địa lí, nên một số khái niệm được trình bày theo lối diễn
dịch, liên quan đến nhiều kiến thức địa lí khác. Ví dụ, khái niệm về chuyển động
biểu kiến hằng năm của Mặt Trời, về hiện tượng mùa và hiện tượng ngày đêm dài
ngắn theo mùa, về gió mùa,... Việc hiểu một khái niệm địa lí thường phải dựa trên ít
nhất một khái niệm khác đã học có liên quan ; có nhiều khái niệm mà để hiểu được
phải dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm khác, ví dụ : giờ trên Trái Đất, quy luật địa
đới, tính đai cao, ...
- Các mối liên hệ nhân quả là loại kiến thức phổ biến trong địa lí. Việc giải thích các
hiện tượng địa lí phần lớn phải dựa vào các mối liên hệ này. Các mối liên hệ nhân
quả có nhiều loại khác nhau.



Có những mối liên hệ đơn giản (chỉ có một nguyên nhân và một kết quả), ví dụ : mối liên hệ
giữa độ cao địa hình và nhiệt độ không khí, nhiệt độ và khí áp, độ ẩm và khí áp, cấu tạo của
đá và nước ngầm, chế độ mưa và nhiệt với chế độ nước sông, dòng biển với lượng mưa ven
bờ đại dương, đá mẹ và thổ nhưỡng, khí hậu và sự phân bố sinh vật,... Có những mối liên hệ
nhân quả phức tạp (một nguyên nhân gây ra nhiều kết quả, hay nhiều nguyên nhân gây ra một
kết quả), ví dụ : vận động tự quay quanh trục của Trái Đất đã gây ra các hệ quả như sự luân
phiên ngày đêm, chuyển động biểu kiến hằng ngày của các thiên thể, giờ trên Trái Đất, sự
lệch hướng chuyển động của các vật thể ; sự phân bố nhiệt độ trên Trái Đất chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố, như : hình dạng và vị trí của Trái Đất so với Mặt Trời, sự phân bố lục địa
và biển, các dòng biển nóng và lạnh,.... Các nguyên nhân và kết quả liên tục kế tiếp nhau tạo
ra một chuỗi mối liên hệ nhân quả, ví dụ : ở thảo nguyên với khí hậu lục địa nửa khô hạn có
thực vật chủ yếu là cỏ, tạo nên đất đen có tầng mùn dày ; ở sườn núi, khi lên cao, nhiệt độ,
lượng mưa và áp suất không khí thay đổi, do đó sinh vật phân bố theo từng vành đai thẳng
đứng cũng khác nhau ; địa hình có tác động đến sự phân bố lại lượng nhiệt và ẩm trong đá
mẹ, nhiệt và ẩm đó có tác động đến chiều hướng và cường độ của quá trình hình thành đất,...
- Các quy luật địa lí thường được học tập trung ở chương cuối của một phần hay một số phần
(trong một lớp), có tính khái quát các mối liên hệ nhân quả phổ biến và lặp đi lặp lại thường
xuyên. Học thuyết được học trong chương trình địa lí tuy không nhiều, nhưng rất cần thiết
cho việc hiểu được nhiều kiến thức địa lí khác
- Ngoài các kiến thức cơ bản trên, trong sách giáo khoa còn trình bày về các sự vật hiện tượng
địa lí cụ thể, các biểu tượng địa lí,... Các kiến thức này đóng vai trò hoặc để cụ thể hoá các
kiến thức cơ bản trên, hoặc là cơ sở để rút ra các kiến thức khái quát.


