Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 160 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ CHÍNH

ĐẶC TRƯNG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM

HUẾ - NĂM 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ CHÍNH

ĐẶC TRƯNG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 62. 22. 01. 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. ĐỖ LAI THÚY
2. TS. HOÀNG ĐỨC KHOA

HUẾ - NĂM 2016



i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, xin chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia đình
đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận án.
Đặc biệt, xin cảm ơn PGS.TS Đỗ Lai Thúy, TS. Hoàng Đức Khoa
những người đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, cho tôi những ý kiến quí báu, giúp tôi
hoàn thành luận án.
Xin cảm ơn lãnh đạo khoa Sư phạm Ngữ văn – Sử - Địa, lãnh đạo trường
Đại học Đồng Tháp, lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận án.
Xin được cảm ơn tất cả quí thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp - những người
luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Tác giả

Nguyễn Thị Chính

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất
có thể. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.


Huế, tháng

năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Chính

iii


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 3
4. Đóng góp của luận án ........................................................................................................... 3
5. Cấu trúc của luận án ............................................................................................................. 4
NỘI DUNG ......................................................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu về lí thuyết thể loại………………….......................... .................. 5
1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ văn xuôi Việt Nam ... ...................................................... ...17
Chương 2. NHỮNG TIỀN ĐỀ NGHIÊN CỨU THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM ............... 22
2.1. Nhận diện thơ văn xuôi ....................................................................................................... 22
2.1.1. Quan niệm thơ văn xuôi ............................................................................................ 22
2.1.2. Vài tiêu chí nhận diện thơ văn xuôi......................................................... .............. .26
2.1.3. Thơ văn xuôi và các tương quan thể loại ................................................................. 38
2.2. Những tiền đề hình thành thơ văn xuôi Việt Nam ........................................................... 44

2.2.1. “Văn xuôi cổ ” - những thể điệu trung gian là tiền đề tư duy của thể loại............ 44
2.2.2. Sự xuất hiện của cái tôi cá nhân......................................................................... .......46
2.2.3. Sự phát triển của những thể loại mới…………………………… ............. ……..47
2.3. Khái lược về ba hệ hình thơ ca...................................................................................... ....49
2.3.1. Nhìn lại tình hình nghiên cứu hệ hình ở Việt Nam ................................................. 49
2.3.2. Tiêu chí phân định hệ hình ....................................................................................... 52
2.3.3. Đặc điểm ba hệ hình thơ ca ....................................................................................... 54
Chương 3. BA HỆ HÌNH THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI................................. 61
3.1. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) ............................................................ 62
3.1.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa).......................... 62
3.1.2. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện
cái tôi trữ tình....................................................................................... ...................... .........63
3.1.3. Thơ văn xuôi Việt Nam tiền hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy ................. 68
3.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) ................................................................... 73
3.2.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) ................................. 73

iv


3.2.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện
cái tôi trữ tình ........................................................................................................................ 75
3.2.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy ........................ 88
3.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) ........................................................... .93
3.3.1. Nhìn chung về thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) ......................... .93
3.3.2. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ phương diện
cái tôi trữ tình ........................................................................................................................ 97
3.3.3. Thơ văn xuôi Việt Nam hậu hiện đại (chủ nghĩa) nhìn từ kiểu tư duy.. ............. 101
Chương 4. NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VĂN XUÔI
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI..................................................................................... ............ .106
4.1. Kết cấu văn bản thơ .......................................................................................................... 106

4.1.1. Kết cấu theo sự vận động liền mạch của dòng cảm xúc, liên tưởng ................... 106
4.1.2. Kết cấu theo sự vận động bất định của dòng ý thức ............................................. 109
4.1.3. Kết cấu dán ghép ...................................................................................................... 113
4.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................................ 116
4.2.1. Đặc điểm chung của ngôn ngữ thơ văn xuôi ........................................................ 117
4.2.2. Ngôn ngữ thơ văn xuôi - gia tăng tính tạo hình và mở rộng
dạng thức kết hợp................................................................................................................ 121
4.3. Nhịp điệu ............................................................................................................................ 132
4.3.1. Nhịp điệu và nhịp điệu trong văn học .................................................................... 132
4.3.2. Nhịp điệu thơ văn xuôi trong tương quan với nhịp lời và nhịp ý........... ............. 134
4.3.3. Các kiểu nhịp điệu tiêu biểu của thơ văn xuôi Việt Nam..................................... 137
KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 142
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
LUẬN ÁN....................................................................................................................................144
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 145
PHỤ LỤC

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thuật ngữ thơ văn xuôi (tiếng Anh: prose poem, tiếng Pháp: poeme en prose) đã
xuất hiện khá thường xuyên trong đời sống văn học Việt Nam ở những thập niên gần đây. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã quen thuộc với mọi đối tượng độc giả cũng như được
mọi người trong giới sáng tác hay nghiên cứu thừa nhận. Có thể nói, thơ văn xuôi là một thể
thơ lạ chứ không hề mới. Trên thế giới, nó đã xuất hiện từ đầu thế kỉ XIX, thậm chí có tài liệu
cho rằng tác phẩm đầu tiên hiện diện chính thức trên thi đàn với tư cách thơ văn xuôi có từ thế
kỉ XVIII - thời điểm các nhà thơ hướng đến văn xuôi như một phản ứng chống lại những luật
lệ quá nghiêm khắc mà Viện hàn lâm đã đặt ra đối với phép làm thơ lúc bấy giờ [126]. Trên

thế giới, thể thơ này đã gắn liền với những tên tuổi bậc thầy của nó như C. Baudelaire, A.
Rimbaud (Pháp), W. Whitman (Mỹ), O.Wide (Anh), N. Turgenev, R. Tagore (Ấn Độ),… Ở
Việt Nam, thơ văn xuôi cũng đã hiện diện trong hành trang của bao thế hệ từ những thử bút
của các nhà thơ “đêm trước” Thơ mới như Tản Đà, Đông Hồ, Tương Phố, Phan Khôi, đến các
nhà Thơ mới như Huy Thông, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn
Hạnh,… Trong nền thơ cách mạng, thơ văn xuôi vẫn tồn tại trong sáng tác của Nguyễn Đình
Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, … Ở thơ thành thị miền Nam 1954 - 1975 cũng có Thanh Tâm
Tuyền, Tô Thùy Yên, Mai Trung Tĩnh, Bùi Giáng, Nguyên Sa,… Đặc biệt từ thời kì Đổi mới
đến nay, thơ văn xuôi là mảnh đất khá màu mỡ để những cây bút cách tân mạnh mẽ hướng tới
như Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,
Dương Kiều Minh, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Thúy Hằng, Đặng Thân,…
Như vậy, có thể nói, dù chưa là thương hiệu riêng của một nhà thơ nào, và trong sự
nghiệp sáng tác của từng tác giả, thơ văn xuôi cũng hiện hữu rất khiêm tốn, đồng thời những
kết tinh nghệ thuật của nó về số lượng cũng chưa thể sánh bằng các thể thơ khác, song, thơ văn
xuôi đã thật sự là một thực thể của đời sống văn học Việt Nam. Sự hiện diện của thơ văn xuôi
với tư cách là một thể loại đã là điều không thể phủ nhận. Thế nhưng, dù hiện diện trong đời
sống thơ ca dân tộc gần một thế kỉ song tâm lí nghi ngại về nó vẫn tồn tại: liệu đó “có phải là
thơ không? Còn chờ xem” [44, 668], “Có nên chấp nhận một thể loại mà từ trước đến nay vẫn
nhiều người nói đến là thơ văn xuôi hay không?” [123]. Trong bài viết có tính chất tổng kết
Trăm năm thơ ca, Võ Văn Trị cho rằng “Thế kỉ XX là thế kỉ được mùa của thơ” song, ở bức
tranh thơ 100 năm ấy người ta thấy không hề có bóng dáng thơ văn xuôi. Nói như Lưu Khánh
Thơ: “Đây là thể tài thơ còn ít được phổ cập trong tâm lí người sáng tác cũng như người tiếp

