Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.88 KB, 19 trang )

Trường Đại học Lao Động Xã hội (CS2)
Khoa Quản lí Lao Động


BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động xuất khẩu lao động ở Tỉnh Nghệ An từ năm
2010 đến nay.

Môn:
Sinh viên:
STT:

HCM, ngày 19 tháng 10 năm 2016

Trường Đại học
Lao Động Xã hội (CS2)
Khoa Quản lí Lao Động




BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động xuất khẩu lao động ở Tỉnh Nghệ
An từ năm 2010 đến nay.

GVHD:
Môn:
Sinh viên:
STT:


Lớp:

2


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Du lịch là một trong những ngành kinh tế đang được Đảng và Nhà nước ưu tiên
phát triển để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước. Tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là
địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi, được kết hợp hài hoà giữa quần thể thiên
nhiên biển, núi, cùng kiến trúc đô thị và các công trình văn hoá như tượng đài, chùa
chiền, nhà thờ… tạo cho nơi đây có ưu thế của thành phố du lịch biển tuyệt đẹp đầy
sức quyến rũ . Bà Rịa Vũng Tàu là một trong những khu vực trọng điểm ưu tiên phát
triển du lịch, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
Trong nhiều năm này, ngành Du lịch phát triển rất nhanh, nhu cầu về lao động
du lịch ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng. Khi hội nhập quốc tế sâu rộng,
như gia nhập TPP, chỉ với lực lượng lao động có trí tuệ và kỹ năng cao mới có thể tạo
ra giá trị gia tăng nhiều cho các sản phẩm, qua đó tăng năng suất lao động và tăng sức
cạnh tranh, tận dụng được những lợi thế của thời kỳ hội nhập mới và giảm được những
tác động tiêu cực cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế. Do đó chất lượng nguồn
nhân lực du lịch là một vấn đề lớn ngày càng trở nên bức thiết hơn. Nếu tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu muốn trở thành một trung tâm du lịch mang tầm vóc quốc tế cần phải đặc
biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khi gia nhập TPP.
NỘI DUNG
1

Cở sở lý luận
2Khái niệm và vài trò của ngành du lịch

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), một tổ chức

thuộc Liên Hiệp Quốc, Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du
hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc
trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những
mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài
môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm
tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn
nơi định cư.

4
4


Các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam đã định nghĩa ngành du lịch được
coi là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết
về thiên nhiên, truyền thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm
tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt
kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình
thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ. Đặc điểm là ngành không khói, ít gây ô
nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm strees vừa biết thêm
nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của
đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch
vụ liên quan...). Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế
giới thứ ba.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch
vụ. Du lịch ngày càng có vai trò quan trọng tại Việt Nam. Đối với khách du lịch ba-lô,
những người du lịch khám phá văn hóa và thiên nhiên, bãi biển và các cựu chiến binh
Mỹ và Pháp, Việt Nam đang trở thành một địa điểm du lịch mới ở Đông Nam Á. Sau
các ngành công nghiệp nặng và phát triển đô thị, đầu tư nước ngoài hầu hết đã được

tập trung vào du lịch, đặc biệt là trong các dự án khách sạn. Với tiềm năng lớn, từ năm
2001, Du lịch Việt Nam đã được chính phủ quy hoạch, định hướng để trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn. Mặc dù "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010" có vài
chỉ tiêu không đạt được, từ năm 2011, "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt
ngày 30/12/2011 để tiếp nối. Cụ thể, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam,
bao gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương
đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ
đồng (tương đương 6,6% GDP). Tổng đóng góp của du lịch vào lĩnh vực việc làm toàn
quốc (gồm cả việc làm gián tiếp) là hơn 6,035 triệu việc làm, chiếm 11,2%. Trong đó,
số việc làm trực tiếp do ngành du lịch tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc
làm). Đầu tư vào lĩnh vực du lịch năm 2015 đạt 113.497 tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng
đầu tư cả nước...Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, không chỉ mang đến doanh thu trực
tiếp từ các lĩnh vực dịch vụ như khách sạn, tour tuyến, điểm tham quan mà còn tạo
nguồn thu, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề liên quan
5
5


khác như giao thông, ăn uống, giải trí, thương mại và một số dịch vụ phụ trợ khác
(thông tin liên lạc, ngân hàng...). Bên cạnh đó, du lịch còn là ngành kinh tế góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của những vùng, địa phương không có thế mạnh về
nông nghiệp, công nghiệp như Bình Thuận, Quảng Bình, Ninh Thuận…
3Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực du lịch
Theo tổ chức lao động quốc tế thì nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu
theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân
lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn
nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội,

bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động,
sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là
tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Nguồn nhân lực du lịch là toàn bộ những người tham gia vào hoạt động du lịch
để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, gồm nhân lực trực tiếp và nhân lực
gián tiếp. Nhân lực trực tiếp là những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Du lịch. Nhân
lực gián tiếp là những người làm việc trong các ngành các quá trình có liên quan đến
du lịch.
4Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc của người lao
động với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức thực hiện thắng lợi
mực tiêu cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của ngươi lao động (PGS.TS. Mai Quốc
Chánh, TS. Trần Xuân Cầu:Giáo trình Kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, nhà xuất bản lao động-xã hội, hà nội-2003)
5Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực: Tiêu chuẩn đo lường về
chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tâm thần, tai, mũi,
6
6


họng…Bên cạnh đó việc đánh giá trạng thái sức khỏe còn thể hiện thông qua các chi
tiêu: tỷ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính…
Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực: Trình độ văn hoá của nguồn
nhân lực được thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ: Số lượng và tỷ lệ biết chữ, Số
lượng và tỷ lệ người qua các cấp học…Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan
trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực cũng như trình độ phát triển của kinh tế xã
hội
Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực: Trình độ chuyên

môn kỹ thuật thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn, nghề
nghiệp nào đó. Các chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật như: Số lượng lao
động được đào tạo và chưa qua đào tạo, cơ cấu lao động được đào tạo (Cấp đào tạo,
công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn, trình độ đào tạo)
Ngoài ra còn có thể xem xét chất lượng nguồn nhân lực thông qua chỉ tiêu biểu hiện
năng lực phẩm chất của người lao động
6Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
7

Biến đổi kinh tế - xã hội

Nhờ tăng trưởng kinh tế không chỉ trực tiếp góp phần cải thiện đời sống nhân
dân, tạo được nhiều việc làm với mức thu nhập cao mà còn tăng ngân sách, đảm bảo
nhu cầu chi cho phát triển giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa…tác động tích cực hơn đến
chất lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân bổ lao động trong
các lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự học
hỏi, thích ứng với nền sản xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực, quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh hưởng
tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Các nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa
gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay
đổi lối sống nên ở các đô thị tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước
nghèo và của “mức sống cao”. Hiện tượng này gọi bằng thuật ngữ “gánh nặng gấp đôi
7
7


ám chỉ những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang phát
triển vấp phảo.

8

Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe

Dinh dưỡng thấp và sức khỏe yếu không chỉ gây ra ốm yếu thể trạng mà còn
làm giảm năng suất lao động. Hơn nữa, sự suy dinh dưỡng và bệnh tật làm suy giảm
năng lượng, tính sáng tạo, sáng kiến, khả năng học tập và làm việc của người lao động.
Ngoài vấn đề này, sự phát triển hệ thống y tế và khả năng tiếp cận của người dân có
ảnh hưởng đến việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Do thành tựu phát triển của kinh tế,
quy mô và năng lực của mạng lưới y tế tăng lên cùng với tiến bộ khoa hoc công nghệ
trong y học đã góp phần nâng cao sức khỏe của người dân, thể hiện ở tuổi thọ bình
quân ngày càng tăng cao.
9

Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực thì mức độ phát
triển của giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ ảnh hưởng trực
tiếp đến trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động thực hành của
người lao động, mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của người dân.
Vì giáo dục cung cấp trình độ văn hóa cơ bản là điều kiện để tiếp thu tri thức, góp
phần nâng cao trình độ của người lao động, nâng cao năng suất cá nhân. Đồng thời,
thông qua quá trình tích lũy kiến thức, họ sẽ hiểu biết hơn về dinh dưỡng và cải thiện
sức khỏe của chính mình và gia đình. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thay đổi công nghệ
nhanh, giáo dục giữ vai trò chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Giáo dục có
khả năng đào tạo những người có năng lực theo dõi các khuynh hướng công nghệ,
đánh giá sự thích ứng của chúng đối với những triển vọng của đất nước và giúp xây
dựng triển khai một chiến lược phát triển công nghệ quốc gia thích hợp. Những ngành
công nghiệp mới đã tạo ra những “cầu” lớn về kỹ sư và công nhân kỹ thuật cao.
10 Tổng quan về nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

