Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

nhu cầu và nhận thức của giới trẻ về giới tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.46 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài: Tại Việt Nam, tỷ lệ nạo hút thai trong vị thành niên- thanh
niên( VTN- TN) và nguy cơ lây nhiễm HIV cùng các bệnh lây truyền qua đường tình
dục có xu hướng ngày càng gia tăng.Theo thống kê mới của hội Kế hoạch hóa gia đình
Việt Nam( KHHGĐ) Việt Nam là 1 trong 3 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế
giới. Tỷ lệ nạo phá thai trung bình ở nước ta: 1,2 – 1,6 ca triệu/năm; Là 1 trong 5 nước
dẫn đầu thế giới, đáng chú ý là tỷ lệ các ca nạo hút thai ở độ tuổi từ 15- 19, trong đó
60- 70% là học sinh, sinh viên. Theo thống kê của bệnh viện Phụ Sản Trung ương, Bác
sĩ Nguyễn Thị Hồng Minh(Giám đốc Trung tâm tư vấn sức khỏe sinh sản và KHHGĐ)
cung cấp tính trong năm 2009, bệnh viện đã giải quyết 5000 trường hợp thai nhi từ 512 tuần tuổi bằng phương pháp hút chân không. Trong đó, 28% là số ca bệnh nhân
dưới 24 tuổi, bác sĩ cho biết thêm có tới 3% số ca VTN có tiền sử từ 2 lần. Cũng trong
năm 2009, Bệnh Viện Phụ Sản Hà Nội đã giải quyết 17 241 trường hợp, trong đó có
31, 3% bệnh nhân dưới 24 tuổi với 5403 ca. Chỉ tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2010
ở đây đã tiến hành thủ thuật cho 60/ 1730 ca dưới 19 tuổi. Tuy nhiên theo một số bác sĩ
tư vấn và theo dõi, con số này thực tế còn có thể lớn hơn vì các em thường đội tuổi lên
để không phải nhờ người bảo lãnh. Theo số liệu chính thức về điều tra quốc gia về TN
và VTN thì có tới, 7,6 % số VTN-TN có quan hệ tình dục( QHTD) trước hôn nhân.
Tuổi QHTD trung bình đầu tiên của TN Việt Nam là 19, 6 tuổi. 66, 7% con trai chấp
nhận QHTD trước hôn nhân. Năm 2009, báo cáo tình hình nhiễm HIV/AIDS có tới
144.483 người nhiễm HIV. Số người nhiễm HIV chủ yếu ở 2 thành phố: Hà Nộivà
Tp.HCM. Số tuổi nhiễm HIV/AIDS ở Hà Nội ngày càng được trẻ hóa: 75% tổng số
người có tuổi đời dưới 30 tuổi mà con đường lây nhiễm chủ yếu là QHTD khôngan
toàn. Gõ từ khóa “có cần thiết phải GDGT cho trẻ” trên trang Google có đến gần 5,1
triệu kết quả cho thấy sự quan trọng, cấp thiết của GDGT hiện nay. Cũng trên trang
này có hơn 8, 2 triệu kết quả thể hiện các ý kiến, góp ý về độ tuổi bắt đầu thực hiện


việc GDGT. Rõ ràng GDGT là vấn đề đang được quan tâm, và có tầm quan trọng đối
với lứa tuổi học sinh, sinh viên hiện nay. Vì vậy, nhóm chúng tôi quyết định nghiên
cứu đề tài: “nhận thức và nhu cầu của sinh viên về vấn đề giáo dục giới tính” (nghiên
cứu trường hợp tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn). 8


2. Câu hỏi nghiên cứu: Sinh viên Nhân văn có nhận thức và nhu cầu như thế nào về
vấn đề GDGT? Yếu tố nào có tác động lớn nhất đến nhận thức và nhu cầu của SV về
GDGT?
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
3.1.Ý nghĩa khoa học: Vận dụng một số khái niệm, phương pháp nghiên cứu nhận
thức, nhu cầu của sinh viên về GDGT. Kết quả của nghiên cứu có thể bổ sung, hoàn
chỉnh hoặc làm sáng tỏ những luận điểm của lý thuyết đã sử dụng trong đề tài này.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài làm rõ thực trạng về nhận thức của sinh viên trong việc
GDGT hiện nay tại địa bàn nghiên cứu và tác động của những nhận thức đó tới nhu cầu
và hành vi của các đối tượng nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích nhận thức của sinh viên
về GDGT ta thấy được việc GDGT góp phần quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều tới
hành vi, cách ứng xử của HS-SV. Hoạt động giáo dục giới tính giúp cho trẻ VTN- TN,
đặc biệt sinh viên, có nhận thức đúng đắn về vấn đề giới tính, QHTD, tình yêu,tình
bạn,....
4. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT. Từ đó lý
giải hiện trạng nhận thức về GDGT của sinh viên ĐH KHXH và NV hiện nay. Từ đó
có những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của SV về GDGT. Để đạt được mục
đích này, chúng tôi xin đưa một số nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài như sau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:. Tìm hiểu nhận thức của sinh viên về vấn đề GDGT. Nhu
cầu của sinh viên về GDGT. Tìm hiểu các yếu tố tác động đến GDGT.


6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
6.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng nhận thức, nhu cầu của sinh viên về GDGT.
6.2. Khách thể nghiên cứu: 9 Sinh viên trường Đại học KHXH và NV- ĐHQG Hà
Nội.
6.3. Phạm vi nghiên cứu: Không gian: ĐH KHXH và NV. Thời gian: tháng 10/ 2012.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp luận:
7.1.1. Phương pháp luận chung. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng

Marxist về CNDVBC. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện với tính cách là phương
pháp luận khoa học để nhận thức và giải thích các hiện tượng và các quá trình của đời
sống xã hội trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau có tính quy luật giữa chúng, đi tìm
nguồn gốc của các quá trình xã hội ở trong những mâu thuẫn biện chứng khách quan
nội tại của chúng. Do vậy khi nghiên cứu nhận thức của sinh viên về vấn đề GDGT,
trường hợp sinh viên trường ĐH KHXH và NV, cũng cần xem xét trên nhiều khía cạnh,
đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Để biết được hiệu quả
của giáo dục giới tính, những nhận thức và nhu cầu về GDGT trong sinh viên, cần phải
xem xét thực trạng của vấn đề giới tính và giáo dục giới tính trong phạm vi đối tượng
trên.
7.1.2. Phương pháp luận chuyên biệt. Đề tài đã sử dụng lý thuyết: lựa chọn hành vi hợp
lý của Peter Blau.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
7.2.1. Phương pháp định lượng: Sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu
trưng cầu ý kiến: Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua bảng
hỏi với kích thước mẫu là 120, nghiên cứu được tiến hành đối vớisinh viên thuộc


trường ĐH KHXH và NV- ĐHQG Hà Nội. Tìm hiểu nhận thức và nhu cầu của sinh
viên về GDGT. Hơn nữa 10 tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên
hiện nay và ảnh hưởng như thế nào đến nhận thức về giới tính của SV( chọn mẫu ngẫu
nhiên hệ thống). Cơ cấu mẫu:
7.2.2 Phương pháp định tính:
7.2.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu: Đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích tài
liệu những và những thông tin thu thập được từ phiếu trưng cầu ý kiến, phỏng vấn sâu.
Trước hết là nghiên cứu “ Báo cáo kết qủa cuộc khảo sát tìm hiểu kiens thức, thái độ và
SKSS tuổi VTN”do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và sở Giáo
dục Khánh Hòa. Đề tài nghiên cứu “hành vi tình dục và kiến thức TDAT của học sinh
THPT trên địa bàn Hà Nội hiện nay” (nghiên cứu trường hợp tại trường PTTH Phan
Đình PhùngQuận Ba Đình- Hà Nội). Nguyễn Thanh Vân. Luận văn Thạc Sỹ Xã hội

học.2008. Cuốn sách “ Giáo dục giới tính cho thanh thiểu niên” của Nguyễn Thành
Công (Nxb trẻ, năm 1997). Bài viết : “giáo dục giới tính cho vị thành niên- nhìn từ một
điểm trường”của Ngọc Duyệt. Đề tài: “tìm hiểu nhận thức về giáo dục giới tính tại cấp
trung học cơ sở ở khu vực nông thôn” (trường hợp nghiên cứu là Trường Hợp HòaTam Dương –Vĩnh Phúc). 11
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được thực hiện để thu thập
thông tin định tính, nhằm làm phong phú thêm cho những thông tin định lượng. Đặc
biệt phương pháp này tập trung vào những ý kiến của thầy cô giáo và ý kiến của đối
tượng sinh viên về vai trò của gia đình, nhà trường, các phương tiện truyền thông đại
chúng trong GDGT. Phỏng vấn sâu được tiến hành với số lượng là 5 mẫu. Qua đó quan
sát thái độ cử chỉ của người được phỏng vấn khi trả lời vấn đề nghiên cứu và giúp tìm
hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhận thức và nhu cầu của sinh viên về vấn đề GDGT. Trong
phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.


8. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết.
8.1. Giả thuyết nghiên cứu: Phần lớn sinh viên chưa có nhận thức đầy đủ về GDGT.
Đa số sinh viên đều có nhu cầu tìm hiểu các kiến thức về GDGT. Truyền thông đại
chúng là yếu tố có tác động lớn nhất đến đến nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT.
8.2. Khung lý thuyết: Điều kiện kinh tế- văn hóa- xã hội 12


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NHẬN THỨC VÀ
NHU CẦU CỦA SINH VIÊN ĐHKHXH và NV VỀ GDGT.
1.1

. Cơ sở Triết học:

Phương pháp luận Marxist về CNDVBC: xem xét, lý giải các hiện tượng của đời sống
xã hội trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau. Nghĩa là khi xem xét về

nhận thức, thái độ và nhu cầu của SV về GDGT cần xem xét trong mối quan hệ với các
yếu tố khác: điều kiện KT, VH, XH….
1.2.Lý thuyết áp dụng.
Sử dụng lý thuyết Lựa chọn hành vi hợp lí vào đề tài nghiên cứu. Lý thuyết này cho
rằng, con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử
dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa và chi phí tối thiểu.
Hành động có xu hướng lặp lại nếu nó từng được thưởng trong quá khứ, ngược lại
không có xu hướng lặp lại những gì được phát hiện không có phần thưởng. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, việc áp dụng các định đề cũng có phần hạn chế, định đề được áp
dụng để giải thích đó là sự lựa chọn giữa phần thưởng và chi phí. Áp dụng lý thuyết
vào đề tài nghiên cứu: Cá nhân luôn luôn có sự tính toán giữa phần thưởng và chi phí.
Mỗi một cá nhân khi lựa chọn một hành động luôn có sự tính toán giữa chi phí mình
bỏ ra và phần thưởng mình đạt được. Họ luôn hướng đến việc thực hiện hành động sao
cho đạt được phần thưởng tối đa và chi phí tối thiểu. Bởi vậy, nếu cá nhân ý thức rõ
ràng về những lợi ích của việc GDGT cao hơn so với những “chi phí” mà họ phải bỏ ra
để có được những kiến thức đó thì sẽ có sự thay đổi trong nhận thức của họ về GDGT.
Từ đó sẽ có những thay đổi trong hành động để có được những kiến thức về GDGT. Và
ngược lại, khi cá nhân thấy rằng lợi ích của việc GDGT ít hơn những “chi phí” mà họ
phải bỏ ra thì họ sẽ có xu hướng bàng quan với vấn đề GDGT.


1.3.Khái niệm công cụ:
1.3.1.Giáo dục: Giáo dục là quá trình truyền lại kinh nghiệm từ thế hệ trước cho thế hệ
sau, thế hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm để tham gia vào cuộc sống lao động và các
hoạt động xã 13 hội nhằm duy trì và phát triển xã hội loài người. Tuy nhiên, thế hệ sau
không phải chỉ lĩnh hội toàn bộ những kinh nghiệm của thế hệ trước để lại mà còn bổ
sung, làm phong phú thêm những kinh nghiệm của loài người – đó là quy luật của sự
tiến bộ xã hội- là hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người. Theo Nguyễn Sinh Huy
và Nguyễn Văn Lê ( Giáo dục học đại cương, NXB Giáo dục,1999) Giáo dục theo
nghĩa hẹp: “bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới

quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con người, kể cả việc
phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được xem là một bộ phận của quá trình giáo
dục tổng thể, kết quả không chỉ xem xét về ý thức mà căn cứ trên hành vi, thói quen,
hiểu biết của trình độ phát triển (cao hay thấp) của trình độ có giáo dục của mỗi người”
[5.Tr11].
1.3.2.Giới tính: Giới tính là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từmôn Sinh vật học
dùng để chỉsự khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác biệt phổ thông và
không thể thay đổi được (Mọi người đàn ông đều có những đặc điểm chung về giới
tình và mọi người phụ nữ đều có những đặc điểm chung về giới tính). Con người sinh
ra đã có những đặc điểm về giới tính và đặc điểm này tồn tại trong suốt cuộc đời. Giới
tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Mỗi người đều mang một giới tính, nghĩa
là khi sinh ra đã mang giới tính là nam hay nữ. Những quy định này đều dựa trên một
số tố chất đặc thù khiến ta có thể phân biệt được giới tính của mỗi giới
1.3.3.Giáo dục giới tính: Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của giáo dục đời
sống gia đình, giúp thế hệ trẻ: Có những hiểu biết cơ bản về các đặc điểm giới tính, về
quá trình sinh sản ở người, về các bệnh lây lan do quan hệ tình dục bừa bãi. Có ý thức


và biết đánh giá đúng đắn hành vi của mình và của người khác trong mối quan hệ với
người khác giới, xây dựng đúng đắn tình bạn, tình yêu chân chính. Chuẩn bị về mặt
tâm lý và thực tiễn cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tư cách làm cha, làm mẹ trong
tương lai. (Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, 2002). 14
Như vậy, Giáo dục giới tính nhằm giáo dục mối quan hệ nhân văn và có trách nhiệm
giữa nam và nữ trên các khía cạnh sinh học, sức khỏe sinh sản và tình dục. GDGT là
một khoa học liên ngành (tâm lý, y học, xã hội học). Giáo dục giới tính là sự chuẩn bị
cho thanh thiếu niên những hiểu biết để bước vào đời để biết ứng xử với nhau một cách
tôn trọng và có trách nhiệm và cũng để biết tự bảo vệ sức khỏe sinh sản. 1.3.4.Nhu cầu:
Theo từ điển xã hội học Oxford: nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi
nó được cho là thiết yếu cho sự sinh tồn của một con người, tổ chức hay bất kì thứ gì
khác. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong các khoa học xã hội, với sự chú ý đặc

biệt dành cho cái gọi là những nhu cầu con người. Nhu cầu thường được đối lập với
muốn, hay ước muốn, nhu cầu nói đến những thứ cần thiết, còn muốn nói đến những
thứ người ta ao ước muốn có. Các nhà xã hội học, đặc biệt là những nhà chức năng
luận, cũng thường dùng thuật ngữ nhu cầu khi nghiên cứu sự vận hành của xã hội.
Chẳng hạn, Talcott Parsons giải thích những tiền đề chức năng của hệ thống xã hộinhững cái cần thiết cho sự tồn tại của xã hội- sự hẫu thuẫn về mặt động cơ thúc đẩy
thích hợp cho bản thân hệ thống. Theo mạch tư duy tương tự, những nhà Marxist nói
đến những nhu cầu của chủ nghĩa tư bản, nhắc nhiều nhất đến những nhu cầu cho sản
xuất, tái sản xuất và hợp pháp hóa hệ thống. 1.3.5.Nhận thức: Theo nghĩa triết học,
nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở trong tư duy của con người,
được quy định bởi những quy luật phát triển xã hội và không thể tách rời với thực tiễn.
Mục tiêu của nhận thức là đạt đến chân lý khách quan. Quá trình nhận thức: thu thập
kiến thức, hình thành khái niệm về hiện tượng thực tế giúp con người hiểu biết về thế
giới xung quanh. Quá trình nhận thức là để tích lũy kinh nghiệm từ đó cải tạo thế giới.
Như vậy, nhận thức là sự phản biện biện chứng thế giới khách quan vào trong bộ óc