1


nhận” [107, 388]. Và, thật sự nó thường bị bỏ quên, bị lướt qua trong rất nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu về thơ nói chung hay sự nghiệp sáng tác của một nhà thơ nói riêng.
1.2. Từ sau năm 1975, nhất là sau Đổi mới, thơ văn xuôi xuất hiện ngày một nhiều.
Cùng với nó là những nghiên cứu về thơ văn xuôi cũng ngày càng nhiều hơn. Song, dù có thu

hút sự chú ý của giới nghiên cứu, nhưng xung quanh nó vẫn còn bề bộn những vấn đề, những
ý kiến, nhận định chưa rõ ràng. Thật ra, xuất hiện từ những thập niên đầu thế kỉ XX nhưng
trong hệ thống thể loại thơ ca Việt Nam, nó vẫn thuộc thể thơ “sinh sau đẻ muộn”, vẫn còn
đang trong quá trình vận động chưa hoàn tất, huống hồ nó chỉ mới được quan tâm nhiều ở thời
gian gần đây. Những bài báo, bài tiểu luận, tham luận có liên quan, những bài nghiên cứu trực
tiếp vấn đề thể loại, những luận văn đi vào nghiên cứu thơ văn xuôi Việt Nam ở một giai đoạn
nào đó,… vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu một cách toàn diện về thể thơ này.
Việc chưa có một công trình chuyên khảo thật sự về thơ văn xuôi hay một cuộc tọa đàm, hội
thảo xung quanh nó vẫn là điều thiệt thòi, là việc khó khăn cho những người thật sự yêu thích
thơ văn xuôi nhưng không thuộc diện là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Một tác phẩm
mà trong công trình nghiên cứu này thì được/bị xếp vào tản văn, hay văn xuôi trữ tình, còn ở
công trình nghiên cứu khác lại cho là thơ văn xuôi hay thơ không vần khiến cho người đọc hết
sức lúng túng. Có thể nói, về lí thuyết thể loại cũng như thực tiễn sáng tác, thơ văn xuôi ở Việt
Nam hiện nay vẫn còn có nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đòi hỏi một sự nghiên cứu tiếp tục.
1.3. Mỗi thể loại văn học đều có đặc trưng riêng và đó là cái lí để nó có được vị trí của
mình trong ngôi nhà thể loại. Là thể thơ lai ghép, lưỡng hợp giữa thơ trữ tình và văn xuôi tự sự,
bản thân nó đã phức tạp, lại chỉ mới xuất hiện trong nền văn học hiện đại, nên việc tìm ra
những đặc trưng của nó lại càng cần thiết hơn đối với người nghiên cứu cũng như người làm
công tác giảng dạy.
Đó là những lí do để chúng tôi chọn “Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại”
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát của luận án là những sáng tác thơ văn xuôi từ đầu thế kỉ XX đến
nay. Cụ thể:
- Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) của hai tác giả Nguyễn Văn Hoa và
Nguyễn Ngọc Thiện.
- Những tập thơ văn xuôi: Đất thơm – Nguyễn Xuân Sanh, Giọt sương hoa - Phạm Văn
Hạnh, Bến lạ, Ô mai - Đặng Đình Hưng, Thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lí -


2


Nguyễn Thúy Hằng,….
- Những sáng tác thơ văn xuôi nằm lẫn trong các tập thơ, tuyển thơ của các tác giả được
ghi nhận ở mảng sáng tác này. Cụ thể: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Nhóm Ngựa trời, Trần
Tiến Dũng, Nguyễn Thúy Hằng, Đặng Thân, Nguyễn Thế Hoàng Linh,…
- Thơ văn xuôi của các cây bút đô thị miền Nam như Nguyên Sa, Mai Trung Tĩnh,
Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng (qua các tập thơ) và của các nhà thơ khác (đăng tải trên Tạp chí
Văn, Tạp chí Sáng tạo, Văn học từ 1955 đến 1975).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến nay. Trong đó, chúng tôi sẽ tập trung vào ba phần chính: hệ thống lại một số vấn
đề lí thuyết thể loại, phác thảo diện mạo của thơ văn xuôi Việt Nam và làm rõ những đặc trưng
mang tính nổi bật của thể loại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Là Luận án xem xét một hiện tượng văn học vừa trên cơ sở lịch đại (diễn biến suốt thế
kỉ XX) vừa trên cơ sở đồng đại (xem xét từng thời kì) nên phải có cơ sở về lí thuyết. Nền tảng
lí thuyết này sẽ tạo ra những phương pháp để tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Và ở đây là các lí
thuyết hệ hình, thi pháp học cùng với các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp loại hình: Dùng để khái quát những đặc điểm chung về mặt thể loại của
thơ văn xuôi; đặt thơ văn xuôi trong mối quan hệ với các thể loại khác trong hệ thống thể loại,
trong sơ đồ loại hình thơ ca để nhận thức đầy đủ tính chất đặc thù của nó, chứng minh sự tồn
tại của nó trong lịch sử văn học.
- Phương pháp hệ hình: nghiên cứu thơ văn xuôi trong tương quan ba hệ hình thơ để
làm nổi bật tính chỉnh thể, diện mạo, đặc trưng cũng như sự phát triển theo quy luật nội tại của
đối tượng này, đặc biệt nhằm khám phá, phát hiện những điểm mới mẻ.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: nhằm nhận diện những khác biệt giữa thơ văn xuôi
và các thể loại lân cận. Phương pháp này cũng giúp đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan

hệ đồng đại và lịch đại nhằm thấy được sự kế thừa, bước phát triển sáng tạo,...
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp học
hay các thao tác: phân tích, thống kê phân loại, khảo sát văn bản,....
4. Đóng góp của luận án
Với đề tài này chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp được những vấn đề có ý nghĩa sau:

3


Thứ nhất, thông qua việc khảo sát thơ văn xuôi từ những sáng tác của phong trào
Thơ mới đến nay (kể cả thơ miền Nam 1955-1975), luận án dựng lại bức tranh toàn cảnh
về thơ văn xuôi gần một thế kỉ qua.
Thứ hai, luận án dùng lí thuyết hệ hình, một mặt để miêu tả sự phát triển của thơ
văn xuôi qua các giai đoạn lịch đại, mặt khác như một tiêu chí để nhận diện những đặc
trưng của thơ văn xuôi ở từng giai đoạn, cũng như với từng tác giả, tác phẩm.
Thứ ba, luận án đi vào làm rõ những phương thức nghệ thuật mang tính đặc trưng
của thơ văn xuôi trong cái nhìn đối sánh với các thể thơ khác.
5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung của Luận án
sẽ được triển khai theo cấu trúc gồm 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những tiền đề nghiên cứu thơ văn xuôi Việt Nam
Chương 3. Ba hệ hình thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
Chương 4. Những phương thức nghệ thuật của thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại

4


NỘI DUNG
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về lí thuyết thể loại
1.1.1. Trên thế giới
Thơ văn xuôi là thể thơ đã gắn liền với tên tuổi những nhà thơ lớn từ nhiều nước trên
thế giới. Song, những công trình dịch thuật, trình bày một cách hệ thống, cụ thể về thể loại vẫn
chưa xuất hiện ở Việt Nam. Trong Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), các tác
giả có đưa vào một số lời phát biểu thể hiện quan niệm về thơ văn xuôi của Từ điển văn học
(Pháp). Chẳng hạn như lời của Cha xứ địa phận La Bresche (1663): “Diễn giả dường như bay
bổng bằng lời hùng biện hay sứ giả say sưa khi mô tả kì tích lịch sử, đó là những người đích
thực làm thơ bằng văn xuôi” [44, 577] hay Guze de Balzac trong thư gửi Charles Perrault
Boileau cũng đề cập đến: “những áng thơ mà chúng ta gọi là tiểu thuyết”. [44, 577]. Song, thật
ra, hai tác giả này không nói về thể loại thơ văn xuôi mà nói về thứ văn xuôi có chất thơ. Ở
những trích dẫn này, đáng chú ý hơn là phát biểu của Baudelaire: “Trong chúng ta có ai trong
những ngày đầy tham vọng, lại không mơ tưởng đến một phép lạ của thể văn xuôi - thơ không
điệu không vần, hơi mềm và hơi cứng để có thể thích ứng với những vận động trữ tình của tâm
hồn, với làn sóng nhấp nhô của mơ mộng, với những cảm xúc bất thường của lương tri” [44,
653]. Theo dẫn giải của Từ điển văn học (Pháp) thì Baudelaire đã ràng buộc thể thơ này với
tính chất hiện đại đô thị. “Thơ văn xuôi là phương tiện của người nghệ sĩ hiện đại tha thiết …
tạo ra được ám lực gợi cảm vừa chứa đựng khách thể và chủ thể, thế giới ngoại cảnh đối với
nghệ sĩ…” [44, 578].
Bên cạnh những trích dẫn từ Từ điển văn học (Pháp), Tuyển tập còn giới thiệu bài viết
Thơ văn xuôi và văn xuôi thơ của tác giả người Tây Ban Nha - Rosa Chacel do Nguyễn
Trung Đức dịch. Bài viết chủ yếu trình bày quá trình tác giả chuyển từ sáng tác thơ qua sáng
tác văn xuôi, song ở đây có một phát biểu mà chúng tôi cho là rất đáng lưu ý: “Văn xuôi là thứ
công cụ chuyên chở rộng rãi vô cùng đối với thơ và không chỉ thơ ca không bị mất mát gì
trong phương tiện chuyên chở đó mà ngay cả văn xuôi cũng bắt gặp trong thơ cả lí do tồn tại
cao cả nhất của mình” [44, 589].
Về những tài liệu mà chúng tôi thu thập được ở mảng này có thể kể đến ba tài liệu sau:
Thứ nhất là lời giới thiệu hợp tuyển Thơ văn xuôi: Hợp tuyển quốc tế của Michael Benedikt.
Trong lời giới thiệu, tác giả có trình bày quan niệm về thơ văn xuôi, cho rằng đó là “một thể tài

thơ, được viết bằng văn xuôi một cách có chủ ý và được đặc trưng bởi việc sử dụng mạnh mẽ