11

Tổng quan tình hình phát triển và tiềm năng của ngành du lịch

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

8
8


Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc vùng Đông Nam bộ, gồm: đất liền và hải đảo. Chiều
dài bờ biển khoảng 305km, với trên 100.000 km2 thềm lục địa. Núi có độ cao lớn nhất
khoảng 500m. Bà Rịa – Vũng Tàu là một quần thể thiên nhiên hài hòa, sơn thuỷ hữu
tình, có những dãy Núi Lớn - Núi Nhỏ - Minh Đạm, Núi Dinh… Xa xa biển Đông có
Côn Đảo bao bọc, ở gần có Long Sơn quy tụ...Ngoài những bãi tắm tuyệt đẹp với bờ
cát mịn thoai thoải như Thùy Vân, Bãi Dâu, Long Hải… Bà Rịa – Vũng Tàu còn có
khu rừng nguyên sinh nổi tiếng Phước Bửu và rừng quốc gia Côn Đảo. Khu suối nước
nóng Bình Châu cũng đang là điểm nhấn của Bà Rịa – Vũng Tàu. Bên cạnh đó, tỉnh có
truyền thống văn hóa - lịch sử lâu đời với những khu di tích mang đậm dấu ấn của
những thời kỳ lịch sử. Hiện nay, địa phương có 41 di tích được công nhận, trong đó có
31 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia. Khí hậu Bà Rịa – Vũng Tàu nhìn chung mát
mẻ, rất phù hợp với du lịch, trở thành điểm tắm biển lý tưởng. Nếu như những năm
đầu mới thành lập, ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ khai thác du lịch dựa
trên tiềm năng, lợi thế sẵn có thì hiện nay ngành Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu đã khai
thác du lịch theo hướng bền vững với nhiều sản phẩm du lịch tuy mới được hình thành
nhưng đã mang đậm đặc trưng của tỉnh, thu hút nhiều du khách. Hiện ở Bà Rịa – Vũng
Tàu có các loại hình du lịch chính đang được khai thác hiệu quả như: du lịch sinh thái;
du lịch nghỉ dưỡng; du lịch văn hóa kết hợp thể thao; du lịch MICE; du lịch tâm linh
về nguồn…Đối tượng khách chủ yếu tham gia loại hình du lịch này là học sinh, sinh
viên trong nước và du khách nước ngoài đi tham quan, khảo cứu động thực vật và bảo

tồn tính đa dạng sinh học của khu bảo tồn và vườn quốc gia. Việc phục vụ khách du
lịch sinh thái không chú trọng nhiều đến hiệu quả kinh tế mà chủ yếu là bảo vệ môi
trường rừng, bảo tồn các loài động, thực vật quý hiếm. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay
có một số sự kiện được tổ chức thường niên như: Festival Diều quốc tế, Giải bóng
chuyền bãi biển nữ quốc tế, Khai hội Văn hóa – Du lịch với điểm nhấn là nghi thức
bắn súng thần công, đã góp phần tạo thêm những sản phẩm du lịch mới để thu hút du
khách và quảng bá du lịch tỉnh. Ngoài ra, một số lễ hội cũng đã và đang được nâng cấp
nhằm phát triển du lịch văn hóa-tâm linh như: Lễ hội Nghinh Ông Thắng Tam (TP.
Vũng Tàu); Lễ hội Dinh Cô (thị trấn Long Hải, huyện Long Điền). Bước đầu, việc
nâng cấp các lễ hội trên đã có hiệu quả trong việc thu hút khách du lịch.

9
9


Theo thống kê của Cổng thông tin du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, doanh thu từ
dịch vụ du lịch trong 6 tháng đầu năm 2016 của toàn tỉnh đạt 1.295,283 tỷ. Trong
đó: Doanh thu dịch vụ du lịch (lữ hành) là 335,817 tỷ đồng; Doanh thu từ dịch vụ lưu
trú là: 959,566 tỷ đồng. Toàn tỉnh đón khoảng 9.477.302 lượt. Khách quốc tế là
307.408 lượt. Khách nội địa là 9.169.894 lượt, đạt 56,31% kế hoạch năm. Khách lưu
trú là 1.522.100 lượt, đạt 63,32% kế hoạch năm. Hiện nay các cơ sở vật chất phục vụ
hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh đã tương đối hiện đại. Bên cạnh hệ thống hạ tầng và
giao thông đi lại thuận lợi để phát triển các khu vực du lịch trọng điểm, nhiều khu du
lịch chất lượng cao đã hình thành và phát huy hiệu quả, làm tăng doanh thu và lượng
khách. Đáng chú ý là tốc độ phát triển của các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh trong
những năm gần đây tăng khá nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Một số dự án đang
xây dựng hoặc sắp xây dựng hướng đến chuẩn 4-5 sao, sẽ là những nơi thu hút khách
quốc tế có hiệu quả, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tính đến 6 tháng đầu
năm 2016, toàn tỉnh hiện có 255 cơ sở lưu trú đã được thẩm định xếp hạng với 9.265
phòng. Trong đó: 4 khách sạn 5 sao với 1.463 phòng; 15 khách sạn 4 sao với 1.807