của con người, là quá trình xâm nhập ý chí con người vào hiện thực làm cho hiện thực
15 chịu sự chi phối của chủ thể và quá trình nhận thức chính là quá trình con người làm
phong phú thêm tri thức bằng những tri thức mới. Nhận thức nảy sinh, bộc lộ và phát
triển trong sự tương tác giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan. Chủ thể nhận thức là con người, nhận thức của con
người bị chi phối bởi các yếu tố: nhu cầu lợi ích, truyền thống văn hóa dân tộc, điều
kiện kinh tế- xã hội, các tri thức được truyền lại từ thế hệ trước đối với các cá nhân,
đặc điểm tâm sinh lý, trình độ phát triển cụ thể của mỗi cá nhân về mặt sinh học,....
Khách thể nhận thức: là đối tượng mà nhận thức hướng vào, khách thể nhận thức
không đồng nhất với thế giới vật chất vì khách thể nhận thức không những chỉhướng
vào thế giới vật chất mà còn hướng vào thế giới tinh thần. Khách thể nhận thức của
nghiên cứu này là các hoạt động giáo dục giới tính bao gồm: nội dung GDGT, công tác
tuyên truyền giáo dục,...giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức có mối quan hệ
biện chứng không thể tách rời trong quá trình nhận thức. Khách thể nhận thức được

phản ánh mang đậm tính cá nhân thông qua cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tư
tưởng,... làm cho chủ thể nhận thức có thái độ, tình cảm đối với khách thể nhận thức và
hành động tương ứng. Hoạt động xã hội và nhận thức có mối quan hệ biện chứng. Cội
nguồn của nhận thức là tính tích cực hoạt động, hiệu quả hoạt động phụ thuộc vào nhận
thức. V.I Leenin đã viết: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn
đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan”. Như vậy, theo cách hiểu của nhóm chúng tôi, khái niệm Nhận thức là sự phản
ánh thế giới xung quanh, “nhận thức là biết được, hiểu được, ý thức được” thế giới
xung quanh thông qua các hoạt động thực tiễn đó con người tiến hành các hoạt động
thực tiễn, thông qua đó nâng cao hiểu biết của mình. 16 Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ
VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU CỦA SINH VIÊN ĐHKHXH và NV VỀ
VẤN ĐỀ GDGT. 2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu: Tổ chức tiền thân của trường
đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là trường Đại


học văn khoa Hà Nội (sắc lệnh số 45 do chủ tịch Hồ Chí Minh kí 10- 10- 1945). Tiếp
đó là trường Đại học tổng hợp Hà Nội ( 5-6-1956). Ngày 10-12-1993 Thủ tướng Chính
Phủ ban hành nghị đinh 97/CP thành lập Đại học quốc gia Hà Nội trong đó có trường
Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hằng năm nhà trường tiếp nhận một lượng lớn
sinh viên trong cả nước, năm 2012 tổng số sinh viên là 13.959 sinh viên, trong đó có
5472 sinh viên hệ chính quy, 4571 sinh viên không chính quy, 3057 học viên cao học,
297 nghiên cứu sinh, 562 sinh viên nước ngoài (26 sinh viên đại học, 21 học viên cao
học, 8 nghiên cứu sinh và 507 sinh viên học tiếng việt), đa số là nữ sinh viên. Với đội
ngũ cán bộ đông đảo các nhà khoa học trong đó có 332 giảng viên chính thức và 156
thỉnh giảng. Nhà trường thường xuyên tổ chức nhiều hội thảo với sự tham gia của các
trường Đại học và các nước bạn trên thế giới: kí thỏa thuận hợp tác với Đại học kinh tế
Budapest, Đại học tổng hợp Bungaria… Ngoài ra sinh viên trong trường thường xuyên
tổ chức nhiều hoạt động, thông qua các tổ, đội, nhóm: Đội Tuyên truyền sức khỏe sinh
sản, CLB hoa đá, Đội xung kích… 2.2.Tổng quan đề tài nghiên cứu: Với lối sống hiện
nay, một bộ phận không nhỏ vị thành niên, thanh niên đã có QHTD trước hôn nhân,

tăng tình trạng nạo phá thai… những vấn đề này đe dọa trực tiếp đến SKSS của lớp trẻ
Việt Nam. Đã có rất nhiều những nghiên cứu cũng như những đề tài liên quan đến vấn
đề TD và SKSS của thế hệ trẻ. “ Báo cáo kết qủa cuộc khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái
độ và SKSS tuổi VTN”do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và sở
Giáo dục Khánh Hòa. Cuộc khảo sát được thực hiện tại sáu trường THCS và THPT,
thời gian thu thập thông tin từ 4-1999 đến 17 tháng 5. Đối tượng là học sinh lớp 8 đến
lớp 12 (gồm 360 em) và 350 cha mẹ của các em học sinh. 60 giáo viên bộ môn đã từng
tham gia giảng dạy giáo dục giới tính và SKSS cùng đại diện ban giám hiệu, Giáo viên
chủ nhiệm và giáo viên phụ trách Đoàn, Đội. Chọn mẫu ngẫu nhiều tầng theo chủ định,
nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên được thực hiện ở giai đoạn cuối. Công cụ khảo sát là
bộ bảng hỏi được thiết kế riêng cho từng nhóm đối tượng. Nghiên cứu đã đưa ra những
thông tin cơ bản về kiến thức, thái độ, thực trạng và hành vi liên quan đến SKSS của


một bộ phận học sinh, phu huynh và của giáo viên ở Tỉnh Khánh Hòa. Một nghiên cứu
nữa về “ Khảo sát đánh giá về kiến thức, thái độ và thực hành của Thanh niên Hải
Phòng với các vấn đề liên quan đến SKSS” của Trần Thị Trung Chiến và cộng sự.
Nghiên cứu này được thực hiện tại 20 xã/ phường thuộc thành phố Hải Phòng với đối
tượng thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi. Phương pháp định lượng được sử dụng là chủ
yếu. Theo kết quả nghiên cứu, nhìn chung nhận thức của thanh thiếu niên vẫn chưa đầy
đủ, còn nhiều thiếu hụt về kiến thức về hiểu biết sinh lý, biện pháp tránh thai, QHTD
và các bệnh lây lan qua đường tình dục. Đề tài nghiên cứu “hành vi tình dục và kiến
thức tình dục an toàn của học sinh THPT trên địa bàn Hà Nội hiện nay” (nghiên cứu
trường hợp tại trường PTTH Phan Đình Phùng-Quận Ba Đình- Hà Nội). Nguyễn
Thanh Vân, Luận văn Thạc Sỹ Xã hội học, 2008. Kết quả cho thấy đa số các em học
sinh đều cho rằng QHTD trước hôn nhân là không thể chấp nhận được (57,4%), chỉ có
28,4% có thể chấp nhận được hành vi này và 13,2% cho rằng đó là chuyện bình thường
trong xã hội. Đa số các em đã có kiến thức và hiểu biết tốt về thế nào là QHTD an
toàn. Có tới 56,9% tỉ lệ học sinh lựa chọn câu trả lời tổng hợp đó là tình dục an toàn là
TD không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn, hay dẫn đến lây nhiễm các bệnh qua