5


hầu như tất cả mọi phương tiện của thơ ca, trong đó bao gồm hầu hết các phương tiện của thơ
luật, ngoại trừ sự ngắt dòng”. Những yếu tố tác giả cho là tài sản đặc biệt của thơ văn xuôi
gồm: sự chú ý đến vô thức và logic riêng của nó, việc sử dụng những mẫu thức lời nói hàng
ngày, thông tục, sức mạnh của sự nhìn xa trông rộng, dựa trên óc hài hước, sự giải thoát khỏi
những nghi ngờ và chủ nghĩa hoài nghi.
Tài liệu thứ hai là What is a prose poem? (Thơ văn xuôi là gì?) đăng trên website
www.poetry.preview.com/poets/prosepoem.html. Tài liệu này cũng đưa ra một định nghĩa về
thơ văn xuôi, đề cập đến sự hình thành và phát triển của thể loại. Tác giả cho rằng: “Thơ văn
xuôi là một thể thơ được đặc trưng bởi sự không ngắt dòng. Mặc dù trông nó giống với một
đoạn văn xuôi ngắn, nhưng có thể thấy nó trung thành với thơ ở việc sử dụng nhịp điệu, các
hình thái của lời nói, vần, sự trùng âm, sự hài âm, và các biểu trưng” [126].
Tài liệu thứ ba là quyển The American prose poem, Poetic form and the Boundaries
of Genre (Thơ văn xuôi Mĩ, hình thức và ranh giới thể loại) của tác giả Michel Delville. Đây
có thể coi là một công trình chuyên khảo về thơ văn xuôi Mỹ. Trong cuốn sách này, tác giả đã
cung cấp những kiến thức về nền tảng lịch sử của thể thơ, nhưng nội dung cơ bản của sách như
tên gọi của nó, chủ yếu tập trung vào thơ văn xuôi Mỹ, sự hình thành của thơ văn xuôi Mỹ, vai
trò của các nhà Tiền phong, mối quan hệ giữa thơ văn xuôi Mỹ và trường phái thơ ngôn ngữ,
giữa thơ văn xuôi và truyện ngắn. Tác giả cũng đi sâu vào nghiên cứu thơ văn xuôi của một số
nhà thơ như Russell Edson, Robert Bly, Charles Simic,… và một số tác giả thơ văn xuôi
đương đại khác của Mỹ,…
Như vậy so với thành tựu thơ văn xuôi mà các nhà thơ thế giới từ Pháp, Mỹ, Anh, Đức,
Nga, Ấn Độ, Trung Quốc,… đạt được thì lí thuyết về thể loại cũng như sản phẩm thơ văn xuôi
đi vào Việt Nam là vô cùng hạn chế. Điều này cũng là một khó khăn đáng kể khi chúng ta
muốn xác lập một hệ thống lí luận về thể loại nói chung.
1.1.2. Ở Việt Nam

Thơ văn xuôi ở Việt Nam đã “trình chánh” giữa làng thơ từ những thập niên đầu thế kỉ
XX, vào lúc các nhà thơ cảm thấy quá ngột ngạt bởi sự “câu thúc” của luật lệ thơ cũ “rắp toan
bày ra một lối thơ mới” nhưng “vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì
được” [56]. Vậy mà đến khi tổng kết phong trào Thơ mới qua Một thời đại của thi ca (1941),
Hoài Thanh đã bỏ qua thể loại này, chỉ ghi nhận có hiện tượng “xâm lăng của văn xuôi. Văn
xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành” [99, 39]. Mãi đến năm 1957, trong bài viết Vài
gợi ý về thơ tự do của Trần Thanh Hiệp đăng trên Tạp chí Sáng tạo thì cái tên “thơ xuôi” mới
hiện diện, song tác giả cũng chỉ nói đến cảm nhận của mình về thể thơ qua mấy dòng ngắn

6


ngủi: “Thơ xuôi là một cực điểm của thơ tự do. Đó là một thể thơ không bố cục giống bài thơ
mà lại giống một bài văn xuôi. Tuy nhiên nó phải chứa đựng những rung cảm cô đọng của thi
hứng, sức truyền cảm phong phú của thi nhiệt và tiết điệu phù chú của thi ca” [39,46], sau đó
kể tên hai đại biểu xuất sắc của nó là Whitman và Tagore.
Tư duy về thể loại thơ văn xuôi, trình bày nó một cách khoa học phải chờ đến năm
1965 với bài viết Một vài ý kiến về thơ văn xuôi của Xuân Diệu đăng trên báo Văn nghệ.
Nhiều vấn đề của thể thơ đã được tác giả đề cập đến trong bài này. Trước hết, là quan niệm về
thơ văn xuôi. Theo Xuân Diệu: “những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ, đọc vào
như tưới thấm tâm hồn người, vừa có hình tượng đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có nhịp điệu
tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài “văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ
rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hóa thành những bài thơ
bằng văn xuôi” [44, 611]. Ông cũng đề cập đến một số đặc trưng của thể thơ trên nhiều
phương diện. Về hình thức: bài thơ thường ngắn, thiếu vần, tăng cường nhịp điệu. Theo ông:
“Viết thơ văn xuôi cần phải nắm vững nhịp điệu, tiết tấu của câu thơ dài rộng phá thể, và phải
tinh vi nghe được cái nhạc bên trong của câu thơ” [44, 619] và sở dĩ thơ văn xuôi không cần
vần, vì: “Tứ thơ, hình tượng thơ, nhịp điệu thơ đã đủ… sự không vần ở đây lại như là một cái
duyên riêng của bài thơ, một sự trang điểm không cần đến nữ trang” [44, 619]. Về nội dung,
thơ văn xuôi vẫn cố gắng “rút lấy cái tinh chất của sự vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động

của sự vật vào trong tâm hồn, trí tuệ con người thành cảm xúc, tư tưởng, tình cảm” [44, 611].
Về nguồn gốc, tác giả cho rằng “Thơ văn xuôi có một nền móng, một truyền thống lâu dài từ
nền văn học dân tộc” [44, 615] và thể phú “chính là tổ tiên xa của nó” [44, 611]. Bên cạnh đó,
ông cũng thừa nhận yếu tố thứ hai: thể thơ này cũng “đến từ văn học thế giới vào nước ta với
ảnh hưởng văn học Âu Tây”. Ngoài ra, bài viết còn nêu những đòi hỏi của thể thơ đối với
người sáng tác cũng như người tiếp nhận. Tác giả cũng chú ý đến việc coi thơ văn xuôi như
một thể điệu trung gian, là biểu hiện của việc “mở rộng các hình thức, các thể điệu đặng phục
vụ cho sự diễn đạt nội dung hiện nay đắc lực hơn” [44, 619].
Có thể nói, dù là người đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về thơ văn xuôi và chỉ dừng lại
ở “Một vài ý kiến”, nhưng tác giả đã đề cập khá đầy đủ những vấn đề của thể thơ này. Nói như
Lưu Khánh Thơ, với bài viết này “Xuân Diệu đã là nhà thơ có công đầu trong việc đóng góp
những suy nghĩ tìm tòi mang tính lí luận về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi nói
chung và thơ văn xuôi Việt Nam nói riêng” [107, 389]. Tuy nhiên, ở bài viết, ta thấy vẫn có đôi
chỗ chưa thật ổn, cần phải bàn luận thêm. Cụ thể như quan niệm của tác giả về thơ văn xuôi.
Hiểu theo cách của ông dễ dẫn đến việc đồng nhất văn xuôi có chất thơ với thơ văn xuôi bởi

7


cách phân biệt giữa chúng chưa có sự rõ ràng: “Khi những bài “văn xuôi có chất thơ” ấy mang
chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hóa thành những
bài thơ bằng văn xuôi” [44, 611]. Hoặc khi tác giả nói “Thơ văn xuôi cũng dùng cái suy nghĩ
(tư duy) hình tượng đến cao độ” thì ranh giới giữa thơ văn xuôi và văn xuôi cũng rất khó xác
định bởi tư duy hình tượng là kiểu tư duy chung của ngôn ngữ văn học, của mọi thể loại,
không phải là độc quyền của thơ văn xuôi. Hơn nữa, khi nói về nguồn gốc, tác giả quá nhấn
mạnh về yếu tố gốc rễ dân tộc, thậm chí tác giả còn đồng nhất những thể tài mang dấu hiệu
mầm mống của thơ văn xuôi với chính thể loại này: “Đây là hai bài thơ văn xuôi cổ hơn hết:
bài Văn tế chị của Nguyễn Hữu Chỉnh và Khóc Trương Quỳnh Như của Phạm Thái” [44,
615] “… Nếu trên thi đàn hiện nay mà có xuất hiện những bài thơ bằng văn xuôi thì bạn đọc
đừng lấy làm lạ. Còn lạ gì nữa. Thơ ấy đã có từ đời Nguyễn Hữu Chỉnh, từ đời Trương Hán