phòng; 20 khách sạn 3 sao với 1.395 phòng; 45 khách sạn 2 sao với 2.066 phòng; 73
khách sạn 1 sao với 1.811 phòng; 03 căn hộ, biệt thự cao cấp với 95 phòng; 96 nhà
nghỉ đạt chuẩn với 1.287 phòng.
Cùng với công tác tổ chức các sự kiện, các cơ quan quản lý nhà nước và Hiệp hội Du
lịch tỉnh đã đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh, thương
hiệu Bà Rịa – Vũng Tàu và các doanh nghiệp ra thế giới đã tạo luồng sinh khí mới cho
ngành du lịch. Công tác bảo vệ môi trường tự nhiên, xã hội được quan tâm. Công tác
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện tốt, không để xảy ra ngộ độc tập
thể tại các khu, điểm du lịch; công tác cứu hộ, cứu nạn tại các bãi tắm được tăng
cường.
12

Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu
Hiện nay, nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang gặp
nhiều khó khăn khi cầu nhiều hơn cung và chất lượng lao động vẫn chưa đạt chuẩn đối
với các khách sạn 4 và 5 sao. Với đặc thù của địa phương, hầu hết các dự án du lịch
10
10


đang được đầu tư đều nằm ở các huyện, đời sống nhân dân còn khó khăn nên lao động
đã qua trường lớp rất ít ỏi.
13

Quy mô nhân lực.

Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch địa phương này
cho biết, năm 2015 toàn tỉnh có 9.363 lao động trong ngành du lịch.

14

Chất lượng nhân lực.

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chỉ có 47 người có trình độ thạc sĩ, chiếm
0,5%; 1.490 người có trình độ đại học, chiếm 15,9%; cao đẳng là 1.214 người, chiếm
13%; trung cấp là 2.616 người, chiếm 28%; còn lại 42,6% lao động trong ngành chưa
được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ.

Hình 1. Biểu đồ trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lao động ngành dịch vụ tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2015
Ngoại ngữ cũng đang là rào cản lớn. Trong tổng số lao động kể trên, chỉ có khoảng
3.300 người có trình độ ngoại ngữ, trong đó, số người có khả năng giao tiếp thông thạo
với khách nước ngoài khoảng 61,2% và cũng chỉ có 112 người có khả năng giao tiếp
2 thứ tiếng. Ngoại ngữ chủ yếu là tiếng Anh, có ít người thành thạo ngoại ngữ khác
như Nhật, Trung, Pháp, Nga…Toàn ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện có
khoảng 63% tổng nhân lực biết sử dụng máy tính phục vụ được yêu cầu công việc.
15

Cơ cấu nhân lực ngành Du lịch.

Cơ cấu theo lĩnh vực hoạt động: Nhân lực quản lý nhà nước và hoạt động sự
nghiệp về du lịch chiếm 21,9%, trong đó 0,7% làm quản lý nhà nước và 1,2% làm tại
các đơn vị sự nghiệp. Nhân lực tại các doanh nghiệp chiếm 98,1% tổng nhân lực của
Ngành. Lao động trực tiếp phục vụ bàn, bar chiếm 15%, phục vụ buồng 14,8%, chế
biến món ăn, đồ uống 10,6%, điều khiển phương tiện vận chuyển khách 10,4%, lễ tân
chiếm 9%, lữ hành, hướng dẫn du lịch 4,9% và lao động khác (nhân viên bán hàng lưu
niệm, bảo vệ, nhân viên kỹ thuật, sửa chữa, bảo dưỡng trong khách sạn, chăm sóc cây
cảnh...) chiếm 35,3%. Nhân lực phục vụ bàn, bar, buồng có tỷ trọng lớn là đặc thù cần
nhiều lao động của hoạt động khách sạn.