đường TD như lậu, giang mai, HIV/AIDS và có xử dụng các biện pháp tránh thai. Tuy
nhiên con số này cũng chỉ mang tính tương đối bởi tâm lý chung của học sinh phổ
thông trung học là sợ trả lời sai và trả lời không đúng do vậy các em có xu hướng lựa
chọn nhưng câu trả lời tổng hợp. 18 Cuốn sách “ giáo dục giới tính cho thanh thiểu
niên” của Nguyễn Thành Công (Nxb trẻ, năm 1997) cung cấp những kiến thức căn bản,
chỉ dẫn thông tin cần thiết, nhằm giúp cho các bạn trẻ trải qua các giai đoạn phát triển
và giáo dục họ có được lối sống tình dục lành mạnh trong tương lai, cách phòng chống
sự lạm dụng tình dục, giải quyết những xung đột ở lứa tuổi vị thành niên. Qua những
thông tin trong cuốn sách này giúp ta nhận thức rõ vai trò của giáo dục giới tính trong
việc góp phần hình thành nhân cách của thanh thiểu niên. Qua bài viết : “giáo dục giới
tính cho vị thành niên- nhìn từ một điểm trường”của Ngọc Duyệt. Tác giả đã chỉ ra vai


trò quan trọng của giáo dục giới tính. Trong bài viết này tác giả đã tiến hành khảo sát
tại một trường Trung Học Phổ Thông ở Bắc Ninh và kết quả thu được là đa số học sinh
không quan tâm đến vấn đề giáo dục giới tính: có 72,23% mới chỉ nghe nói về quan hệ
tình dục, 26,77% là chưa nghe nói. Không có kiến thức về biện pháp tránh thai ở học
sinh nam là 17,31%, học sinh nữ là 31,88%. Không có kiến thức về các bệnh lây
truyền qua đường tình dục nam là 28,81%, nữ là 38,41%. Nhu cầu cần biết về kiến
thức về giáo dục giới tính nam là 94,12% nữ là 95,42% mong muốn được tiếp cận các
thông tin về giáo dục giới tính. Tên đề tài: “tìm hiểu nhận thức về giáo dục giới tính tại
cấp trung học cơ sở ở khu vực nông thôn” (trường hợp nghiên cứu là Trường Hợp HòaTam Dương –Vĩnh Phúc) trong bài viết này tác giả cũng đề cập đến đặc điểm tâm sinh
lý của vị thành niên và thực trạng đáng lo ngại về nạo phá thai ở lứa tuổi này ở Việt
Nam. Phương pháp nghiên cứu là điều tra bảng hỏi Anket, phương pháp thu thập thông
tin thứ cấp và sơ cấp (phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm) với 20 mẫu điều tra ngẫu
nhiên ở mỗi lớp học từ lớp 6 đến lớp 9. Kết quả thu được: thực trạng nhận thức về giới
tính: 60 phiếu hỏi đưa ra thì 60% trong đó đã được tiếp xúc với những thông tin về
giáo dục giới tính. Tuy nhiên mối quan tâm về giáo dục giới tính thì có sự khác nhau:
35,5% chọn về phát triển thể chất tâm sinh lý, 9% chọn quan hệ giữa con trai và con
gái có thể có thai, 6% chọn tác động xấu của việc nạo phá thai tới sức khỏe, 5% chọn

những hành vi thủ dâm, 3% chia đều cho hai phương án là các bệnh lây lan qua đường
tình dục và biện pháp tránh thai. Về nhu cầu được trang bị 19 đầy đủ kiến thức giáo
dục giới tính là 88,3% đồng ý, trong đó 68,3% đông ý với nội dung nên tự tìm hiểu,
trao đổi thẳng thắn về các vấn để giới tính. Tỉ lệ đồng ý với nội dung QHTD trước hôn
nhân là điều tồi tệ trái với đạo đức, truyền thống văn hóa của người dân Việt Nam được
lựa chọn nhiều nhất với 46,7% so với 18,3% là không đồng ý. Đánh giá về tầm quan
trọng của nhà trường trong giáo dục giới tính: 86,7% là rất quan trọng, 11,7% là quan
trọng, 3,3% là hoàn toàn không quan trọng. 2.3.Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và
NV về vấn đề GDGT hiện nay. 2.3.1 Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và NV về


kiến thức QHTD AT Mức độ biết đến các khái niệm GDGT, CS SKSS của SV KHXH
và NV 6% 94 % Biểu đồ thể hiện cơ cấu số người biết đến khai niệm GDGT, CS SKSS
Chưa từng nghe đến Đã từng nghe đến 2.1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu số người biết đến
khái niệm GDGT, CS SKSS. Qua biểu đồ trên ta thấy đa số SV trường ĐH KHXH và
NV bước đầu đã biết đến các khái niệm: GDGT, SKSS,QHTD AT… thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng, các môi trường xã hội hóa: gia đình, bạn bè, nhà
trường… Qua phiếu trưng cầu ý kiến có tới 94,2% SV đã từng biết đến các khái niệm
này và chỉ co 5,8% chưa từng biết đến các khái niệm trên. 20 Nhận thức đầy đủ kiến
thức về QHTD AT 15% Nhận thức chưa đầy đủ kiến thức về QHTD AT 85% Biểu đồ
thể hiện mức độ nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT 2.2. Biểu đồ thể hiện mức
độ nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT. Qua biểu đồ trên ta thấy, tuy số SV biết
đến khái niệm liên quan đến khái niệm GDGT có tỉ lệ cao, song con số thể hiện mức
độ hiểu biết đầy đủ về một trong những khía cạnh của GDGT- QHTD AT lại rất hạn
chế. Chỉ có 15.4% SV có nhận thức đầy đủ, trong khi số SV có nhận thức không đầy
đủ là 84,6%. Qua số liệu trên ta thấy công tác GDGT vẫn chưa mang lại hiệu quả cao.
Kiến thức về GDGT của SV còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
nhận thức chưa đầy đủ ở SV, một trong số đó xuất phát từ: nhà trường và gia đình chưa
thực sự phát huy hết vai trò của mình trong việc GDGT cho con em họ. Ngoài ra do
bản thân mỗi cá nhân chưa có thái độ tích cực trong việc tìm hiểu những kiến thức liên

quan đến GDGT. Việc nhận thức không đầy đủ về GDGT nói chung và QHTD AT nói
riêng đã dẫn đến một số hệ quả: - Tỉ lệ nạo phá thai đặc biệt trong lứa tuổi VTN TN
ngày càng có xu hướng gia tăng. - Gia tăng các bệnh qua đường tình dục. Vì vậy ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và quá trình học tập của SV nói riêng và ảnh hưởng
đến quá trình phát triển của toàn xã hội nói chung. 21 2.1. Bảng số liệu thể hiện mức
độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa sinh viên các khóa thuộc trường
KHXH & NV (đơn vị %). Sinh viên các khóa I II III IV Tỉ lệ 11,1 15,4 16,7 19,0 Bảng
số liệu thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về khái niệm TDAT giữa SV các khóa là


không đồng đều. SV năm thứ 4 có hiểu biết đầy đủ hơn so với SV năm thứ nhất, thứ 2
và thứ 3 với mức độ hiểu biết là 19,0%, trong khi SV năm nhất là 11,1%. 2.3. Biểu đồ
thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa nam sinh viên và nữ sinh
viên trường KHXH &NV (đơn vị %). Qua biểu đồ ta thấy, tương quan nam nữ về mức
độ hiểu biết đầy đủ kiến thức QHTD AT giữa SV các năm. Nữ có nhận thức đầy đủ với
tỉ lệ 17,9%, cao hơn so với 12,5% số nam có nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT.
Bên cạnh đó, có đến 87,5% số nam SV có nhận thức không đầy đủ về kiến thức QHTD
AT. Qua số liệu trên ta thấy được mối tương quan trong nhận thức giữa nam và nữ về
kiến thức về QHTD AT. Cả SV nam và nữ đều chưa có hiểu biết đầy đủ về QHTD 22
AT. Có tới 87,5% nam SV có nhận thức không đầy đủ và 82,1% nữ SV có nhận thức
không đầy đủ về kiến thức QHTD AT. 2.3.2. Kiến thức của SV về con đường lây nhiễm
HIV/AIDS. 63% 37% Hiểu biết đầy đủ Hiểu biết chưa đầy đủ 2.4. Biểu đồ thể hiện
mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây lan HIV/AIDS của sinh viên trường KHXH
&NV. Số SV có hiểu biết đầy đủ về các con đường lây truyền HIV/AIDS có tỉ lệ cao
hơn so với số SV có nhận thức không đầy đủ về các con đường trên. Số SV nhận thức
đầy đủ chiếm 63,3% lí do của thực trạng trên là do qua các phương tiện thông tin đại
chúng, các môi trường như nhà trường, bạn bè… Tuy nhiên tỉ lệ nhận thức không đầy
đủ là 36.5%, con số này còn khá cao và nó dẫn đến những hậu quả như tệ nạn xã hội
ngày một gia tăng, đặc biệt là gia tăng số người nhiễm HIV/AIDS, ảnh hưởng đến sự
phát triển của xã hội. 23 66.7 61.5 66.7 57.1 33.3 38.5 33.3 42.9 Sinh viên năm I Sinh