c) Kiến thức địa lí phổ thông mà HS cần nắm, được chia thành 6 mức độ :
Biết : Ghi nhớ được các sự kiện, khái niệm, định nghĩa, hệ quả, thuật ngữ và các
nguyên lí dưới hình thức được học.
Hiểu : Hiểu được kí hiệu, ý nghĩa và mối liên hệ trong khái niệm, định lí, hệ quả, công
thức,... Có khả năng diễn giải, mô tả, tóm tắt thông tin đã thu được, không nhất thiết

phải liên hệ tư liệu này với tư liệu khác.
Vận dụng : Sử dụng thông tin trong các tình huống khác với tình huống đã học ; khái
quát hoá, trừu tượng hoá những kiến thức đã biết.
Phân tích : Biết cách tách tổng thể thành các bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các bộ
phận đó với nhau trong cùng một cấu trúc.
Tổng hợp : Biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể cũ. Cần có khả
năng phân tích để đi đến tổng hợp. Ở đây bắt đầu thể hiện sự sáng tạo của cá nhân.
Đánh giá : Đòi hỏi có những hành động so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định trên cơ
sở các tiêu chí và tính hợp lí. Cần có khả năng tổng hợp để đánh giá.
Cũng là một kiến thức, nhưng có thể yêu cầu HS nắm ở 6 mức độ khác nhau. Ví dụ :
kiến thức "Hệ quả chuyển động tự quay của Trái Đất", yêu cầu theo 6 mức như sau :
- Biết : Nhớ được 3 hệ quả : sự luân phiên ngày đêm, giờ trên Trái Đất và đường
chuyển ngày quốc tế, sự lệch hướng chuyển động của các vật thể.
- Hiểu : Không những nhớ mà còn phải giải thích được như thế nào là sự luân phiên
ngày đêm, như thế nào là giờ địa phương, giờ quốc tế, đường chuyển ngày quốc tế, sự
lệch hướng chuyển động của các vật thể khác nhau giữa hai bán cầu như thế nào.


- Áp dụng : Sử dụng kiến thức về sự lệch hướng chuyển động của các vật thể để giải thích sự
lệch hướng gió trên Trái Đất, sự mài mòn đường ray xe lửa bên phải ở các nước thuộc bán cầu
Bắc... giải thích được hiện tượng trong nhật kí ghi chậm một ngày lịch so với lịch địa phương
khi về lại đích của các đoàn thám hiểm vòng quanh Trái Đất...
- Phân tích : Làm rõ được nguyên nhân của sự luân phiên ngày đêm là do hai yếu tố có quan hệ
chặt chẽ với nhau : Hình khối cầu của Trái Đất làm cho nó luôn được chiếu sáng một nửa
(ngày), còn một nửa khuất trong bóng tối (đêm). Đồng thời, do Trái Đất tự quay quanh trục,
nên mọi nơi trên bề mặt Trái Đất đều lần lượt được Mặt Trời chiếu sáng rồi lại chìm trong bóng
tối, gây nên hiện tượng luân phiên ngày đêm. Thiếu đi một trong hai yếu tố đó sẽ không có hiện
tượng luân phiên ngày đêm. Hoặc, phải đặt ra đường chuyển ngày quốc tế, vì trên Trái Đất có
một múi giờ, tại đó vừa là 0 giờ (của ngày hôm sau), vừa là 24 giờ (của ngày hôm trước). Hai
bên đường kinh tuyến có ngày khác nhau. Do vậy, khi vượt qua kinh tuyến đó theo chiều từ tây

sang đông phải cộng thêm một ngày ; ngược lại - phải trừ đi 1 ngày. Đường kinh tuyến đó được
gọi đường chuyển ngày quốc tế.
- Tổng hợp : Có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng trên cơ sở phân tích trên, có thể HS dự
đoán được kết quả của trường hợp giả định nếu Trái Đất không tự quay quanh trục, thì có hiện
tượng ngày đêm không ? Lúc đó thời gian một ngày đêm trên Trái Đất là bao nhiêu ? Hay, nếu
không đặt ra đường chuyển ngày quốc tế, điều gì sẽ xảy ra trong quan hệ quốc tế giữa các nước
thuộc các múi giờ khác nhau ?...
HS bình thường, về cơ bản chỉ cần đạt ở mức 1 và 2, một số kiến thức có thể đạt ở mức 3, 4... là
được. HS giỏi cần phải có kiến thức đạt ở mức cao hơn, như phân tích, tổng hợp, đặc biệt là
đánh giá. Những mức này đòi hỏi các em phải có một hệ thống tri thức địa lí nhất định, đồng
thời có được các kĩ năng tư duy cần thiết.