11
11


Cơ cấu theo ngành nghề chuyên môn: nhân lực làm công tác quản trị, giám sát
trong doanh nghiệp du lịch chiếm 25% là quá nhiều (tỷ trọng phù hợp khoảng 15%
tổng nhân lực). Trong khi đó, tỷ trọng nhân lực kỹ thuật lành nghề chỉ là 75% (phù
hợp phải là 85%). Tỷ lệ “thầy/thợ” hiện tại là 1:3 (hợp lý là vào khoảng 1:6). Cơ cấu
nhân lực phục vụ trực tiếp trong nghề lễ tân, phục vụ buồng, phục vụ bàn - bar, nấu ăn,
lữ hành và hướng dẫn du lịch, điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch và nghề khác
hiện tại tương ứng là 9%, 14,8%, 15%, 10,6%, 4,9%, 10,4% và 35,3%. Như vậy, nhân
lực phục vụ bàn - bar chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là nhân viên phục vụ buồng, điều
này thể hiện tính đặc thù cần nhiều lao động của hoạt động kinh doanh khách sạn.
Nhân lực các nghề khác chiếm tỷ lệ cao, khoảng 35,3%, gồm nhân viên bán hàng, bảo
vệ, nhân viên kỹ thuật, sửa chữa, bảo dưỡng trongkhách sạn, chăm sóc cây cảnh...
Cơ cấu theo giới tính và độ tuổi: Là một ngành đặc thù, sản phẩm chủ yếu là
dịch vụ, trong đó nhiều nghề đòi hỏi sự khéo léo và vẻ đẹp của con người, đặc biệt là
sự khéo léo và vẻ đẹp của người phụ nữ. Theo số liệu điều tra nhân lực của ngành Du
lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2015 cho thấy, tỷ trọng nữ cao hơn so với nam (nữ
chiếm 76,33%, nam chỉ 40,17%). Lao động nữ trong ngành Du lịch dần có xu hướng
tăng lên, trong khi lao động nam có xu hướng giảm. Cơ cấu nhân lực giữa các độ tuổi
có xu hướng ổn định. Ngành Du lịch có lực lượng nhân lực trẻ, dưới 30 tuổi chiếm tới
40%, từ 31-40 tuổi chiếm 36%, từ 41-50 tuổi chiếm 21% và trên 50 tuổi chiếm 3%.
Lực lượng nhân lực kế cận và lực lượng nhân lực đang làm việc của ngành Du lịch ở
độ “vàng”, đủ để đảm bảo gánh vác nhiệm vụ phát triển Ngành; cơ cấu nhân lực theo
độ tuổi hợp lý, đủ có khả năng chuyển giao thế hệ.
16

Cơ sở đào tạo


Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện chỉ có Trường Cao đẳng nghề Du
lịch Vũng Tàu là chủ yếu. Quy mô đào tạo hàng năm của nhà trường khoảng 2000 học
sinh – sinh viên. Hàng năm, trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu đào tạo khoảng
1.000 học viên tốt nghiệp các khóa nghiệp vụ sơ cấp du lịch và khoảng 750 sinh viên
tốt nghiệp hệ trung cấp, cao đẳng thuộc các ngành như quản trị kinh doanh, lễ tân, kỹ
thuật phục vụ buồng, bàn, bếp…cung cấp khoảng 30% nhân lực cho ngành. Năm học
2015-2016, Trường đào tạo 2.128 học sinh sinh viên, trong đó hệ chính quy cả hai
12
12


khối trung cấp và cao đẳng là 1.308 học sinh sinh viên, hệ ngắn hạn 820 học sinh sinh
viên. Năm học 2016-2017 dự định thí điểm đào tạo 2 ngành cấp độ quốc tế là quản trị
nhà hàng và hướng dẫn viên du lịch. Trong 2 năm 2014 và 2015, trường đã cử 13 giáo
viên đi đào tạo ở Úc và Malaysia, 1 giáo viên và 3 sinh viên đi học ở Luxembourg và
hàng chục lượt giáo viên được bồi dưỡng sư phạm tiếng Anh do Hội đồng Anh tổ chức
Ngoài ra, Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu cũng có đào tạo ngành Quản trị
Du lịch nhưng số lượng rất ít. Số sinh viên chuyên ngành Quản trị Du lịch (Quản trị
nhà hàng – khách sạn) chỉ có 362 sinh viên, trong đó hệ Đại học là 130, hệ cao đẳng là
232 sinh viên.
17