viên năm II Sinh viên năm III Sinh viên năm IV Chart Title Tỉ lệ hiểu biết đầy đủ Tỉ lệ
hiểu biết không đầy đủ 2.5. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây
lan HIV/AIDS giữa sinh viên các khóa (đơn vị %) Tỉ lệ hiểu biết về các con đường lây
nhiễm HIV/AIDS giữa các khóa trong nhà trường là không lớn. Đa số SV trong trường
đã có những kiến thức cơ bản về kiến thức HIV/AIDS: SV năm I có mức độ hiểu biết
là 66,7%, SV năm II là 61,5%, SV năm III là 66,7%, năm IV là 57,1%. 0% 20% 40%
60% 80% 100% Nam Nữ 70.8 57.1 29.2 42.9 Hiểu biết đầy đủ Hiểu biết chưa đầy đủ


2.6. Biểu đồ thế hiện tương quan nam- nữ về mức độ hiểu biết các con đường lây
nhiễm HIV/ AIDS giữa sinh viên các khoa (đơn vị %). 24 Nhận xét: Biểu đồ trên cho
thấy mức độ hiểu biết của sinh viên nam về các con đường lây nhiễm HIV/AIDS là cao
hơn nữ giới, tới 1,2 lần. Tỉ lệ sinh viên nam nhận thức chưa đầy đủ là 29,2% trong khi
đó tỉ lệ sinh viên nữ nhận thức chưa đầy đủ tới 42,9%. Không có nhu cầu 72% Có nhu
cầu 28% Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm có liên quan đến
kiến thức GDGT, CS SKSS trong nhà trường. 2.7. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia
các CLB, tổ, đội, nhóm có liên quan đến kiến thức GDGT, CS SKSS trong nhà trường.
Nhận xét: Nhu cầu tham gia các tổ, đội nhóm liên quan đến GDGT và chăm sóc SKSS
vẫn còn thấp. Trong khi không có nhu cầu là 72.2%, thể hiện hoạt động GDGT chưa
thu hút sự quan tâm của các bạn trẻ. Đặt ra yêu cầu đối với các CLB kết hợp với việc
tuyên truyền để thu hút sự quan tâm vào các CLB về GDGT. 2.3. Bảng số liệu thể hiện
nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp các kiến thức GDGT, CS SKSS
giữa sinh viên các khóa trong nhà trường (đơn vị %) Sinh viên khóa I II III IV Có nhu
cầu 33,3 30,6 26,9 19,0 Không có nhu cầu 66,7 69,2 73,1 81,0 25 0 10 20 30 40 50 60
70 80 90 100 Sinh viên năm I Sinh viên năm II Sinh viên năm III Sinh viên năm IV
2.8. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp kiến thức
GDGT,SKSS giữa SV các khóa trong nhà trường. Nhận xét: Qua biểu đồ trên, ta có thể
nhận nhận thấy nhu cầu tham gia vào các CLB, tổ đội nhóm liên quan tới GDGT là có
sự khác biệt giữa các năm. Xu thế giảm dần về nhu cầu thể hiện ở tỉ lệ sinh viên năm
nhất là 33.3% có nhu cầu tham gia. Tỉ lệ này giảm dần qua SV các năm cao hơn: SV

năm 2: 30.8%; SV năm 3 là 26.9%; SV năm 4 là 19.0%. Vì vậy, nhu cầu này xuất phát
từ những nguyên nhân trong đó chủ yếu do SV năm 4 là SV năm cuối đại học phải
tham gia vào nhiều hoạt động phục vụ cho việc tốt nghiệp và tìm kiếm những định
hướng cho tương lai. Vì thế mà không có nhiều thời gian quan tâm tới việc tìm hiểu
thông tin về GDGT và theo đó nhu cầu tham gia các CLB cũng giảm đi. 26 89% 11%
Biểu đồ thể hiện nhu cầu đưa GDGT và CS SKSS trở thành 1 môn học chính thức


trong nhà trường Có nhu cầu Không có nhu cầu 2.9. Biểu đồ thể hiện nhu cầu đưa
GDGT và CS SKSS trở thành 1 môn học chính thức trong nhà trường (đơn vị %).
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy phần đông sinh viên có mong muốn đưa GDGT và
chăm sóc SKSS trở thành một môn học chính thức trong nhà trường với tỉ lệ chiếm tới
89%. Chỉ có 11% sinh viên cho rằng là không cần thiết 2.10. Biểu đồ thể hiện mức độ
tác động của các yếu tố môi trường xã hội đến nhận thức và nhu cầu của sinh viên
trường KHXH & NV về GDGT, CS SKSS (đơn vị %). Nhận xét: Trong số các yếu tố
tác động đến nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT thì Truyền thông đại chúng có tác
động mạnh mẽ nhất (75%) tiếp đến là yếu tố nhóm bạn bè 23% 75% 0% 2% Bi?u d?
th? hi?n Nhóm b?n bè Truy?n thông d?i chúng Gia dình Nhà tru?ng 27 (23%) và nhà
trường (2%). Như vậy có thể thấy vai trò quan trọng của truyền thông đại chúng trong
việc tuyên truyền các kiến thức về GDGT cho SV. Đồng thời thấy được yếu tố gia đình
và nhà trường vẫn chưa phát huy vai trò của chúng trong việc truyền tải các kiến thức
về GDGT cho SV. KẾT LUẬN GDGT là một phần của quá trình giáo dục nói riêng và
xã hội hóa nói chung, góp phần vào việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. GDGT
là một bộ phận hữu cơ của giáo dục đời sống gia đình, giúp thế hệ trẻ có được cái nhìn
toàn diện và đầy đủ hơn về đặc điểm giới tính, về quá trình sinh sản hay các bệnh lây
nhiễm qua đường TD… Qua đó giới trẻ sẽ nâng cao nhận thức và làm thay đổi hành vi
của bản thân theo hướng tích cực. Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tế, chúng tôi nhận
thấy: Lỗ hổng quan trọng nhất – Kiến thức về GDGT: Tuy số SV biết đến khái niệm
liên quan đến GDGT có tỉ lệ cao, song con số thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về các
thông tin liên quan đến GDGT (QHTDAT, vấn đề về giới tính…) lại rất hạn chế. Qua

số liệu điều tra ta thấy công tác GDGT vẫn chưa mang lại hiệu quả cao, và một trong
những hệ quả của nó là kiến thức về GDGT của SV còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn
đến một hiện thực là nhiều bạn trẻ có hiểu biết chưa đầy đủ thậm chí là sai lệch về các
kiến thức liên quan đến GDGT và hệ quả để lại từ việc nhận thức như vậy sẽ là các
hành vi sai lệch (nạo phá thai, QHTD trước hôn nhân…) ngày càng gia tăng. Lỗ hổng