2. Kĩ năng địa lí
a) Học Địa lí ở THCS, HS cần phải củng cố và phát triển các kĩ năng :
- Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá các sự vật, hiện tượng địa lí
; sử dụng bản đồ, biểu đồ, đồ thị, lát cắt, số liệu thống kê,...
- Thu thập, xử lí, trình bày các thông tin địa lí.
- Vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí và giải quyết một số vấn
đề của cuộc sống, sản xuất gần gũi với HS trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư
duy phê phán.
b) Kĩ năng địa lí trong nhà trường phổ thông được chia ra 5 mức độ :
Bắt chước : Quan sát và cố gắng lặp lại một kĩ năng nào đó.
Thao tác : Hoàn thành một kĩ năng nào đó theo chỉ dẫn hơn là bắt chước máy móc.
Chuẩn hoá : Lặp lại một kĩ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn và
thường được thực hiện một cách độc lập, không phải hướng dẫn.
Phối hợp : Kết hợp nhiều kĩ năng theo một trật tự, một cách nhịp nhàng và ổn định.
Tự động hoá : Hoàn thành một hay nhiều kĩ năng một cách dễ dàng và trở thành tự
động, không đòi hỏi một sự cố gắng về thể lực và trí tuệ.
HS giỏi cần phải đạt được các mức độ 4 và 5 của kĩ năng. Nhờ vậy, các em mới có thể

sử dụng các kĩ năng này để tự học, tự nghiên cứu, tìm ra những kiến thức cần nắm,
hoặc vận dụng các kiến thức vào thực tế cuộc sống để giải quyết các vấn đề thực tế.
Các kĩ năng sẽ có được một cách vững chắc nhờ vào việc luyện tập thường xuyên và
có kết quả trên cơ sở những hiểu biết cần thiết về kĩ năng.


3. Tư duy
a) Tư duy có nhiều loại. Trong học tập hiện nay, tư duy cần có ở HS là tư
duy lôgic (xem xét sự vật trong dạng tĩnh tại), tư duy biện chứng (xem xét
sự vật trong sự vận động một cách lôgic), tư duy hình tượng (hình dung ra
sự vật, hiện tượng với những đặc điểm vốn có của nó).
Ngoài ra, do đặc điểm của đối tượng địa lí, nên tư duy đặc thù của địa lí là
luôn xem xét sự vật trong các mối liên hệ và gắn liền với lãnh thổ, dựa vào
bản đồ. Ví dụ : Khi nhận xét một địa điểm nào đó mưa nhiều hay ít, phải
xem xét chúng trong mối quan hệ với các dạng địa hình núi (nằm ở sườn
đón gió hay khuất gió, ở độ cao nào), trong vùng khí hậu nào, gió thổi đến
hướng nào, có đi qua biển không, địa điểm đó nằm gần kề hay xa biển
(hoặc đại dương), có dòng biển nóng hay dòng lạnh chảy ven không... vì
những yếu tố này đều tác động đến lượng mưa nhiều hay ít của một địa
điểm.
b) Tư duy diễn ra trong khuôn khổ của các thao tác tư duy : phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Nếu sử dụng các thao tác tư
duy này một cách linh hoạt, thì sẽ đưa đến các kết quả thích hợp. Do vậy
trong quá trình học tập cũng như ôn luyện thi HS giỏi địa lí cần phải chú
trọng rèn luyện các thao tác tư duy này.