Siêu, Từ Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ, Tô Thức” [44, 618].
Tiếp đến, cũng là một cột mốc quan trọng trong nghiên cứu thơ văn xuôi là bài viết
Thơ văn xuôi của Hà Minh Đức in trong Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ
ca trong Văn học Việt Nam xuất bản năm 1968. Nếu quan niệm về thơ văn xuôi của Xuân
Diệu chưa đưa đến được một sự phân biệt rõ ràng để nhận diện thể loại thì với công trình này
Hà Minh Đức đã là người đầu tiên nghiên cứu thơ văn xuôi với tư cách là một thể loại có
những đặc điểm riêng phân biệt với văn xuôi và với thơ. Bằng thao tác đối lập, tác giả đã giúp
người đọc thấy được sự khác biệt giữa thơ văn xuôi với văn xuôi dựa trên nhiều phương diện:
phương thức biểu hiện; chất thơ thể hiện trong cảm xúc, cấu tứ, hình ảnh; hình thức so sánh;
cấu trúc câu, còn khác biệt giữa thơ văn xuôi và thơ chủ yếu ở phương diện cấu tạo về hình
thức, cụ thể là: “tổng số tiết tấu trong một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội
dung ý thơ” [44, 625]. Ông còn cho rằng “câu thơ dài từ 11, 12 từ trở lên sẽ dần biến thành
câu thơ văn xuôi và bài thơ bao gồm những câu thơ đó sẽ có xu hướng trở thành bài thơ văn
xuôi” [44, 627]. Trong phần nghiên cứu này tác giả cũng có điểm gặp gỡ với Xuân Diệu khi
nói về nguồn gốc thể loại: “trong thơ ca của ta, các thể văn vần như phú và văn tế, và các loại
biền văn như hịch, cáo đều mang dáng dấp thơ văn xuôi”.
Có thể nói, Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát trên cả hai phương diện nội dung và
hình thức của thơ văn xuôi. Ông đã nêu khá đầy đủ các đặc điểm loại hình của nó trong quá
trình lập luận. Song, có lẽ do yêu cầu của việc biên soạn một công trình chung về thể loại nên
ông cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát vấn đề mà chưa có sự phân tích làm sáng rõ những
biểu hiện của các đặc điểm đó nên việc nhận diện chúng vẫn còn nhiều khó khăn.
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu về thơ văn xuôi trước năm 1975 còn hết sức hạn

8


chế. Chỉ sau thời kì Đổi mới, khi thơ văn xuôi đã thường xuyên xuất hiện, thì sự quan tâm
dành cho nó mới càng ngày càng nhiều hơn. Và điều đáng mừng nhất là, năm 1997, Tuyển tập
thơ văn xuôi (Việt Nam và thế giới) do Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn,
đã ra đời. Sách gồm hai phần: Phần một tuyển chọn tác phẩm thơ, phần hai là tập hợp những

bài viết bàn về thơ văn xuôi hay những vấn đề liên quan ít nhiều đến thơ văn xuôi ở trong và
ngoài nước. Dù chưa phải là một chuyên khảo nhưng sự ra đời của công trình này đã cho thấy
đây là lần đầu tiên thơ văn xuôi nhận được sự quan tâm thích đáng từ giới nghiên cứu và cho
đến nay nó vẫn là tuyển tập thơ văn xuôi duy nhất. Ở phần hai - tư liệu về lí thuyết thơ văn
xuôi, ngoài hai bài nghiên cứu của Xuân Diệu và Hà Minh Đức mà chúng tôi đã giới thiệu ở
trên, phần còn lại cũng có một số ý kiến cần được lưu ý như của Nguyễn Ngọc Thiện (Tư duy
và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi -1996), Nguyễn Trọng Tạo (Thơ văn xuôi hay là thơ
không vần -1996), Hữu Đạt (Thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do - 1996)
và Mã Giang Lân (Xu hướng tự do hóa hình thức thơ -1990).
Trong bài viết của mình, Nguyễn Ngọc Thiện không thống nhất với tên gọi thơ văn
xuôi vì theo ông: “Cách gọi này chưa bao quát đầy đủ các tính chất đặc trưng về tư duy và
cấu trúc nghệ thuật của loại thơ này” [44, 648]. Bài viết đã thể hiện sự nỗ lực của tác giả trong
việc đi tìm tính quan niệm của hình thức thể loại. Ông viết: “Thơ văn xuôi ra đời, tôi nghĩ,
trước hết là do đòi hỏi của một tư duy nghệ thuật mới, đi tìm một độ căng thẩm mỹ mới dựa
vào áp lực liên kết của các ý thơ, câu thơ xếp liền nhau, theo một liên hệ cộng hưởng nước
đôi: một mặt vẫn tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ, mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục
ngang của văn xuôi” [44, 649]. Song, bên cạnh nhận định có thể nói là sắc sảo này, cũng còn
một số nhận định mà theo chúng tôi khá cảm tính, tự mâu thuẫn với chính những quan niệm
mà tác giả đưa ra: “… Tác giả làm thơ văn xuôi, một cách rất khiêm tốn, phải chăng như muốn
nhũn nhặn cùng người đọc: Mong bạn thông cảm, tôi không đủ thì giờ gọt rũa câu chữ. Mong
bạn bớt chút thì giờ và kiên nhẫn đọc tôi, cùng qua thơ, chia xẻ những suy tư về cuộc đời, con
người và lẽ đời” [44, 649]. Thậm chí tác giả cho rằng “sự pha trộn của thơ và văn xuôi, như
một kết hợp ngẫu hứng của thể loại” [44, 648] trong khi Xuân Diệu, Hà Minh Đức, Mã Giang
Lân, Lê Lưu Oanh, Nguyễn Đăng Điệp, Dương Kiều Minh, Trần Ngọc Hiếu,… đều khẳng
định sự xuất hiện của thơ văn xuôi “Không phải là một sự lập dị, một sự tìm tòi hình thức chủ
nghĩa, mà do một nhu cầu bên trong của sự sáng tác thơ” [44, 619]; “Thơ văn xuôi là sự dãn
ra của các hình thức thơ cách luật. Sự dãn ra này là do yêu cầu về nội dung quy định” [44,
628]. Sự xuất hiện của “Thơ văn xuôi là biểu hiện của việc đi tìm một cách thể hiện mới cho
các hình thức trữ tình với hai khuynh hướng: Tìm kiếm một giọng điệu vừa phức tạp vừa gai


9


góc, lắm lí sự, nhiều chất nghĩ; Bộc lộ cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, gấp gáp, không điềm tĩnh mà
say đắm buông thả, không muốn bị ràng buộc bởi bất kì một niêm luật nào để giải phóng tối
đa sự dạt dào của cảm xúc và lối kiến trúc bề thế, tầng lớp của hình ảnh từ ngữ” [80, 148],...
Nguyễn Trọng Tạo qua bài viết cũng đã gặp gỡ với Nguyễn Ngọc Thiện ở sự băn
khoăn về tên gọi của thể loại: “Dù thơ văn xuôi đã trở thành một thuật ngữ ở phương Tây, và
đã lây lan ít nhiều sang phương Đông, nhưng tôi vẫn cảm thấy hai từ văn xuôi dùng vào hình
thức này khá bất ổn, nó dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn” [44, 654]. Và theo ông: “Thực chất thơ
văn xuôi chính là thơ không vần hay nói cách khác nó là biến cách của thơ - không vần” [44,
653]. Ông cũng chỉ ra thực trạng mà cũng là một trong những vấn đề tồn tại của thể thơ này:
“có người nhầm lẫn khi ghép những dòng thơ có vần lại với nhau dưới hình thức văn xuôi và
gọi nó là thơ văn xuôi; lại có người viết một mẩu văn xuôi đầy chất thơ rồi bảo đấy là “Thơ
văn xuôi” để chứng minh rằng mình làm thơ không đến nỗi nghèo nàn về hình thức” [44, 654].
Vấn đề bất cập này về sau còn được đề cập đến trong bài viết của Nguyễn Đăng Điệp và Phạm
Quốc Ca. Trong Nghĩ về thơ văn xuôi, Nguyễn Đăng Điệp có chỉ ra sai lầm của nhiều cây bút
thơ trong quan niệm dễ dãi về thể loại này: “Nhiều người coi thơ văn xuôi như một sản phẩm
thời thượng và họ ghép những câu thơ có vần, có điệu bên nhau một cách dễ dãi mà không
hay rằng, mặc dù khá tự do nhưng thơ văn xuôi vẫn đòi hỏi một cấu trúc chặt chẽ... đòi hỏi
nghệ sĩ phải thật sự là một cây bút tài năng” [27, 352 - 353]. Ở Mấy nhận xét về thể thơ trong
thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000, Phạm Quốc Ca cũng bày tỏ quan điểm: “không nên xem
là thơ văn xuôi những bài về thực chất là thơ có vần, có số lượng chữ trong câu cố định hay
không cố định nhưng được sắp xếp theo chiều ngang không xuống dòng… Cũng không phải là
thơ văn xuôi loại văn xuôi có chất thơ” [11, 366].
Thơ văn xuôi cũng được Mã Giang Lân bàn đến trong Xu hướng tự do hóa hình thức
thơ - 1990, về sau ông còn đề cập thêm trong Nhịp điệu thơ hôm nay - 1997. Nói về thời
điểm ra đời của thơ văn xuôi Việt Nam, nếu như Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện,
Hoàng Sĩ Nguyên, Hồ Thị Tú Anh,… cho rằng nó đến từ “đêm trước” Thơ mới thì theo quan
niệm của Mã Giang Lân - “Ý thức thể loại và chất lượng sáng tạo theo định hướng của thể loại

mới tạo nên tác phẩm mang phẩm chất thể loại” nên ở Việt Nam “có lẽ đầu những năm 40
của thế kỉ XX ý thức thể loại thơ văn xuôi hình thành ở Phạm Văn Hạnh và Nguyễn Xuân
Sanh” [64]. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, về cái lí tồn tại của thể loại, ông cho rằng sự
nới rộng kéo dài về hình thức câu thơ thành thơ văn xuôi là nhằm khái quát “những sự kiện
thời sự nóng hổi, những suy nghĩ cảm xúc ào ạt vào thơ. Có khi phải mô tả, phải ghi nhanh,
ghi nhiều hình ảnh, sự việc” [44, 643 - 644]. Tác giả cũng đưa ra tiêu chí để nhận diện sự khác