Thành tựu và hạn chế về phát triển nguồn nhân lực du lịch của

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
18

Thành tựu

Từ năm 2005, việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh đến

năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu phê duyệt và triển khai thực hiện. Nhờ đó, đến nay cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
đã khá đồng bộ và hiện đại. Chất lượng nhân lực phục vụ du lịch được nâng lên; sản
phẩm du lịch ngày càng đa dạng, phong phú hơn.
Công tác tổ chức các sự kiện ngày càng mang tính chuyên nghiệp hơn. Theo ông
Nguyễn Văn Mỹ, Giám đốc Công ty dã ngoại Lửa Việt (TP. Hồ Chí Minh), hàng năm
Lửa Việt tổ chức nhiều tour đưa khách về Bà Rịa - Vũng Tàu du lịch, nghỉ dưỡng. Sau
chuyến du lịch, hầu hết khách hàng đều bày tỏ sự hài lòng về chất lượng dịch vụ, thái
độ phục vụ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử… của đội ngũ nhân viên tại các cơ sở lưu
trú. “Phần lớn người dự tuyển có tuổi đời rất trẻ, trong đó có nhiều du học sinh, họ
được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ, giao tiếp ngoại ngữ tốt, đặc biệt họ thể
hiện được bản lĩnh và sự tự tin trước nhà tuyển dụng. Tất nhiên sau khi tuyển dụng,
chúng tôi còn phải huấn luyện thêm kỹ năng, nghiệp vụ thực tế cho từng vị trí công
việc nhưng những yếu tố trên là nền tảng để họ tiếp cận công việc nhanh hơn”, ông
John Shigley, Tổng Giám đốc MGM Grand Hồ Tràm Beach (thuộc dự án Hotram
strip, huyện Xuyên Mộc) nhận xét. Để có được đội ngũ nhân lực dồi dào và ngày càng
chuyên nghiệp cho ngành du lịch như hiện nay, không chỉ ngành du lịch mà bản thân
13
13


các doanh nghiệp du lịch cũng chủ động đào đạo, bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn,
tay nghề thường xuyên cho người lao động. Từ năm 2004, Sở Du lịch (nay là Sở Văn
hóa thông tin du lịch) đã xây dựng đề án hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên ngành
du lịch. Sau đó, tùy thuộc nhu cầu và xu hướng chung của thị trường, mỗi năm Sở Văn
hóa thông tin du lịch đều phối hợp với trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu, Ban
quản lý các khu du lịch địa phương, các hội nghề nghiệp… tổ chức các lớp đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho lao động ngành du lịch tại các địa phương và doanh nghiệp
kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh…

Bên cạnh đó, chương trình giảng dạy của trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng
Tàu cũng được điều chỉnh theo hướng sát hơn với thực tế và tăng cường ngoại ngữ để
sinh viên có đủ kỹ năng làm việc khi ra trường. Các doanh nghiệp du lịch lớn trên địa
bàn tỉnh như: OSC Việt Nam, Vungtau Tourist, Công ty cổ phần du lịch Sài Gòn –
Bình Châu… cũng thường xuyên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng các
chương trình cụ thể như: Áp dụng hệ thống quản lý ISO và tiêu chuẩn VTOS trong
quản lý và phục vụ khách; đào tạo mới, đào tạo lại, tổ chức các cuộc thi tay nghề, cử
nhân viên tham gia các cuộc thi tay nghề trong nước…
19

Hạn chế

Ngành du lịch là một ngành kinh tế mang tính đặc thù. Một trong những yếu tố
quan trọng nhất, mang tính quyết định để phát triển du lịch bền vững chính là chất
lượng nguồn nhân lực. Để đáp ứng sự tăng trưởng của ngành du lịch, lực lượng lao
động trong ngành cũng tăng cao gấp 7 lần. Theo dự báo, đến năm 2020, du lịch Việt
Nam cần khoảng từ 2,5 đến 3 triệu lao động, riêng ngành du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu
cũng cần có từ 12.000 đến 15.000 lao động.

Hình 2. Biểu đồ quy mô và lao động có nghiệp vụ ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu qua các năm
Tuy nhiên, nhìn vào biểu đồ hình 2 có thể thấy, quy mô nhân lực từ năm 2011 – 2013
đều có chiều hướng tăng nhẹ ngay sau khi ký Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 3012-2011 về “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
14
14


2030”. Song, do các cơ sở đào tạo chưa kịp thay đổi để đáp ứng nhu cầu lao động của
thị trường nên hầu hết số lượng lao động tăng thêm đều là những người dân chạy theo
xu hướng phát triển và cần việc làm nên chưa có chuyên môn nghiệp vụ ngành du lịch.