II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ TRONG ÔN LUYỆN THI
HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ
1. Nhớ kiến thức một cách lôgic

Muốn có tư duy lôgic, phải có một hệ thống kiến thức nhất định. Một số nghiên cứu
của các nhà khoa học sư phạm trên thế giới chỉ ra rằng, sở dĩ trong môn Địa lí, HS
THCS hiện nay có tư duy không tốt là do thiếu những kiến thức cần thiết, trong đó
đặc biệt là hệ thống khái niệm địa lí. Việc nắm vững một hệ thống kiến thức địa lí cơ
bản làm cơ sở cho tư duy, sẽ tạo cơ sở cho việc nắm những kiến thức địa lí mới. Kiến
thức mới lại tiếp tục làm cơ sở cho tư duy để nhận thức được những kiến thức khác
mới hơn...
Hiện nay, một số HS có quan niệm cực đoan rằng chỉ cần có tư duy tốt là đủ để nắm
được các kiến thức cần thiết ; hay nói cách khác, chỉ cần thông minh là thi được HS
giỏi địa lí. Đó là một quan niệm không đúng. Cần nhớ rằng mục tiêu của việc học tập
là vừa có được những kiến thức cơ bản, vừa phát triển được năng lực tư duy. Muốn tư
duy phải có kiến thức (tựa như "có bột mới gột nên hồ" vậy). Không có đủ kiến thức
cần thiết, như nói ở trên, không thể có tư duy địa lí được. Chính vì vậy, học để nắm
chắc kiến thức là việc làm hết sức quan trọng, không chỉ riêng đối với HS giỏi địa lí,
mà đối với tất cả các em học sinh nói chung.
Nắm chắc kiến thức có nghĩa là hiểu được, nhớ lâu bền kiến thức địa lí cần thiết và có
thể vận dụng được vào các trường hợp cụ thể. Để nhớ lâu bền, cần phải có trí nhớ
lôgic. Muốn ghi nhớ lôgic, trong quá trình ghi nhớ phải hiểu và vận dụng được các
quy luật của trí nhớ.


a) Trí nhớ là hoạt động phản xạ có điều kiện. Muốn lập được phản xạ có điều kiện, thông tin
phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Do vậy, trong ghi nhớ kiến thức, việc ôn tập thường xuyên tỏ ra
hết sức cần thiết. Sau một số bài, sau một chương hoặc một số chương, cần phải ôn tập để tăng
cường ghi nhớ.
b) Nhớ lâu được dựa trên ấn tượng mạnh. Một kiến thức hay, một cách giải quyết vấn đề độc
đáo, một lần bị sai lầm và nhận ra được,... là những ấn tượng khó quên, lưu lại lâu bền trong trí
nhớ mỗi HS. Vì vậy, khi học bài địa lí, cần chú ý tạo ra các ấn tượng sâu về kiến thức. Các ấn
tượng có thể bắt nguồn từ việc sử dụng phương tiện trực quan trong khi học bài (ví dụ khi học
về các sự vật, hiện tượng địa lí nên sử dụng Atlát địa lí, hay bản đồ trong SGK, bản đồ treo

tường ; khi học về các tầng đất nên quan sát phẫu diện ; khi học về hình thái địa hình nên dựa
vào lát cắt địa hình....), từ việc kết hợp nghe và nhìn (quan sát videoclip, băng hình địa lí...), từ
việc làm (trao đổi, tranh luận với bạn ; làm các bài thực hành, giải các bài tập địa lí...). Một kết
quả nghiên cứu sư phạm đã chỉ ra : kiến thức được nhớ là nhờ 10% qua đọc, 20% qua nghe,
30% qua nhìn, 50% qua nghe và nhìn, 80% qua nói và 90% qua làm. Vì vậy, để tăng cường ghi
nhớ, nên chọn các biện pháp học tập đề cao vai trò của trao đổi, thảo luận, thực hành, hoặc kết
hợp nghe và nhìn, hỏi thầy và bạn về những điều chưa rõ...
c) Nhớ lâu bắt nguồn từ hứng thú học tập. Nếu một HS đam mê với việc giải thích các hiện
tượng địa lí, HS đó sẽ nhớ về các mối liên hệ nhân quả tốt hơn ; nếu thích thú với các hiện
tượng địa lí diễn ra xung quanh môi trường sống, HS đó quan tâm nhiều hơn đến việc quan sát
thực tế và vận dụng kiến thức địa lí vào giải quyết những vấn đề đó... Như vậy, hứng thú có thể
ví như một chất men kích thích việc học tập. Hứng thú học tập phải được tạo ra bằng thái độ,
động lực học tập (ví dụ học giỏi để thi đạt kết quả cao) và được nuôi dưỡng suốt trong quá trình
học tập. Mỗi khi gặp khó khăn, phải tìm cách giải quyết thích hợp để đạt được nguyện vọng
chính đáng đã xác định ban đầu của bản thân.