từ những phương tiện truyền thông Sự phát triển đáng kể của ngành truyền thông, hệ
thống internet, các mạng xã hội… sinh viên giờ đây có thể tiếp xúc với nhiều luồng
thông tin hơn các thế hệ trước. Điều này vô tình ẩn chứa cả hai mặt tốt và xấu.Trong số
các yếu tố tác động đến nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT thì Truyền thông đại
chúng có tác động mạnh mẽ nhất, còn vai trò của gia đình – nơi bắt đầu của quá trình
xã hội hóa cá nhân thì gần như không thể hiện tác động lớn đến các cá nhân. Như vậy
có thể thấy vai trò quan trọng của truyền thông đại chúng trong việc tuyên truyền các
kiến thức về GDGT cho SV. Đồng thời thấy được yếu 28 tố gia đình và nhà trường vẫn
chưa phát huy vai trò của chúng trong việc truyền tải các kiến thức về GDGT cho sinh
viên. Theo kết quả thống kê gần đây của Google, Việt Nam là một trong những nước
có số câu lệnh tìm kiếm chứa từ “sex” nhiều nhất thế giới.Con số này khiến không ít
người e ngại về tình hình giáo dục giới tính ở Việt Nam. Có bao nhiêu bạn trẻ biết gạn
lọc những kiến thức lành mạnh và cần thiết cho mình? Nếu không biết cách chọn lọc
để tiếp thu, những trang web sex, blog đen sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
sinh viên và dẫn đến nhiều hành vi theo xu hướng tiêu cực. Theo kết quả thu được thì
phần đông sinh viên có mong muốn đưa GDGT và chăm sóc SKSS trở thành một môn
học chính thức trong nhà trường. Yếu tố thúc đẩy sinh viên tìm hiểu thông tin về giới
tính là “Muốn bổ sung kiến thức cho mình”. Nhưng vì “Sợ sẽ bị người khác hiểu lầm
là tìm hiểu thông tin không lành mạnh” đã làm cản trở việc tìm hiểu thông tin của học
sinh. Các phương tiện truyền thông đại chúng như: Sách, báo, internet, tài liệu là các
nguồn cung cấp thông tin mà sinh viên sử dụng để tìm hiểu nhiều nhất. Kiến thức về
giới tính càng tăng cao theo năm học của sinh viên. Việc có nhận thông tin về giới tính
từ bạn bè sẽ giúp sinh viên có kiến thức về các vấn đề giới tính cao hơn. Các kết quả

khảo sát trên là những chỉ báo thực tế và cụ thể thuận lợi cho việc nắm được tình trạng
tìm hiểu thông tin về GDGT của sinh viên. Và giúp chúng ta định hướng trong việc lựa
chọn tập trung vào nguồn thông tin nào hay đối tượng nào cho hiệu quả khi thiết kế các
chương trình truyền thông về giới tính trong tương lai. Vậy ta có thể thấy nhu cầu của


sinh viên trường ĐHKHXH&NV về việc đưa GDGT trở thành một môn học chính
thức trong các cấp bậc là rất cao. Tuy nhiên việc đưa GDGT vào trong nhà trường còn
đang là vấn đề đang được bàn tính và trước thực trạng đó gia đình và nhà trường nên
tìm các cách thức khác để giúp giới trẻ đặc biệt là lứa tuổi VTN – TN nâng cao nhận
thức về GDGT nhằm tiến đến mục tiêu cao hơn là thay đổi hành vi của họ theo hướng
tích cực 29 Phiếu Trưng Cầu Ý Kiến Chào bạn, chúng tôi là sinh viên K55 Xã hội học,
đang thực hiện một nghiên cứu về nhận thức và nhu cầu của sinh viên về giáo dục giới
tính. Rất mong nhận được sự cộng tác và giúp đỡ của bạn. Những thông tin mà bạn
cung cấp rất có ý nghĩa với đề tài nghiên cứu của chúng tôi! Giới tính:
…………………………………………………………………………………… Bạn là
sinh viên năm thứ:………………………………………………………………….. Lưu
ý: Bạn đọc vui lòng khoanh tròn vào câu trả lời mà bạn cho là đúng nhất. 1. Bạn có biết
đến các khái niệm sau đây: giáo dục giới tính (GDGT), quan hệ tình dục an toàn, chăm
sóc sức khỏe sinh sản (SKSS), biện pháp tránh thai an toàn… hay không ? A. Có B.
Không. 2. Hiện tại, bạn có đang tự tìm hiểu các kiến thức có liên quan đến GDGT,
SKSS không? (có thể chọn nhiều lí do) Phương án A. Có B. Không Lí do a. Do nhu
cầu bản thân thấy cần thiết nên muốn tìm hiểu kiến thức đó. a. Do bản thân cảm thấy
kiến thức đó không cần thiết. b. Do được thỏa mãn trí tò mò của bản thân về kiến thức.
b. Do tâm lí ngại ngùng. c. Do nhà trường chưa có các chương trình GDGT phù hợp
với bản thân. c. Do sợ người thân, bạn bè chê cười. Lí do khác (xin ghi rõ):
……………………………………………………………………………………………
……
……………………………………………………………………………………………
…… 3. Nếu tự tìm hiểu kiến thức GDGT, SKSS…thì mức độ đó như thế nào ? A.

Thường xuyên. B. Thỉnh thoảng. 4. Theo bạn kênh nào sau đây ảnh hưởng đến bạn
nhiều nhất trong việc tìm hiểu các kiến thức GDGT, SKSS (chỉ lựa chọn 1 phương án)
A. Nhóm bạn bè (qua trao đổi, giao tiếp…). B. Phương tiện truyền thông đại chúng


(sách, báo, Internet…). 30 C. Gia đình. D. Thầy cô và nhà trường. E. Các hình thức
khác

(

xin

ghi

rõ):

…………………………………………………………………………………………..
5. Theo bạn, như thế nào là quan hệ tình dục an toàn (QHTD) ?( có thể chọn nhiều đáp
án) A. Không mang thai ngoài ý muốn. B. Không lây truyền các bệnh qua đường tình
dục (HIV/AIDS, lậu, giang mai…). C. Không có sự cưỡng bức, ép buộc trong QHTD.
6. Theo bạn, HIV/AIDS có thể lây từ người này sang người khác qua con đường nào
sau đây?( có thể chọn nhiều đáp án). A. QHTD không an toàn. B. Đường máu. C. Ôm
hôn, bắt tay, dùng chung bát đĩa… D. Từ mẹ sang con. D. Muỗi đốt. 7. Hiện tại, bạn có
đang tham gia vào các chương trình GDGT, chăm sóc SKSS của nhà trường ( CLB, tổ,
đội, nhóm) hay các tổ chức khác không ? A. Có. B. Không (chuyển sang câu 10). 8. Lí
do nào khiến bạn tham gia vào các chương trình GDGT, SKSS của nhà trường? (có thể
chọn nhiều phương án). A. Do nhu cầu bản thân thấy cần thiết nên muốn tìm hiểu kiến
thức đó. B. Do được thỏa mãn trí tò mò của bản thân về kiến thức. C. Tham gia để vui
chơi,


kết

bạn.