10


biệt giữa thơ văn xuôi và văn xuôi, thơ văn xuôi và thơ tự do, thơ không vần. Đó là bằng thị
giác: văn bản thơ văn xuôi “xuống dòng nhiều hơn văn bản văn xuôi” còn thơ tự do thì “các
câu thơ ngắn hơn thơ văn xuôi” [64]. Song, tác giả cũng cho rằng “Khi cách luật càng tự do,
câu thơ càng ít phục tùng những quy tắc thì sự khác biệt sẽ phụ thuộc nhiều vào nhịp điệu”
nhưng khi đi sâu vào vấn đề nhịp điệu, tác giả chỉ tập trung nói về nhịp điệu của thơ nói chung.
Bài của Hữu Đạt được trích từ công trình Ngôn ngữ thơ Việt Nam (1996). Xuất phát từ
góc nhìn của một nhà ngôn ngữ học, tác giả đã khẳng định: “Đứng trên phương diện ngôn
ngữ, thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do” [24, 310]. Ông cũng chỉ ra một
cách khái quát những điểm mạnh, điểm hạn chế của thể thơ này trong việc biểu hiện hình
tượng, cảm xúc thơ: “ưu điểm là diễn tả được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những
hình ảnh, ý thơ liên tiếp” [24, 310] song “do tính nhiều tầng bậc, nhiều lớp lang trong cấu trúc
thơ, việc chia cắt nhịp điệu, ngữ điệu của câu thơ thay đổi thường xuyên sẽ làm người đọc khó
nhớ khó thuộc”[24, 312]. Và đi đến kết luận “Thơ văn xuôi hiện đại dù sao cũng không thay
thế được thơ tự do”, với một số tác giả “non tay nghề”, không nắm vững thanh, vận, âm luật sẽ
“vô tình biến nó thành thứ “văn biền ngẫu hiện đại” [24, 312]. Theo chúng tôi, bất cứ một thể
loại văn học nào ra đời cũng đều có cái lí của nó, không hẳn thể loại nào xuất hiện sau cũng
nhằm để thay thế thể loại trước nó cũng như sự non tay nghề của tác giả dù ở bất cứ thể loại
nào cũng khiến nó đứng trước nguy cơ bị mất hết phẩm chất cũng như giá trị chứ không riêng
ở thơ văn xuôi. Về sau, trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại (2001), thể thơ này tiếp tục
được ông đề cập và điểm cần lưu ý nhất ở đây là tác giả đã chỉ ra đặc trưng về cấu tạo của mô

hình câu thơ văn xuôi: Đó là kiểu trùng điệp, nhiều lớp lang, thành phần phụ.
Sau thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong nghiên cứu thơ văn xuôi này, ta còn khá
nhiều những tiểu luận, bài nghiên cứu, phê bình tiếp tục bàn luận trực tiếp về thơ văn xuôi hay
những chuyên luận về thơ Việt Nam hiện đại, đương đại nhưng cũng có những quan tâm thích
đáng đến thể thơ này. Có thể kể đến: Một số đặc điểm của thơ văn xuôi của Lê Thị Hồng
Hạnh (2006), Thơ văn xuôi - nhu cầu tự thân của thời đại của Dương Kiều Minh; Thơ văn
xuôi - tiềm năng và phát triển của Nguyễn Văn Dân, Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)
của Lê Lưu Oanh (1998), Tư duy thơ hiện đại Việt Nam - Nguyễn Bá Thành (2011), Thơ trữ
tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay - Những đổi mới cơ bản của Đặng Thu Thủy
(2011), Kháng cự Thơ mới - Huỳnh Như Phương (2012), Chủ nghĩa hiện đại trong văn học
nghệ thuật - Nguyễn Văn Dân (2013),… Một số nghiên cứu nhà trường như Diện mạo thơ
văn xuôi Việt Nam - Luận văn thạc sĩ của Hồ Thị Tú Anh (1999), Bước đầu tìm hiểu một số
đặc điểm của thơ văn xuôi và sự thể nghiệm của thể thơ này trong phong trào Thơ mới ở

11


Việt Nam - Tiểu luận khoa học của Trần Ngọc Hiếu (2001),... Sự thâm nhập của chất văn
xuôi vào thơ Việt Nam đương đại - Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Tâm - 2012,…
Ở những công trình này, khái niệm thơ văn xuôi vẫn tiếp tục được đề cập mà đáng chú
ý, theo chúng tôi là ý kiến của các tác giả Lê Lưu Oanh, Đặng Thu Thủy, Nguyễn Thanh Tâm.
Trọng tâm công trình nghiên cứu của Lê Lưu Oanh là khai thác cái tôi trữ tình và một số
phương thức biểu hiện của nó, trong đó có đề cập đến cái tôi trữ tình trong thơ văn xuôi. Ở
đây, khái niệm thơ văn xuôi được tác giả trình bày cụ thể: “Thơ văn xuôi là loại thơ trữ tình có
cấu trúc giống câu văn xuôi, câu nọ tiếp câu kia không xuống dòng, gần như không vần, nhịp
điệu không mang đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn không chịu sự ràng buộc theo
niêm luật nào, là sự dãn ra của các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm xúc” [80,
147]. Song, từ hướng tiếp cận chất văn xuôi thâm nhập vào thơ, tác giả Nguyễn Thanh Tâm
trong Luận án của mình lại đề xuất mở rộng khái niệm thơ văn xuôi vì cho rằng nếu tiếp cận
khái niệm thơ văn xuôi theo quan niệm của Từ điển thuật ngữ văn học hay của Lê Lưu Oanh

thì “thiên về ấn tượng trực cảm và sẽ vô tình thu hẹp nội hàm khái niệm thơ văn xuôi” [86,
188]. Theo tác giả này, “Không chỉ dựa trên phương diện cấu tạo về hình thức (số lượng âm
tiết, tiết tấu, nhịp điệu, cấu tứ), chúng ta nên xác lập khái niệm thơ văn xuôi cho những trường
hợp đã chuyển tải một trong số những biểu hiện của chất văn xuôi vào trong chỉnh thể trữ tình.
Những bài thơ có hướng khai thác nhân vật theo những cách thức, những thuộc tính tâm lí
kiểu nhân vật văn xuôi; những bài thơ hướng ngôn từ và giọng điệu đến ngữ điệu nói, ngữ
điệu kể đậm chất hàng ngày, những bài thơ vận hành trên logic của chuỗi sự kiện, những bài
thơ được dẫn dắt bởi giọng điệu trung tính khách quan, bông lơn giễu nhại… theo đó đều có
thể dung nạp vào một thuật ngữ thơ văn xuôi” [86, 188]. Đề xuất của tác giả này là đáng lưu ý,
song vấn đề ở đây là nếu bài thơ đáp ứng những tiêu chí này mà nó tồn tại dưới dạng thức bấy
lâu nay ta gọi là thơ tự do không vần, vậy thơ văn xuôi có phải cũng là thơ không vần, một
cách gọi khác của thơ không vần như quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo?
Chuyên luận của Đặng Thu Thủy trong chương III – Đổi mới một số phương diện hình
thức nghệ thuật, về phương diện thể loại, tác giả cũng dừng lại khá sâu ở thể thơ văn xuôi.
Điểm qua lịch sử phát triển của thể thơ này ở Việt Nam, tác giả cho rằng nó “hết sức mong
manh và gián đoạn”. Nói về khái niệm thơ văn xuôi, theo Đặng Thu Thủy, “cho đến nay, có lẽ
vẫn chưa có một định nghĩa nào thỏa đáng, chính xác về thơ văn xuôi”, kể cả Từ điển thuật
ngữ văn học Việt Nam bởi vấn đề “hình thức trình bày dòng thơ thế nào, vần hay không vần
không phải là vấn đề cốt yếu, quan trọng của thơ văn xuôi” [115, 104]. Đối thoại với quan
niệm của Từ điển này, Đặng Thu Thủy cho rằng để phân biệt thơ văn xuôi với thơ tự do thì

