Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

NIÊN LUẬN k36 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC tế TRÊN BIỂN và cơ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC tế TRÊN BIỂN THEO CƯLB năm 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.51 KB, 46 trang )

NGUY ỄN TH Ị B ĂNG TÂM_K36A KINH T Ế
_1250210257_NIÊN LU Ậ
N K36: GI Ả
I QUY Ế
T TRANH
CH ẤP QU Ố
C T Ế TRÊN BI Ể
N VÀ C ƠCH Ế GI Ả
I QUY Ế
T TRANH CH Ấ
P QU Ố
C T Ế TRÊN BI Ể
N
THEO C Ư
L B N ĂM 1982

1


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây, vấn đề Biển Đông, đặc biệt là tranh chấp về chủ
quyền đối với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (tên tiếng anh là Spartly
Islands) giữa các quốc gia ven Biển Đông ngày càng căng thẳng, gây nhiều lo
ngại không chỉ trong khu vực mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng


quốc tế. Việt Nam với đường bờ biển dài hơn 3000km, mọi hoạt động kinh tế,
hàng hải,quân sự, du lịch biển đều diễn ra trên Biển Đông. Hơn nữa với vị trí
chiến lược và nguồn tài nguyên phong phú, Biển Đông đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với an ninh quốc phòng củng như nền kinh tế của Việt Nam.
Các quốc gia ven biển khác như Trung Quốc, Philippin, Malaisia, Indonesia
củng đều hiểu rằng, giành được quyền kiểm soát trên Biển Đông cũng có
nghĩa là giành được ưu thế rất lớn cả về kinh tế và chính trị trong hiện tại và
cả tương lai.
Tranh chấp trên biển nói chung và Biển Đông nói riêng bắt đầu từ giữa
thế kỷ XX và cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều hi vọng để giải
quyết. Bởi vậy, đây đã trở thành đề tài của giới nghiên cứu cũng như chính trị
khai thác.
Vì những lý do đó mà em chọn đề tài “ Tranh chấp quốc tế trên biển và
cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế trên biển theo CƯLB năm 1982 ”làm đề
tài niên luận.
Nội dung đề tài niên luận tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
tranh chấp quốc tế. Cụ thể niên luận đưa ra khái niệm “cơ chế” khái niệm
“tranh chấp quốc tế”. Và khái niệm của một số biện pháp giải quyết tranh
chấp phổ biến trong thực tiễn quốc tế hiện nay như: Đàm phán, trung gian,
hòa giải, hỗ trợ, trọng tài và tòa án. Nêu và phân tích một số điểm cơ bản về
cơ chế giải quyết tranh chấp; phạm vi giải quyết tranh chấp, các cơ quan giải
quyết tranh chấp và trình tự giải quyết tranh chấp theo quy định của
UNCLOS.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

3


Nội dung tiếp theo, niên luận phân tích cơ chế giải quyết tranh chấp của
Tòa án Luật biển quốc tế, gọi tắt là ITLOS, dưới góc độ là một biện pháp giải
quyết tranh chấp khá hiệu quả và phù hợp với tranh chấp trên Biển Đông.
Phần cuối, niên luận phân tích, đánh giá thực trạng tranh chấp trên Biển
Đông hiện nay. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Việt Nam và từ đó đưa ra
nhận định về khả năng giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo CƯLB năm
1982. Từ những phân tích đó, niên luận đánh giá khả năng tranh chấp trên
Biển Đông theo UNCLOS là có nhưng còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh đó,
niên luận cũng đưa ra một số biện pháp về Biển Đông đối với Việt Nam hiện
nay, trong đó bên cạnh biện pháp ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt chúng ta cần
phải sử dụng nhiều hơn nữa công cụ pháp lý để sớm giải quyết được tình hình
Biển Đông đang căng thẳng như hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài là “ Tranh chấp quốc tế trên biển và cơ chế giải quyết tranh
chấp quốc tế trên biển theo CƯLB năm 1982 ”. Niên luận tập trung nghiên
cứu các qui định của pháp luật về biển, các luật và văn bản dưới luật. Đồng
thời tìm hiểu các hiệp định, công ước mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Cụ
thể, quan trọng nhất là công ước luật biển năm 1982 mà Việt Nam là thành
viên. Qua việc nghiên cứu những quy định trong các luật và văn bản luật dưới
này từ đó tìm ra sự hình thành và phát triển của các qui định pháp luật về giải
quyết tranh chấp trên biển qua các giai đoạn, những khó khăn vướng mắc
trong trong thực tiễn thực hiện các quy định này. Thông qua đó nêu lên kiến
nghị và phương hướng hoàn thiện các quy định về vấn đề giải quyết tranh
chấp trên biển hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của niên luận chủ yếu tập trung vào các quy định
của pháp luật quốc tế về biển. Cơ chế giải quyết tranh chấp về biển theo các
hiệp định mà nước ta đã tham gia ký kết. Trong đó, phân tích rõ các biện pháp



NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

4

giải quyết tranh chấp như: Bằng tòa án quốc tế, tòa án biển quốc tế và trọng
tài quốc tế. Và thực tiễn áp dụng các quy định này tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về biển và cơ
chế giải quyết tranh chấp trên biển, giúp chúng ta nắm rõ hơn các quy định
của pháp luật hiện hành về biển hiện nay, dựa trên thực tiễn hoạt động từ đó
rút ra được những bất cập, những điểm hạn chế trong các quy định về của
pháp luật về biển, …, tìm ra nguyên nhân, kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hơn
cho khung pháp lý về biển cũng như cơ chế và hướng giải quyết tranh chấp
trên biển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu quan điểm và quy định pháp luật của các nước về
Biển Đông.
Thứ hai, phân tích cơ sở lí luận và các quy định của pháp luật hiện hành
về biển và cơ chế giải quyết tranh chấp khi xảy ra.
Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật quốc
tế để giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Cuối cùng, tổng hợp, phân tích các nguồn tài liệu đó để có cái nhìn tổng
quát hơn quy định của pháp luật hiện hành, tìm ra những điểm tiến bộ của các
quy định này, những vướng mắc trong các quy định pháp luật khi áp dụng vào
thực tiễn. Nêu ra được nguyên nhân và đề xuất giải pháp cho vấn đề nóng

bỏng này.
4. Cơ cấu của đề tài
Đề tài này ngoài những phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo thì phần nội dung gồm có 2 chương:
Chương 1: Tranh chấp quốc tế về biển và cơ chế giải quyết tranh chấp
theo CƯLB năm 1982.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

5

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TRANH CHẤP QUỐC TẾ VỀ BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN THEO CƯLB NĂM 1982
1. Cơ sở lý luận chung về tranh chấp quốc tế trên biển.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp về biển.
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về tranh chấp quốc tế trong
các văn bản pháp lý
Theo quan niệm của Pháp viện thường trực quốc tế - cơ quan giải quyết
tranh chấp của hội quốc liên ( tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc ): tranh
chấp là sự bất đồng về một hay nhiều quy phạm pháp luật hoặc sự kiện nào đó
của những chủ thể nhất định khi một trong các bên đòi đưa ra yêu sách, đòi
hỏi đối với bên kia nhưng bên kia không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một
phần.
Căn cứ vào thực tế, có thể hiểu theo cách chung nhất, tranh chấp quốc tế
là hoàn cảnh thực tế mà trong đó, các chủ thể tham gia có những quan điểm

trái ngược nhau hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu hay đòi hỏi trái
ngược nhau.
Đó là sự không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa
đến sự mâu thuẫn, bất đồng nhau về quan điểm pháp lý hoặc chủ quyền giữa
các bên chủ thể luật quốc tế với nhau.
Trên nhiều phương diện lý thuyết, tranh chấp quốc tế có nhiều đặc điểm
khác nhau. Mỗi hướng nhìn nhận lại có những tiêu chí riêng để đánh giá, cụ
thể:
- Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia vào tranh chấp quốc tế có tranh
chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên. Trong tranh chấp nhiều bên lại có tranh
chấp có tính khu vực và tranh chấp có tính toàn cầu.
- Căn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp có tính chất chính trị và tranh
chấp có tính chất pháp lý. Tranh chấp có yếu tố chính trị có nhiều dạng và
thường là những tranh chấp về chủ quyền quốc gia đói với dân cư, lãnh


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

6

thỗ,...liên quan đến các đòi hỏi phải thay đổi các quy định hiện hành gắn liền
với quyền và nghĩa vụ của các bên. Tranh chấp thuộc loại này thường rất
nguy hiểm do tính chất phức tạp và có thể tiềm ẩn khả năng bùng nổ các cuộc
xung đột đe dọa hòa bình, ổn định của khu vực cũng như trên thế giới. Tranh
chấp có tính pháp lý là tranh chấp giữa các bên có liên quan đến sự bất đồng
trong việc giải thích hoặc áp dụng các quy định hiện hành như những tranh
chấp về giải thích và thực hiện điều ước quốc tế, về các sự kiện vi phạm nghĩa
vụ quốc tế....Đây là những tranh chấp có tính phổ biến trong quan hệ quốc tế.