D.



do

khác

(xin

ghi

rõ):

……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
… 9. Mức độ tham gia của bạn vào các chương trình GDGT, SKSS ở trên như thế nào?
A. Thường xuyên. B. Thỉnh thoảng. C. Không bao giờ. 10. Theo bạn, GDGT và SKSS
có thực sự cần thiết trở thành 1 môn học chính thức trong các cấp học của hệ thống
giáo dục nước ta không? A. Cần thiết. B. Không cần thiết. Cảm ơn bạn đã trả lời tất cả
các câu hỏi trên. Chúng tôi xin cam kết với bạn rằng: mọi thông tin của phiếu trưng cầu
ý kiến này chỉ dành cho mục đích nghiên cứu khoa học và đảm bảo tính khuyết danh
cho người trả lời! 31 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 1 ( Trường hợp nam sinh viên
trường ĐHKHXH&NV) Hỏi: Bạn là sinh viên năm mấy? Đáp: Em là sinh viên năm
thứ nhất trường ĐHKHXH&NV Hỏi: Em học ở khoa nào? Đáp: Em học khoa du lịch



Hỏi: Trước đây em có nghe đến những nội dung kiến thức về sức khỏe sinh sản, giáo
dục giới tính hay không? Đáp: Có ạ Hỏi: Những khái niệm mà em nghe được như thế
nào? Đáp: Qua quá trình tìm hiểu em biết các biện pháp phòng tránh các bệnh lây
nhiễm qua đường tình dục, các biện pháp tránh thai Hỏi: Những kiến thức mà em được
biết không có nhiều đúng không? Đáp: Vâng ạ Hỏi: Những kiến thức ấy em có cảm
thấy phù hợp với bản thân mình hay không? Đáp:Em nghĩ là nó phù hợp Hỏi: Thế tại
sao nó phù hợp nhỉ? Đáp: Cơ bản lúc ấy em cũng cảm thấy biết rồi. Em nghĩ lúc ấy em
cần biết nên nó phù hợp, đơn giản thế thôi Hỏi: Em có nghĩ rằng những kiến thức về
SKSS là những kiến thức ai cũng cần phải biết không? Đáp: Vâng ạ 32 Hỏi: Theo em
nếu nó cần thiết như thế thì nó có liên quan gì đến nhu cầu của mình không, ví dụ như
là: Mình muốn biết rất nhiều trong khi những phương tiện như môi trường gia đình,
nhà trường, sách báo không có nhiều thì mình có cho rằng nhu cầu tìm hiểu ấy không
được đáp ứng hay không? Đáp: Có mà. Thường thì nhiều vấn đề tế nhị khi mà hỏi các
bậc phụ huynh thì đa số thường lơ đi Hỏi: Bạn có hay trao đổi với bạn bè về những vấn
đề này không? Đáp: Thi thoảng Hỏi: Thời gian các bạn trao đổi thường kéo dài bao lâu
Đáp: Trong một lúc thôi Hỏi: Trước kia bạn hay nghe qua những phương tiện nào?
Đáp: Trước kia em nghe qua thầy cô, nhà trường cũng dạy. Nhưng tại vấn đề nhạy cảm
nên cũng không hiệu quả. Hầu hết bọn em tự tìm hiểu trên mạng, còn ở gia đình cũng
ít thôi Hỏi: Theo bạn phương tiện nào ảnh hưởng nhiều nhất tới bạn trong việc tiếp thu
những vấn đề ấy? Đáp: Em nghĩ là trên mạng Hỏi: Trường nhân văn có một câu lạc bộ
hoạt động về lĩnh vực này, bạn có sẵn sàng tham gia không? Đáp: Có ạ Hỏi:Bạn đánh
giá như thế nào về nhận thức chung của sinh viên về vấn đề này? Đáp: Em thấy tất cả
đều lấy từ kinh nghiệm bản thân mà chia sẻ cho nhau, nó mang tính chất chủ quan và
không mang tính khách quan chút nào. Nếu mà để nói là đáp ứng một 33 cách đầy đủ
thì em nghĩ là có câu lạc bộ nào mà nó tư vấn một cách đầy đủ và trực tiếp mà mọi
người không phải đưa ý kiến chủ quan của mình và họ được đưa câu hỏi một cách
thẳng thắn thì nó sẽ đáp ứng một cách đầy đủ. Thứ hai là vì trên mạng những kiến thức



chưa chắc đã là đúng Hỏi: Vâng cảm ơn những ý kiến đóng góp của bạn cho đề tài này
của nhóm mình. Cảm ơn bạn rất nhiều!!! BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
( Trường hợp nam sinh viên trường ĐHKHXH&NV) Hỏi: Chào bạn, mình là sinh viên
lớp k55 Xã hội học nhóm mình đang thực hiện nghiên cứu về nhu cầu và nhận thức của
sinh viên về giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản. Bạn có thể giới thiệu qua về mình
được không? Đáp: Mình là sinh viên năm thứ hai, trường ĐH KHXH và NV Hỏi: Bạn
đã từng bao giờ nghe tới các khái niệm như là giáo dục giới tính, các biện pháp tránh
thai an toàn như bao cao su hoặc là những khái niệm có liên quan tới sức khỏe sinh sản
hay chưa? Đáp: Nói chung là từ cấp 3, thầy cô giảng dạy thì mình cũng có được biết,
bây giờ là sinh viên năm thứ 2 thì mình cũng bắt được vài phần về kiến thức sức khỏe
sinh sản và giới tính. Hỏi: Bạn hiểu như thế nào về quan hệ tình dục an toàn hay
không? Đáp: ừ, mình hiểu! Hỏi: QHTD an toàn nó bao gồm những yếu tố như thế nào?
Đáp: Nói chung là QHTD an toàn nghĩa là không mang thai ngoài ý muốn, không mắc
các bệnh lây truyền qua đường TD 34 Hỏi: Theo có thêm các yếu tố nữa là bạo lực
trong QHTD hay không? Đáp: có Hỏi: Trước đây bạn đã từng nghe rất nhiều khái niệm
như thế thì bạn nghe qua những phương tiện nào? Đáp: Mình hiểu qua báo là
nhiều,trên mạng và qua một số bạn bè Hỏi: Những kiến thức như vậy có giúp ích cho
bạn trong cuộc sống hay không? Đáp: Có, mình nghĩ đó là những kiến thức mọi người
cần biết để có thể phòng tránh được. Trước hết nó chỉ là những câu chuyện vui thôi,
nhưng thực ra cũng hay mà. Hỏi: Bạn có biết ở trường mình có câu lạc bộ hoặc nhóm
nào hoạt động về lĩnh vực này hay không? Đáp: Không, mình không biết Hỏi: Nếu có
một câu lạc bộ hoặc nhóm nào hoạt động vè lĩnh vực này thì bạn có sẵn sàng tham gia
để trở thành một thành viên trong đó đi tuyên truyền những kiến thức này cho người
khác hay không? Đáp: Nếu có mình sẵn sàng tham gia cả hai tay Hỏi: Rất cảm ơn bạn
về cuộc phỏng vấn này 35 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3 (Trường hợp phỏng
vấn nữ sinh viên trường ĐHKHXH&NV) Hỏi: Chào bạn mình là sinh viên lớp k55 Xã
hội học, chúng mình có thực hiện một nghiên cứu nhận thức và nhu cầu của sinh viên



về giáo dục giới tính rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn. Đáp: Vâng Hỏi:
Trước hết bạn có thể giới thiệu sơ qua về mình được không? Đáp: Vâng. Em tên là Vân
học k56 Báo chí ạ Hỏi: Trước đây bạn đã từng nghe tới khái niệm về giáo dục giới tính
và SKSS hay chưa? Đáp: Có, em đã nghe qua từ hồi cấp 2 Hỏi: Hồi đó bạn có được
tiếp xúc với nhiều tài liệu về những kiến thức đó hay không? Đáp: Hồi cấp 2 bọn em
mới chỉ được giới thiệu sơ qua về những kiến thức căn bản chứ chưa chuyên sâu về
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản Hỏi: Khi đó thì nhà trường hay gia đình cung cấp
những thông tin về vấn đề đó nhiều hơn? Đáp: Chủ yếu là nhà trường ở cấp 2 Hỏi: Bố
mẹ không hay nói chuyện về vấn đề GDGT hay chăm sóc SKSS phải không? Đáp:
Vâng Hỏi: Hiện nay lên đại học bạn có cảm thấy nhữg kiến thức về GDGT và SKSS
cần thiết đối với bản thân mình hay không? Đáp: Có ạ, sinh viên thì sống xa nhà
thường hay có quan hệ sống thử nên việc GDGT và chăm sóc SKSS là vô cùng cần
thiết 36 Hỏi: Theo bạn thì vì sao nó lại cần thiết? Đáp: Đứng trên lập trường là con gái
tất nhiên là phải giữ gìn bản thân để không bị vấp phải những cái ngoài ý muốn như là
mang thai ngoài ý muốn hay lây truyền các bệnh tình dục Hỏi: Mình xin hỏi bạn nhận
thức như thế nào về quan hệ tình dục an toàn? Đáp: QHTD an toàn là dùng bao cao su
khi quan hệ tình dục, hình như có mỗi thế Hỏi: Đó cũng là một trong những yếu tố về
QHTD an toàn, theo mình trong cuộc sống hiện đại ngày nay chuyện cưỡng bức , hiếp
dâm cũng xảy ra rất là nhiều đó cũng là một trong những kiểu tình dục không an
toàn,theo bạn ý kiến của mình có đúng không? Đáp: Dạ vâng, đó cũng có thể là một
phần. Theo em thì cưỡng đoạt nếu vẫn sử dụng bao cao su thì đó là QHTD an toàn Hỏi:
Hiện nay bạn có thường xuyên tiếp xúc với các kiến thức về GDGT và chăm sóc SKSS
hay không? Đáp: Em cũng chỉ thỉnh thoảng đọc hoặc xem ở trên mạng hoặc trên
facebook Hỏi: Đó là những kiến thức chuyên sâu hay chỉsơ qua Đáp: Thực ra đó là
những câu chuyện mà bạn bè chia sẻ trên mạng Hỏi: Bạn có biết ở trường mình có câu
lạc bộ, tổ đội, nhóm hoạt động về lĩnh vực này hay không? Đáp: Em có Hỏi: Vậy bạn
có sẵn sàng tham gia hay không? Đáp: Tất nhiên là có vì mình có thể chia sẻ kiến thức