12


những điểm đáng lưu ý hơn là: “…Thơ văn xuôi có nhiều khoảng trống, khoảng lặng hơn thơ
tự do. Tư duy của thơ văn xuôi thiên về tính liên tục, còn thơ tự do thiên về tính gián đoạn. Thơ
văn xuôi lưu tâm đến kết cấu tổng thể hơn là gọt dũa câu chữ. Nó cũng gia tăng nhiều hơn
chất nghĩ… Văn xuôi vốn dồi dào khả năng phản ánh hiện thực trên một biên độ rộng, giàu
yếu tố tự sự, ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ đời sống. Thơ văn xuôi đã tích hợp cả sức mạnh
này của văn xuôi” [115, 104]. Cũng theo tác giả, “trong thơ văn xuôi hiện nay, chất tiểu thuyết,

chất truyện, kịch xuất hiện ngày càng rõ nét” [115, 105] “… Rộng hơn, xa hơn là sự xâm lấn
của các loại hình nghệ thuật khác vào thơ nói chung và thơ văn xuôi nói riêng” [115, 105].
Ngoài ra, ở những bài viết khác, mỗi tác giả cũng thể hiện cách hiểu về thơ văn xuôi
của mình. Chẳng hạn, với Dương Kiều Minh [75], nó “là một thể lưỡng tính, có nghĩa nó phải
trước hết là thơ, sau phải mang hình thức của văn xuôi, đến độ nếu nhìn bề ngoài rất khó phân
biệt rằng đó là một bài thơ theo quan niệm truyền thống. Hai yếu tố này phải là một, hòa
quyện trong một thể thống nhất mang tính lí tưởng mới tạo ra thơ văn xuôi”. Với Huỳnh Như
Phương, trong bài Kháng cự Thơ mới, bài tham luận duy nhất của Hội thảo “Phong trào Thơ
mới và Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại” được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh - 2012 có
đề cập đến thơ văn xuôi, tác giả cũng đưa ra quan niệm của mình: “Thơ văn xuôi là một bước
phát triển của thơ tự do. Nó được tổ chức bằng những câu văn xuôi không hạn định số chữ,
liên kết thành một bài văn xuôi hoàn chỉnh. Nhưng nó vẫn không phải là văn xuôi đích thực
như tùy bút vì nó có nhạc điệu và chứa đựng những hình thức thường có ở thơ như điệp ngữ,
thủ pháp song song,… những điều giúp người đọc dễ cảm nhận cấu trúc của bài thơ” [87].
Nói về những đặc trưng hay đặc điểm thơ văn xuôi, bài viết của tác giả Nguyễn Đăng
Điệp bước đầu đã chỉ ra ba dấu hiệu: “Sự lạ hóa với thơ truyền thống về mặt tổ chức ngôn
ngữ”; Sau dấu chấm câu của câu thơ văn xuôi là sự hướng tới mở rộng trường liên tưởng hay
có ý nghĩa tạo nhịp, tạo tiết tấu (Khác với dấu chấm trong câu văn xuôi, báo hiệu sự dừng ngắt
của mệnh đề); “Thơ văn xuôi chú trọng sự đa nghĩa của các hình ảnh, chú ý xây dựng các biểu
tượng có sức gợi lớn”. Với Lê Thị Hồng Hạnh thì làm nên sức hấp dẫn của thơ văn xuôi là ở
bốn đặc điểm sau: “Sự lạ hóa hình thức thơ ở mức tới hạn”; “Nội dung thi tứ bất ngờ độc đáo,
mang chiều sâu trí tuệ”; “Hình ảnh thơ mới lạ”; “Nhịp cảm xúc đóng vai trò chủ âm, yếu tố
kiến tạo chủ đạo chi phối tất cả các yếu tố khác trong tác phẩm” [34]. Còn với Hồ Thị Tú
Anh, tác giả luận văn Diện mạo thơ văn xuôi Việt Nam, ba đặc điểm nổi bật của thơ văn xuôi
là: Thứ nhất: “Thơ văn xuôi là thể thơ của xã hội hiện đại, biểu hiện ở khuynh hướng: tìm kiếm
một giọng điệu phức tạp, gai góc, dồn nén nhiều thông tin, nhiều chủ đề, lắm lí sự, nhiều chất
suy tưởng và bộc lộ cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, gấp gáp, đắm say, buông thả” [4, 47]. Thứ hai:

13



“Thơ văn xuôi là một thể thơ thuộc phương thức biểu hiện trữ tình dựa trên sự bộc lộ cảm xúc
trực tiếp qua hình ảnh và tâm trạng nhưng hình thức diễn đạt lại gần gũi với văn xuôi” [4, 58].
Thứ ba: “Thơ văn xuôi là một thể thơ điệu nói, có cấu tạo hình thức gần như không vần, nhịp
điệu không mang đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn ra không chịu ràng buộc theo
niêm luật nào, là sự giãn ra của các hình thức thơ cách luật và thơ tự do” [4, 71]. Đặc điểm
của thơ văn xuôi cũng được đề cập ở những tài liệu còn lại, song ở đó các tác giả chỉ dừng lại ở
một vài bình diện, như Dương Kiều Minh đề cập đến vấn đề nhịp điệu chẳng hạn.
Ranh giới giữa thơ văn xuôi với các thể loại gốc hay thể loại lân cận vẫn tiếp tục được
đề cập trong các bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Điệp, Đặng Thu Thủy, Nguyễn Thanh
Tâm,… đặc biệt là Trần Ngọc Hiếu và Huỳnh Như Phương. Tiểu luận của Trần Ngọc Hiếu đã
dựa trên cơ sở tiếp thu, hệ thống hóa đồng thời đối thoại với những ý kiến đã có về thơ văn
xuôi trước đó để tìm ra một số đặc điểm nghệ thuật của thể thơ. Ở đây, người nghiên cứu cũng
dùng thao tác đối lập để chỉ ra sự khác biệt giữa thơ văn xuôi với văn xuôi, với thơ, song tác
giả còn tiến một bước sâu hơn khi đối chiếu với cả văn xuôi trữ tình, một thể điệu trung gian
gần gũi nhất với thơ văn xuôi. Phân biệt thơ văn xuôi “một loại văn xuôi trữ tình có nhịp điệu”
với văn xuôi trữ tình, theo Trần Ngọc Hiếu “cần phải tìm một tiêu chí hỗ trợ bên cạnh nhịp
điệu” [40, 22] bởi “nhịp điệu trong thơ văn xuôi không mang đầy đủ tính chất cố định nên
không phải lúc nào dựa vào tiêu chí trên cũng có thể phân biệt được một cách thỏa đáng” [40,
22]. Và tiêu chí tác giả đưa ra là văn cảnh. Nhà nghiên cứu cho rằng văn cảnh trong văn xuôi
trữ tình cụ thể hơn văn cảnh thơ văn xuôi. Huỳnh Như Phương trong bài viết cũng đề cập đến
sự khác biệt giữa thơ văn xuôi và văn xuôi. Theo tác giả: “Văn xuôi dựa trên nguyên tắc đối
thoại, còn thơ văn xuôi là tiếng độc thoại của tâm hồn người viết. Chất nhạc là yếu tố bổ sung
của văn xuôi nhưng là yếu tính của thơ văn xuôi”. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt của thơ văn
xuôi với văn xuôi trữ tình: Trong khi “văn xuôi trữ tình không phải là một thể loại riêng biệt
mà chỉ xuất hiện trong một số văn bản văn xuôi nhất định” [87], ở đó nhà văn “đem lại cho
văn bản yếu tố trữ tình, yếu tố nhạc điệu”, thì với thơ văn xuôi, nó là một thể thơ mà người
sáng tác lựa chọn một cách có ý thức và “tạo ra một hình thức ngắn, đóng kín và có tổ chức” ở
đó nhạc điệu là “yếu tính” của nó.
Về những kết tinh nghệ thuật cũng như tiềm năng và triển vọng của thể thơ này, các

nghiên cứu về thơ văn xuôi đã có được tiếng nói chung. Nguyễn Văn Dân, Hoàng Sĩ Nguyên,
Trần Ngọc Hiếu,… đều khẳng định thơ văn xuôi đã có những kết tinh nghệ thuật từ những
năm 30: “Ngay từ những năm 1930, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh,… đã có những áng thơ
văn xuôi tinh khiết và nuột nà” [19, 269], “Tuy số lượng tác phẩm ít nhưng sự thể nghiệm này

14


thật đáng quí, đã có những tác phẩm kinh điển mà về sau được nhắc nhiều tới. Có thể kể đến
Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử, Bông hồng của Huy Thông, Giọt mưa rơi, Đất thơm
của Nguyễn Xuân Sanh, Giọt sương hoa của Phạm Văn Hạnh,…” [77, 153], “Nếu xét về mặt
thành tựu thì phải thừa nhận là thành tựu của thơ văn xuôi thời kì này là rất hiếm hoi nếu so
sánh với thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ ngũ ngôn,… Tuy nhiên, vẫn có những tác phẩm được
xem như tuyệt tác” [40, 33]. Và, đánh giá một cách bao quát thơ văn xuôi Việt Nam thì có thể
lấy nhận định của Lưu Khánh Thơ: “Nhìn vào tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, có thể thấy số
lượng những bài thơ văn xuôi thành công ở giai đoạn nào cũng ít và hiếm” [107, 388]. Song, ở
thể loại mà từ những năm 60, Xuân Diệu - người phủ nhận mạnh mẽ thơ tự do trước đó, trong
bài viết của mình đã xem nó là một “hình thức dự trữ nghệ thuật”, thì giờ đây hầu như tất cả
những bài viết có sự quan tâm về nó đều có một cái nhìn lạc quan. Với Nguyễn Ngọc Thiện
thì: “Thơ văn xuôi đã và sẽ còn là một nơi thể nghiệm, một cái đích, một thách đố đáng yêu mà
các tài năng thơ dồi dào bản lĩnh, không tự thỏa mãn, luôn luôn tìm kiếm sự đa dạng, đang
vươn tới” [44, 652]. Còn với Đặng Thu Thủy thì: “trong những năm gần đây, thể thơ này ngày
càng khởi sắc, đã và đang trở thành một thể thơ quen thuộc của nhiều độc giả đương đại, nhất
là ở những cây bút có ý hướng cách tân, thể nghiệm mạnh mẽ” [115, 104]. Dương Kiều Minh,
Trần Anh Thái từ kinh nghiệm và thực tiễn sáng tác cũng đã khẳng định: “Sự xuất hiện thể
thức thơ văn xuôi là nhu cầu tự thân của thời đại”, là “thể thức thơ ra đời để chuyển tải một
nguồn năng lượng lớn với “trọng lượng” lớn… chỉ có thể thức thơ này mới chịu nổi sức ép
của trọng lực” [75],… Đây là một thể thơ “có những ưu thế đặc biệt trong việc thể hiện ý
tưởng của nhà thơ. Nếu thơ văn xuôi vượt lên trên tình trạng “thơ văn vần nối dài” thì nó sẽ
có khả năng biểu hiện rất lớn. Tôi nghĩ, thơ văn xuôi rất có triển vọng phát triển ở Việt Nam”