e) Ghi nhớ phải có tính hợp lí, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Do vậy, trong
quá trình học tập và luyện tập cần chú ý thực hiện những nhiệm vụ từ dễ đến khó.
g) Tập trung chú ý sẽ làm tăng cường trí nhớ. Thường não bộ không tiếp thu thông tin hai
loại cùng một lúc. Do vậy, khi học, phải tập trung tối đa vào việc học (nghe giảng, họăc
trao đổi thảo luận về nội dung học tập, giải bài tập...). Học xong, mới tập trung vào việc
khác.
g) Những thông tin sau cản trở, góp phần xoá đi những thông tin trước cùng loại và liên
tục. Đó là quy luật về ức chế tương đồng của trí nhớ. Do vậy, nếu vừa nghe giảng xong
trên lớp, về nhà học bài ngay, không tốt bằng để sau 5 - 6 tiếng đồng hồ mới học lại bài
trên lớp. Tuy nhiên, nếu khoảng thời gian đó để quá lâu (sau 11 - 12 tiếng đồng hồ chẳng
hạn), sự ghi nhớ sẽ bị suy giảm rất nhiều.
h) Thông tin đơn giản dễ nhớ hơn thông tin phức tạp. Vận dụng quy luật này của trí nhớ,
trong học tập cần xác định các kiến thức cơ bản, hoặc các đề mục một cách gọn rõ để dễ

nhớ.
i) Khả năng não bộ trong ghi nhớ không phải là vô hạn. Theo nhiều nhà khoa học, một
người trong một phút chỉ học được khoảng 75 đơn vị thông tin, trong suốt cuộc đời chỉ nhớ
nổi 58 tỉ đơn vị thông tin. Do đó, trong học tập, cần biết chọn nhớ những thông tin có ích,
biết quên đi những thông tin không cần thiết. Việc xác định những kiến thức cơ bản cần
thiết khi học địa lí là việc làm cần thiết đối với mỗi HS giỏi. Có thể chỉ cần nhớ những
kiến thức "chìa khoá", khi cần sẽ sử dụng nó để phát triển đến những kiến thức khác. Ví
dụ, khi học về Địa lí tự nhiên đại cương, việc thông hiểu và ghi nhớ các quy luật địa đới,
phi địa đới cho phép vận dụng chúng vào việc nhận biết và giải thích các hiện tượng khí
hậu khác nhau theo vĩ độ, theo đai cao, theo bờ đông hay bờ tây lục địa....