với những thành viên khác. Hỏi: Hiện nay sinh viên được học và tiếp xúc với rất nhiều

phương tiện khác nhau. Theo bạn những kiến thức về GDGT phổ biến ở trên phương
tiện thông tin nào nhất? 37 Đáp: Theo em nếu muốn sinh viên tiếp cận nhiều thì chủ
yếu là trên internet nhưng thật ra nên mở những lớp đào tạo ví dụ như là: Kiến thức về
SKSS ví dụ như trường mình có câu lạc bộ SKSS họ có tổ chức các buổi tuyên truyền
về bao cao su thì phải. Như thế cũng là một cách hay. Hỏi: Khi nói chuyện về các vấn
đề GDGT và SKSS thì cảm giác của ban thế nào? Thích thú, ngại ngùng hay là lo sợ
bạn bè chê cười? Đáp: Không, tất nhiên cái đó sau này ai cũng phải biết. Em đã là một
sinh viên năm thứ 2 nên chuyện đó cũng là bình thường. Hỏi: Mình rất cảm ơn bạn về
cuộc phỏng vấn này. Mọi thông tin của bạn sẽ chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Cảm ơn bạn rất nhiều ! BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4 ( Trường hợp phỏng vấn
nữ sinh viên trường ĐHKHXH&NV) Hỏi: Chào bạn mình là sinh viên lớp k55 Xã hội
học, chúng mình có thực hiện một nghiên cứu nhận thức và nhu cầu của sinh viên về
giáo dục giới tính rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn. Đáp: Vâng Hỏi: Bạn
có thể dành cho mình 1 đến 2 phút để ghi âm cuộc nói chuyện giữa bạn và mình về vấn
đề này được không? Đáp: Em rất sẵn lòng Hỏi: Đầu tiên em có thể giới thiệu sơ qua về
bản thân mình được không? Đáp: Em là sinh viên năm 2 khoa Nhân học trường
ĐHKHXH&NV 38 Hỏi: Hiện tại bạn có đang được nghe đến các kiến thức có liên
quan đến SKSS, GDGT hay không? Đáp: Có. Ở xóm trọ của em có một chị học Đại
học Y, nên mấy chị em cũng thường xuyên đề cập đến vấn đề này. Lúc về quê em cũng
được nghe tuyên truyền trên loa phát thanh của xã Hỏi: Thế cảm giác của em khi nghe
những kiến thức đó như thế nào? Đáp: Em thực sự thấy tò mò và muốn tìm hiểu sâu
hơn nữa những nội dung của kiến thức liên quan giới tính và sức khỏe sinh sản . Hỏi:
Thế sau đó, bản thân bạn có tự tìm hiểu các kiến thức đó không? Đáp: Em không tự
giác đi tìm hiểu, vì nó cứ kiểu gì ấy anh ạ, thú vị thì thú vị thật đấy những nó cứ thế
nào ấy! (cười) Hỏi: Thế em có cảm thấy các kiến thức trên bổ ích cho cuộc sống của
em và cuộc sống tương lai sau này không? Đáp: À, vâng, em cảm thấy nó rất tế nhị và


nhạy cảm nên… (cười nhẹ). Hỏi: Vì bạn cảm thấy đây là vấn đề rất tế nhị nên những
người bạn gái của bạn có thường hay nói với nhau về chuyện này không? Đáp: Vì là

chuyện riêng nên nhiều lúc các bạn của em và em cũng ngồi cùng với nhau đế nói
chuyện rõ ràng hơn. Hỏi: Thế những cuộc trò chuyện như thế kéo dài bao lâu? Đáp:
Thường thì chúng em nói chuyện rất nhiều và em cảm thấy rất hay, rất vui vẻ. Hỏi: Thế
tại sao bạn lại không lựa chọn các hình thức tiếp xúc với kiến thức trên qua việc chủ
động lên mạng tìm hiểu hay tìm các tài liệu ở trong các CLB chuyên về lĩnh vực này ở
trong trường? 39 Đáp: Do hoàn cảnh của em không có nhiều thời gian rảnh nên việc
tham gia các CLB hay việc tìm tài liệu em cũng không mấy quan tâm. Hỏi: Nếu sắp
xếp được thời gian để tìm hiểu thông tin và tham gia các CLB thì bạn có sẵn sàng
không? Đáp: Em sẵn sàng anh ạ. Cảm ơn bạn về cuộc nói chuyện này. Mọi thông tin
mà bạn vừa trao đổi rất có giá trị với đề tài nghiên cứu của nhóm chúng tôi. Cảm ơn
bạn lần nữa về những thông tin ấy HẾT 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Khuất Thu Hồng (1999), “Báo cáo kết quả cuộc khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và
SKSS tuổi VTN”. 2. Trần Thị Trung Chiến và cộng sự, “ Khảo sát đánh giá về kiến
thức, thái độ và thực hành của Thanh niên Hải Phòng với các vấn đề liên quan đến
SKSS”. 3. Nguyễn Thanh Vân, Luận văn Thạc Sỹ Xã hội học (2008), đề tài nghiên
cứu: “Hành vi tình dục và kiến thức tình dục an toàn của học sinh THPT trên địa bàn
Hà Nội hiện nay” 4. Nguyễn Thành Công (1997), “ Giáo dục giới tính cho thanh thiểu
niên”, NXB Trẻ. 5. Ngọc Duyệt (1998), “Giáo dục giới tính cho vị thành niên- nhìn từ
một điểm trường”. 6. Trần Anh Ngân (2008), “tìm hiểu nhận thức về giáo dục giới tính
tại cấp trung học cơ sở ở khu vực nông thôn”. 7. Lê Ngọc Hùng (2002), “ Lịch sử và lý
thuyết xã hội học”, Nxb Đại học Quốc gia hà Nội. 8. Nhóm dịch giả: Bùi Thế Cường,
Trịnh Huy Hóa, Đặng Thị Việt Phương (2010), từ điển xã hội học Oxford, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội. 41 Bảng phân công và đánh giá công việc của các thành viên
nhóm 8. Stt Thành viên nhóm Phân công công việc Chấm điểm 1 Phạm Thị Liên
(Nhóm Trưởng) Tìm tài liệu, phân tích số liệu 10 2 Trần Duy Anh Thiết kế bảng hỏi,


thu thập thông tin 9,5 3 Bùi Thị Thìn Thiết kế slide, chỉnh sửa Word 10 4 Lò Quỳnh
Nhung Thiết kế bảng hỏi, thu thập thông tin 9,5 5 Trần Thị Huyền Thiết kế bảng hỏi,
tổng hợp thông tin 9,5 6 Trần Thị Tuyết Thư Tìm tài liệu, phân tích số liệu 10



×