[104]. Vấn đề này cũng được Nguyễn Văn Dân đề cập đến trong Thơ văn xuôi - tiềm năng và
phát triển. Trong bài viết, mà về sau được phát triển sâu hơn thành một phần trong mục “Ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện đại đến văn học nghệ thuật Việt Nam” ở công trình Chủ nghĩa hiện
đại trong văn học nghệ thuật, Nxb KHXH, 2013, tác giả đồng quan điểm với Xuân Diệu, Hà
Minh Đức khi nói về nguồn gốc thơ văn xuôi: “có bóng dáng của thơ văn xuôi trong các bài
văn phú, tế, hịch cáo”, song nếu Xuân Diệu nhấn mạnh cái gốc rễ dân tộc của thể thơ này thì
tác giả lại cho rằng đó chỉ là một “cơ sở” mờ nhạt còn nguồn “ảnh hưởng trực tiếp đến việc
hình thành thơ văn xuôi hiện đại Việt Nam phải kể đến thơ tượng trưng và thơ siêu thực
phương Tây” [19, 268]. Chúng tôi cũng đồng tình với ý kiến này của tác giả. Nguyễn Văn Dân
cũng khẳng định thơ văn xuôi đã có những gặt hái thành công ngay ở thời kì thể nghiệm và
đến nay thì: “Thơ văn xuôi đã khẳng định được chỗ đứng trong thơ Việt Nam sau 1975”. Ông

15


cũng đề cập đến “sứ mệnh quan trọng” của thơ văn xuôi: “nhằm giải quyết những vấn đề và
nhiệm vụ lớn của thời đại cũng như thể hiện những khát vọng và tình cảm mãnh liệt của cá
nhân” và “Vì thế mà tiềm năng của nó rất lớn” [19, 271]. Sự khẳng định về triển vọng của thể
thơ này cũng là tinh thần trong các bài viết của Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Bá Thành, Nguyễn
Thanh Tâm, Vũ Quỳnh Loan,…
Ngoài những vấn đề chung đó, các bài viết về thơ văn xuôi còn đi vào nhiều mặt, nhiều
khía cạnh khác của thể loại. Chẳng hạn, Nguyễn Đăng Điệp chứng minh cụ thể “sự xuất hiện
của thơ văn xuôi không hề là một trò chơi tùy hứng” [27, 350] đầy thuyết phục bằng cách chỉ
ra ba tiền đề cơ bản của nó: tham vọng nới rộng khả năng miêu tả hiện thực, tham vọng thể
hiện chân thật dòng ý thức và sự ảnh hưởng của tiểu thuyết với tư cách là một thể loại mang
đầy đủ nhất các đặc tính của văn xuôi. Hay Dương Kiều Minh, từ góc nhìn của người sáng tác,
bàn về thể thơ. Ông phổ quát quy trình sáng tác một bài thơ văn xuôi, ở đó những điểm được
nhà thơ chú ý cũng là những vấn đề cốt yếu làm nên vẻ đẹp của thể thơ này. Cụ thể như vấn đề
nhịp điệu. Nếu Nguyễn Đăng Điệp cho rằng “Nhịp điệu là xương sống cơ bản của thơ văn
xuôi”, thì Dương Kiều Minh cũng thấy rằng: “Nếu ở các thể thơ khác, nhịp điệu là phần da

thịt, ý tưởng là phần xương cốt của cơ thể bài thơ thì ở thơ văn xuôi, nhịp điệu và âm nhạc
chính là khí đẩy những dòng huyết của cảm xúc và ý tưởng vận hành, khí dừng, huyết đọng,
toàn bộ cơ thể không hoạt động nữa”. Và, Dương Kiều Minh cũng chỉ ra đặc điểm nhịp điệu
của thơ văn xuôi: “không phơi lộ và bóc tách ra bề mặt của ngôn ngữ… nó nhập làm một với
cảm xúc và ý tưởng”. Ông cũng nhấn mạnh đến nhiều nguồn khởi hứng của một sáng tác thơ
văn xuôi nhưng yếu tố không thể thiếu vẫn là “đời sống trải nghiệm của nhà thơ”. Bởi: “Đời
sống thể nghiệm chính là tinh chất của thời đại được giữ lại từ hàng ngàn những tia xạ của
thời đại xuyên thấu nhà thơ qua thời gian năm tháng đời người. Nếu không có sự tỏa ra từ đời
sống trải nghiệm của nhà thơ, bài thơ văn xuôi sẽ thiếu vắng cái phong vị ý vị nhất mà thể thơ
này có được” [75].
Trên là những vấn đề lí thuyết thể loại mà chúng tôi đã bao quát được từ những bài
nghiên cứu, tiểu luận, luận văn… viết về thơ văn xuôi ở Việt Nam. Nhìn tổng thể các bài viết,
ta thấy những vấn đề cốt lõi của thể loại như quan niệm về thể thơ, ranh giới thể loại, nguồn
gốc, đặc điểm,… đều đã được đề cập đến. Song, không thể phủ nhận là những ý kiến đó phần
nhiều còn mang tính chất tản mạn, chưa bao quát và đặc biệt chưa có được tiếng nói đồng
thuận cao, những nhận định phần lớn được nêu lên một cách khá dè dặt, cảm tính. Điều này
thể hiện ngay trong cách đặt tiêu đề (Một vài ý kiến về thơ văn xuôi - Xuân Diệu, Mấy ý kiến
nhỏ về thơ văn xuôi - Nguyễn Văn Hoa, Nghĩ về thơ văn xuôi - Nguyễn Đăng Điệp, Thơ văn

16


xuôi hay là thơ không vần - Nguyễn Trọng Tạo,…), trong lời lẽ lí giải (Có lẽ thơ văn xuôi là
phần giao nhau giữa hai vòng tròn thơ và văn xuôi - Nguyễn Văn Hoa, Thơ văn xuôi là thuật
ngữ dùng để tạm đặt cho một thể tài mà hình thức trình bày như văn bản văn xuôi - Nguyễn
Ngọc Thiện, Theo ý tôi có thể tạm kể đến… - Nguyễn Đăng Điệp) và thể hiện ngay trong
dung lượng hạn chế của những bài viết.
1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ văn xuôi Việt Nam
Bên cạnh những bài viết xoay quanh lí thuyết thể loại nói chung là những bài viết về
vấn đề cụ thể của thể loại hay về thơ văn xuôi của từng tác giả. Ở mảng này ta có: Thơ văn

xuôi trong sự vận động của thể loại thơ sau 1975 của Lưu Khánh Thơ (2006), Thơ mới 1932
– 1945 nhìn từ sự vận động thể loại của Hoàng Sĩ Nguyên (2010), Thơ văn xuôi Việt Nam –
Những chặng đường phát triển của Vũ Quỳnh Loan (2012), Thi giới Đặng Đình Hưng của
Thụy Khuê (1996), Mấy nhận xét về thể thơ tự do và thơ văn xuôi của Nguyễn Đình Thi của
Nguyễn Thị Kiều Hoa (1996), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên của Nguyễn Lâm
Điền (2010), Thơ văn xuôi của Chế Lan Viên của Lý Toàn Thắng, Xóa nhòa ranh giới giữa
thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn - Nguyễn Ngọc Thiện (2011),
Xuân Diệu và thơ văn xuôi - Nguyễn Văn Hoa, Đặng Đình Hưng người thèm của Đỗ Lai
Thúy (2012). Nghiên cứu trường quy có Thơ văn xuôi và nhịp điệu trong thơ văn xuôi (luận
văn Thạc sĩ - 2004) của Lê Thị Hồng Hạnh, Thơ văn xuôi Việt Nam - nhìn từ sự vận động và
tương tác thể loại (luận văn Thạc sĩ - 2008) của Trần Thị Phúc Hiếu, Đặc điểm thơ văn xuôi
Việt Nam (luận văn Thạc sĩ - 2008) của Lê Ngọc Chương, Đặc điểm thơ văn xuôi Việt Nam
giai đoạn sau 1975 (luận văn Thạc sĩ - 2012) của Vũ Quỳnh Loan và Thể thơ văn xuôi trong
tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (luận án Tiến sĩ - 2015) cũng của tác giả này,…
Hai bài viết của Lưu Khánh Thơ và Vũ Quỳnh Loan đi vào vấn đề cụ thể của sáng tác
thơ văn xuôi Việt Nam. Ở đây Lưu Khánh Thơ đã đồng quan niệm với Nguyễn Trọng Tạo khi
cho rằng thơ không vần là một cách gọi khác của thơ văn xuôi. Tác giả đã điểm qua những
sáng tác thơ văn xuôi Việt Nam ở các giai đoạn với những thành công của nó, nhằm giúp
người đọc thấy được thơ văn xuôi ở Việt Nam là “một thể tài không thể bỏ qua”, “Nó đã và
đang là nơi thể nghiệm, một cái đích đi tới của nhà thơ, công chúng và cả những người nghiên
cứu phê bình” [107, 396]. Với Thơ văn xuôi Việt Nam – Những chặng đường phát triển
[66], Vũ Quỳnh Loan đi vào khái quát bốn chặng đường phát triển của thơ văn xuôi dựa trên
Tuyển tập thơ văn xuôi, thống kê số lượng tác giả, tác phẩm từng giai đoạn và bước đầu đưa
ra nhận xét.
Trong chuyên luận của Hoàng Sĩ Nguyên, phần đề cập đến thơ văn xuôi Việt Nam chủ