2. Rèn luyện kĩ năng tư duy
Tư duy được biểu hiện bằng các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá,
khái quát hoá). Để đánh giá một người có tư duy tốt hay không tốt (nôm na là thông minh hay ít
thông minh hơn), thường dựa vào việc đánh giá khả năng của các thao tác tư duy. Do vậy, rèn
luyện kĩ năng tư duy, chính là rèn luyện việc sử dụng các thao tác tư duy.
a) Việc rèn luyện tư duy một cách thông dụng nhất trong thực tế học tập là dựa vào việc tự trả
lời các câu hỏi và thực hiện các bài tập (ở SGK, sách bài tập, từ thực tế môi trường xung quanh
đặt ra...). Ứng với mỗi thao tác tư duy, có một loại câu hỏi tương ứng để tập trung rèn luyện
thao tác tư duy đó. Ví dụ, câu hỏi yêu cầu phân tích sẽ góp phần rèn luyện thao tác phân tích
của tư duy, câu hỏi yêu cầu trừu tượng hoá góp phần rèn luyện thao tác trừu tượng hoá của tư
duy...
Trong học tập địa lí hiện nay, HS nên rèn luyện kĩ năng tư duy theo các loại câu hỏi sau :
+ Câu hỏi phân tích : nhằm gợi ý HS tách riêng từng phần của sự vật và hiện tượng địa lí, hoặc
các thành phần của mối liên hệ. Ví dụ, phân tích những khả năng để Đồng bằng sông Cửu Long
thành vùng lương thực, thực phẩm hàng đầu của cả nước.
+ Câu hỏi tổng hợp : nhằm làm cho HS xác lập được tính thống nhất và mối liên hệ giữa các
thuộc tính của các sự vật, bộ phận hay dấu hiệu của chúng. Câu hỏi tổng hợp không phải là
tổng cộng đơn thuần các bộ phận của sự vật địa lí. Sự tổng hợp đúng sẽ là một hoạt động tư duy

mang lại kết quả mới nhất về chất. Ví dụ : Chứng minh rằng nền công nghiệp nước ta có cơ cấu
ngành khá đa dạng. Vị trí địa lí nước ta có những tác động như thế nào đến tự nhiên và phát
triển kinh tế - xã hội ? Hãy chứng minh rằng, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi có ý nghĩa
hàng đầu để sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. Hãy chứng minh
rằng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai trung tâm công nghiệp lớn nhất nước.


Phân tích và tổng hợp là hai thao tác tư duy có liên hệ mật thiết với nhau, không thể
tách rời nhau khi hình thành khái niệm. Những dấu hiệu bản chất của hiện tượng được
phát hiện bằng cách phân tích hiện tượng đang nghiên cứu. Đạt tới bản chất của hiện
tượng trong sự hoàn chỉnh và thống nhất là sản phẩm của tổng hợp. Do vậy câu hỏi
phân tích và tổng hợp luôn luôn đi kèm với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đôi
lúc trong loại câu hỏi này có thành phần của loại câu hỏi kia tham gia.
+ Câu hỏi so sánh, liên hệ : nhằm liên hệ các sự vật và hiện tượng địa lí lại với nhau
trong các mối quan hệ địa lí có thể có và thiết lập sự giống nhau, khác nhau giữa
chúng. Ví dụ : Hai trung tâm công nghiệp lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có những
điểm giống nhau như thế nào về cơ cấu ngành ? Nêu những điểm giống nhau và khác
nhau về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đông Nam Bộ với Trung du và
miền núi Bắc Bộ. Sự khác nhau đó có tác động như thế nào đến sự phát triển kinh tế
của hai vùng ? Phân biệt các hình thức tổ chức trang trại, thể tổng hợp nông nghiệp và
vùng nông nghiệp... Khi đặt câu hỏi so sánh, những đối tượng so sánh có thể có
những nét tương đồng hay trái ngược nhau.
+ Câu hỏi nguyên nhân - kết quả : là loại câu hỏi nêu lên mối liên hệ nhân quả, một
trong những dạng liên hệ có tính chất phổ biến trong bài địa lí. Ví dụ : Tại sao thời
gian mùa nóng ở Bắc bán cầu dài hơn ở Nam bán cầu ? Tại sao phân bố dân cư trên
thế giới có sự khác nhau giữa các vùng, các châu lục, các quốc gia ? Giải thích tại sao
các thành phố lớn cũng đồng thời là các trung tâm dịch vụ lớn. Tại sao ngành công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm trở thành ngành công nghiệp trọng điểm của
nước ta ?...



×