Đến năm 2014 trở đi, nhân lực ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giảm xuống
đáng kể về quy mô và theo đó là chất lượng, không hề tương xứng với nhu cầu lao
động vô cùng lớn và định hướng phát triển của tỉnh trong tương lai. Nguyên nhân là
do:
Ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chưa thực sự phát huy hết tiềm năng vốn có của
địa phương. Các sản phẩm dịch vụ vui chơi, nghỉ ngơi chưa đa dạng, phong phú; các
điểm du lịch ít, không gây sự hứng thú lâu dài; giao thông còn nhiều bất cập; hoạt
động quảng bá du lịch hạn chế, chưa được đẩy mạnh… khiến cho tình hình du lịch
tỉnh phát triển chậm, không đáp ứng được nhu cầu việc làm của người lao động.
Người dân thiếu định hướng về lựa chọn ngành nghề. Trong khi các doanh nghiệp
đang thúc đẩy đầu tư du lịch ở các khu vực huyện, xã, vùng nông thôn, thu nhập của
ngành này ngày càng trở nên hấp dẫn thì hầu hết các gia đình đều cho con cái mình
theo học nghề khác chứ không chọn ngành du lịch. Do đó số lượng thí sinh nộp đơn
vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học chuyên ngành du lịch thấp, kéo theo lao
động tốt nghiệp trường lớp đào tạo giảm.
Công tác đào tạo du lịch hiện nay còn nhiều bất cập và còn có khoảng cách khá
lớn giữa qui mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động thực tế
tại các doanh nghiệp. Các trường đào tạo ngành du lịch còn nặng về lý thuyết, sinh
viên ít được đi cọ xát thực tế từ các khóa thực tập nên ra trường còn lúng túng trong
công việc. Nhiều lao động tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành
khi nhận về, doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại mới có thể đáp ứng nhu cầu thực tế. Số
lao động có tay nghề, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ yếu; đội ngũ quản lý có kinh
nghiệm còn thiếu và yếu. Các doanh nghiệp du lịch cho biết, rất khó tuyển chọn các
nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp giỏi, có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn để
bố trí vào các chức danh chủ chốt. Đây là một thách thức không nhỏ đối với ngành du
lịch, vì tương lai không xa khi một loạt các dự án du lịch lớn hoàn thành và đi vào hoạt
động sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp tìm kiếm, tuyển chọn, bố trí nhân sự,
15
15



người lao động. Nguyên nhân của tình trạng trên là do phần lớn các doanh nghiệp du
lịch chưa thực sự có chiến lược đầu tư, phát triển nguồn nhân lực một cách bài bản,
chưa có đội ngũ quản trị nhân sự mang tính chuyên nghiệp cao
20

Các vấn đề đặt ra với chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khi gia nhập TPP.
TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
(Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận
thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Australia, Brunei, Chile,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất
nhập khẩu giữa các nước thành viên. Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ,
quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an
toàn lao động… Cạnh tranh trong TPP tạo áp lực buộc người lao động phải chủ động
nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tay nghề, tinh thần liên kết gắn với các nhóm lao
động đặc thù và lợi ích xã hội khác nhau. Xu thế chuyển dịch lao động nội khối vừa
tạo cơ hội tìm kiếm việc làm mới, vừa gia tăng áp lực cho lao động giữ cơ hội việc
làm. Tuy nhiên, bởi khi thực hiện cam kết trong TPP, doanh nghiệp nước ngoài sẽ đưa
khách vào thị trường trong nước buộc doanh nghiệp nội phải chia sẻ thị phần. Nếu
không có năng lực và có một chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp nội sẽ rất dễ thua
trên sân nhà… Do vậy với ngành du lịch nói chung và của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
nói riêng, ngành du lịch nói chung cần có bước chuẩn bị để phát triển sản phẩm phù
hợp; tập trung vào chất lượng và hiệu quả khai thác khách hơn là số lượng.
Từ thực trạng nêu trên, có thể dễ nhận ra các vấn đề mà ngành du lịch tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu cần nhanh chóng giải quyết. Đó là, chất lượng nguồn nhân lực chưa
đảm bảo nhu cầu của ngành du lịch so với quốc tế (Ngoại ngữ, trang bị kĩ năng). Môi

trường du lịch và các loại hình dịch vụ còn nhàm chán, chưa có sản phẩm riêng của địa
phương. Quản lý của cơ quan địa phương về du lịch còn thiếu sót, lỏng lẻo. Các tình
trạng tệ chèo kéo khác, tăng giá mùa đông khách, an toàn thực phẩm còn diễn ra khá
phổ biến.
16
16