17


yếu ở phương diện hình thành của nó. Tác giả cho rằng “Sự ra đời của thơ văn xuôi là do nhu

cầu của kiểu nhà thơ hiện đại” [77, 149] và “từ sự tương tác trong đời sống thể loại của văn
học hiện đại, thể thơ văn xuôi đã có mặt sớm trong Thơ mới”. Nhận định thơ văn xuôi là sản
phẩm của sự tương tác thể loại của tác giả này cũng là vấn đề trọng tâm của luận văn Thơ văn
xuôi Việt Nam - nhìn từ sự vận động và tương tác thể loại [43]. Trong luận văn, vấn đề
tương tác thể loại đã được triển khai cụ thể trên ba bình diện: “Sự kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố
trữ tình”, “Khả năng mở rộng biên độ thể loại” và “Thơ văn xuôi - Bản hợp ca nhiều biến
tấu”. Tiểu luận của Trần Ngọc Hiếu [40] phần chương II cũng đi vào sự thể nghiệm của thể
thơ văn xuôi ở phong trào Thơ mới với những tiền đề hình thành thể loại, diện mạo cũng như
một số đặc điểm của thơ văn xuôi giai đoạn này. Tiểu luận viết sắc sảo, giàu tính đối thoại.
Luận văn của Lê Thị Hồng Hạnh, trọng tâm là đi vào khảo sát nhịp điệu của thơ văn xuôi song
phần khái quát về thơ văn xuôi trước đó có thể nói là khá đầy đủ và thuyết phục. Tác giả đã
bao quát các quan niệm về thơ văn xuôi, chỉ ra ranh giới thể loại, đặc biệt là ranh giới giữa thơ
văn xuôi và tùy bút văn học, một thể có thể nói là gần gũi nhất với đối tượng nghiên cứu này.
Lê Ngọc Chương trong Đặc điểm thơ văn xuôi Việt Nam, sau phần khái quát về thể loại cũng
đi vào những vấn đề cốt lõi của thể thơ như cách chiếm lĩnh đề tài, khái quát chủ đề, cảm hứng
chủ đạo, nghệ thuật xây dựng hình tượng, đặc điểm ngôn ngữ, phương thức tổ chức ngôn ngữ,
nhạc điệu trong thơ văn xuôi. Nhìn chung, những vấn đề được đề cập, bước đầu đã được tác
giả giải quyết. Song, do phần tư liệu khảo sát của luận văn mới chỉ dừng lại ở Tuyển tập Thơ
văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) nên nhiều vấn đề như mới chỉ dừng lại ở hệ hình thơ văn
xuôi tiền hiện đại. Luận văn của Vũ Quỳnh Loan [67] và sau phát triển thành đề tài luận án, về
mặt lý thuyết, cũng đã tập trung vào vấn đề quan niệm thơ văn xuôi, sự giao thoa giữa thơ văn
xuôi và các thể loại. Phần chính của luận văn đi vào nghiên cứu đối tượng thẩm mỹ của thể thơ
giai đoạn sau 1975 và những phương thức nghệ thuật. Luận án mở rộng thêm hệ biểu tượng cơ
bản trong thơ văn xuôi và đặt tiến trình thơ văn xuôi trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.
Theo mốc văn hóa, tác giả xác định đối tượng thẩm mỹ của thơ văn xuôi qua ba giai đoạn: đầu
XX đến 1945 là những nỗi niềm của cái tôi cô đơn đi kèm các biểu tượng trăng – cõi mộng,
Hồn thi sĩ, Mẹ quê hương, Giọt lệ, buổi chiều, mùa trong thơ Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân
Diệu; giai đoạn 1945 - 1986 là cái ta cộng đồng, cái tôi trăn trở thời hậu chiến với những biểu
tượng biển, cỏ xanh, lửa đỏ trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh; giai đoạn sau 1986 là cái tôi cá
nhân với những âu lo thường nhật đi cùng hệ biểu tượng cánh đồng, dòng sông, phụ nữ, đêm

trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Dương Kiều Minh và một số nhà thơ trẻ. Ở
phương diện nghệ thuật, tác giả đi vào các bình diện: kết cấu bài thơ, tổ chức lời thơ, ngôn

18


ngữ, hình ảnh. Về kết cấu bài thơ, tác giả chủ yếu nói đến kiểu tổ chức kết cấu đối thoại và độc
thoại, kết cấu dạng thức truyện ngắn. Ở mô hình tổ chức lời thơ, theo tác giả là “điểm nổi bật
để khu biệt thơ văn xuôi với các thể thơ khác” và dạng điển hình nhất của nó là “bài thơ, câu
thơ, dòng thơ không theo niêm luật, không giới hạn số lượng âm tiết trong câu thơ, dòng thơ.
Cấu trúc câu văn xuôi nhiều tầng bậc, nhiều từ nối, khước từ dấu câu, không tuân theo quy tắc
chính tả…” [68, 127]. Ở bình diện ngôn ngữ, theo tác giả là vấn đề cốt lõi của thơ văn xuôi,
Luận án đi vào khảo sát với nhận định: “Đời thường, mới lạ, giàu sức gợi và “lạ hóa” là một
số đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ văn xuôi” [68, 134 ]. Về hình ảnh thơ thì mới lạ, giàu
tính biểu tượng. Đây là Luận án thơ văn xuôi đầu tiên, theo chúng tôi, nhiều vấn đề về thể thơ
đã được giải quyết song vẫn còn nhiều vấn đề cần được bàn luận tiếp tục. Chẳng hạn, như
nhận định của tác giả về dạng điển hình nhất của tổ chức lời thơ thuộc thể thơ này thì đặc điểm
“khước từ dấu câu, không tuân theo quy tắc chính tả” hoàn toàn không xuất hiện ở thơ văn
xuôi tiền hiện đại hoặc như ngôn ngữ “Đời thường, mới lạ, giàu sức gợi” thật ra nó là đặc
điểm chung của ngôn ngữ thơ Việt Nam sau Đổi mới.
Đối với mảng tư liệu viết về thơ văn xuôi của từng tác giả, ta thấy còn rất hạn chế.
Song, các bài viết cũng đã tập trung vào những tác giả có thể nói là tiêu điểm của thể loại này:
Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Đặng Đình Hưng, Thanh Thảo, Mai Văn Phấn.
Nguyễn Lâm Điền trong Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên [26] đã khảo sát và
phân tích bốn thể thơ - khi nói về những đặc điểm nổi bật về thể thơ của Chế Lan Viên, trong
đó có thơ văn xuôi. Tìm hiểu về thể thơ văn xuôi Chế Lan Viên, bước đầu tác giả cũng đã đề
cập đến những đặc điểm cũng như những thành công của nó. Bài viết của Lý Toàn Thắng, tuy
chỉ dừng lại bốn câu thơ văn xuôi của Chế Lan Viên trong bài Cành phong lan bể, khảo sát nó
trên các bình diện tiết điệu, nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu song cũng đi đến kết luận: “Thơ
ông vẫn không khỏi có chỗ vấn vương trong vòng truyền thống, với những khuôn thước thi luật

ngàn năm. Cho dù vậy, thì mấy ai đã có được những câu “văn xuôi về một vùng thơ” hay như
của ông, đẹp như của ông, khéo léo và tài hoa như của ông, làm cho ông trở thành một trong
số đôi ba nhà thơ ít ỏi có công dựng nên nền thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại” [106].
Trong bài viết vô cùng ngắn Xuân Diệu và thơ văn xuôi của Nguyễn Văn Hoa, người
tuyển chọn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), tác giả cho rằng Xuân Diệu đã
viết thơ văn xuôi từ rất sớm, cụ thể qua các bài trong tập Phấn thông vàng. Và theo ông, Xuân
Diệu là “một mắt rồng” trong tuyển tập thơ văn xuôi đó. Với bài viết về thơ văn xuôi của
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Thị Kiều Hoa chỉ mới dừng lại ở sự liệt kê tên 11 bài thơ văn xuôi
của tác giả này và chỉ ra một số dạng trong tổ chức hình thức văn bản của thơ văn xuôi

19


×