21 Kiến nghị
Một là, ngành Du lịch nên phối hợp các ban, ngành liên quan triển khai hoàn thiện hệ
thống chính sách, cơ chế quản lý và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực du lịch, bao gồm
xây dựng, ban hành và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, quy định về đào tạo
du lịch liên quan trực tiếp đến cơ sở đào tạo, hình thức đào tạo du lịch, đội ngũ giảng
viên, đào tạo viên, xã hội hóa đào tạo, hợp tác quốc tế, tuyển dụng và sử dụng lao động
du lịch.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của
doanh nghiệp trong việc đào tạo lại đội ngũ nhân lực du lịch; Tăng cường kinh phí đào
tạo cũng như nâng cấp cơ sở vật chất; Cho phép đa dạng hóa việc liên kết đào tạo ở
nhiều cấp độ khác nhau, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo chủ động mời gọi doanh
nghiệp tham gia quá trình đào tạo.
Ba là, là xây dựng và phổ biến rộng rãi cho các đối tượng trong toàn ngành 13 bộ tiêu
chuẩn kỹ năng nghề cho các lĩnh vực dịch vụ cơ bản của ngành du lịch kèm theo các
đĩa DVD hướng dẫn kỹ năng nghề (Thái độ, Kỹ năng chuyên nghiệp, kiến thức rõ ràng
về văn hóa, vùng miền)
Bốn là, việc nâng cao kiến thức thực tế của học viên cũng là vấn đề quan trọng cần
được quan tâm. Do vậy trong chương trình đào tạo phần kiến thức thực hành phải
chiếm một tỷ trọng tương đối cao. Phần kiến thức thực hành có thể chia làm các nhóm:
− Lồng ghép vào các học phần giảng dạy. Song song với kiến thức lý thuyết sinh
viên sẽ được thực hành tại cơ sở của trường hoặc tại các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và vùng lân cận.

− Thực tập dã ngoại dài ngày. Trong chương trình đào tạo, để tăng kiến thức thực
tế cho sinh viên còn thiết kế các học phần thực tập dã ngoại, sinh viên được tổ
chức đi thực tập dã ngoại tại các điểm du lịch trong phạm vi cả nước.
− Thực tập doanh nghiệp. Cuối khóa học, trong chương trình đào tạo có một
khoảng thời gian khá lớn cho phần thực tập tại doanh nghiệp du lịch. Sau đó
viết báo cáo chuyên đề tốt nghiệp và báo trước Hội đồng khoa học của nhà
trường. Điều này không chỉ là việc sinh viên tích lũy được học phần, mà còn

17
17


tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc với doanh nghiệp nâng cao kiến thức thực
tế và tạo khả năng xin việc sau khi tốt nghiệp.
Năm là tổ chức đào tạo và thẩm định cấp chứng chỉ nghề theo tiêu chuẩn VTOS trên
diện rộng cho các nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp du lịch.
Sáu là củng cố và vận hành Trung tâm thẩm định nghề du lịch ở địa phương.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng nghĩa với
việc phát triển toàn diện con người, tiểu luận đã phân tích và đưa một số giải pháp
định hướng trong ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhằm hoàn thiện các chính
sách đào tạo và nhanh chóng tạo được nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường khi
Việt Nam gia nhập TPP. Nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi vừa
cấp bách vừa cơ bản do đó cần được tiến hành thường xuyên nhằm phát huy cao nhất
vai trò của yếu tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Cơ hội mà TPP
mang lại cho ngành “công nghiệp không khói” của Việt Nam đó là du khách quốc tế sẽ
có cơ hội làm thủ tục thuận lợi, dịch chuyển nhanh và rẻ hơn nhờ những cam kết nhập
cảnh tạm thời của khách kinh doanh trong khuôn khổ TPP. Mặt khác, các thành viên
TPP đều thông qua và duy trì trong hệ thống văn bản pháp luật của mình quyền cơ bản
của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của Tổ chức Lao động

quốc tế (ILO). Vì vậy sẽ giúp nâng cao điều kiện làm việc, cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực, trong đó có lao động ngành du lịch. Ngành Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị: Cơ quan quản lý nhà nước - Doanh
nghiệp – Nhà trường làm sao cho chính sách, thực tế và đào tạo sử dụng hợp lý phù
hợp với nhu cầu xã hội, thị trường. Bởi chính thị trường là nơi đánh giá chính xác nhất
thành quả đào tạo. Ngoài ra các cơ sở đào tạo cần có sự tăng cường học hỏi lẫn nhau vì
đây là ngành nghề đặc biệt mở và luôn thay đổi, mới mẻ.

18
18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Phạm Cao Tố. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch tại
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Đại học kỹ thuật
công nghệ.
2. K.V – Lương Lan, 2016. Để du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển xứng tầm <
[Ngày truy cập: 11/10/2016]
WEBSITE THAM KHẢO
1. Website Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch:
2. Website Sở Văn Hóa – Thể Thao Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:
/>3. Website Tổng cục Du lịch:
4. Website Tổng Cục Thống Kê:
5. Website Trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu: />6. Website Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu:

19
19




×