- Căn cứ vào đối tượng tranh chấp thì có tranh chấp về kinh tế, tranh
chấp về lãnh thổ...
Nhìn chung, cách nhìn nhận trên chỉ có tính tương đối. Vì trong thực tế
có nhiều vụ tranh chấp bao gồm cả hai vấn đề pháp lý và chính trị.
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo CƯLB năm 1982.
2.1. Tòa án quốc tế.
Tòa án quốc tế hay còn gọi là tòa án công lý Quốc tế (tiếng Anh:
Internation court of justice – ICJ) là một phân ban trưc thuộc Liên Hiệp Quốc,
được thành lập vào năm 1945 với tiền thân là Tòa án thường trực công lý
quốc tế có từ năm 1922. Tòa bắt đầu chính thức nhận hồ sơ, thụ lý và giải
quyết tranh chấp các vấn đề giũa các quốc gia thành viên có liên quan, cũng
như làm công tác cố vấn pháp luật cho Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và Hội
đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như các ủy ban khác trực thuộc Liên Hiệp
Quốc như đã ghi rõ trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc từ năm 1946. Hiện tại
trụ sở đang đóng tại thành phố Den Haag, Hà Lan.
Vấn đề cơ cấu tổ chức ICJ được điều chỉnh bởi các Điều 2 – 33 của Quy
chế TAQT (Statute of the Court) và Điều 1 – 18, 32 – 37 Luật của Tòa (Rules
of the Court). Theo đó, ICJ sẽ có Chủ tịch (President), Phó Chủ tịch (Vice –
president), Toàn thể Tòa (Full Court), ban xét xử (Chambers), Registrar và
Registry. Chủ tịch và Phó Chủ tịch của ICJ được bầu chọn mỗi 3 năm và có
thể tái nhiệm ở lần bầu cử tiếp theo. Toàn thể tòa gồm một hội đồng thẩm


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

7

phán độc lập với 15 thành viên, trong đó không thể có 2 thành viên có

cùng quốc tịch. Những thành viên được chọn sẽ trở thành đại diện cho hệ
thống pháp luật thế giới. Việc lựa chọn các thành viên không căn cứ vào
quốc tịch hay khu vực. Tuy nhiên, trên thực tế, những năm gần đây hội
đồng thẩm phán thường bao gồm: 5 thẩm phán đại diện cho mỗi quốc gia
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an, 3 thẩm phán của Châu Á, 3 thẩm
phán của Châu Phi, 2 thẩm phán của Mỹ Latin, 1 của Tây Âu, và 1 của Đông
Âu.
Để bảo đảm tính công bằng trong xét xử, Quy chế của ICJ có quy định
về việc: nếu một bên tham gia tranh tụng có thẩm phán của quốc gia mình
là thành viên của bench thì bên kia có quyền chọn thêm một thẩm phán ad hoc. Trường hợp cả hai bên tranh tụng không có thẩm phán của quốc gia
mình thì mỗi bên sẽ được chọn thêm một thẩm phán ad - hoc cho mình.
Thẩm phán ad-hoc tốt nhất nên chọn một trong những thẩm phán có tên
trong danh sách ứng cử thành viên của ICJ. Các thẩm phán ad - hoc trong
quá trình xét xử có quyền và nghĩa vụ như thẩm phán thành viên của ICJ .
Hội đồng xét xử gồm có 15 thẩm phán được bổ nhiệm bởi Đại Hội đồng
LHQ và Hội đồng Bảo an LHQ dựa trên danh sách tiến cử bởi Permanent
Court of Arbitration. Nhiệm kỳ của tòa là 9 năm, không hạn chế việc tái đắc
cử miễn là đảm bảo quy tắc không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một
phần ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong 5 thành viên thường trực của
Hội đồng Bảo an LHQ, mỗi nước luôn có một thẩm phán đại diện trong tòa.
Vấn đề được quyết định theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, và mọi
phán quyết được đưa ra là phán quyết cuối cùng, không phải phúc thẩm.
Chánh án hiện tại (2009) là thẩm phán Hisashi Owada của Nhật Bản.
Về thẩm quyền tài phán: ngoài thẩm quyền xét xử, ICJ còn có thẩm
quyền tư vấn theo yêu cầu của các cơ quan chính của Liên hợp quốc và các


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982


8

tổ chức chuyên môn được Đại hội đồng cho phép. Thẩm quyền này được
quy định tại điều 96 Hiến chương LHQ:
1. Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể yêu cầu Tòa án quốc tế cho
ý kiến tư vấn về mọi vấn đề pháp lý.
2. Các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn, mà
lúc nào cũng được Đại hội đồng cho phép, cũng có quyền hỏi ý kiến tư vấn
của Tòa án quốc tế về những vấn đề pháp lý có thể đặt ra trong hoạt động
của mình.
Mặc dù chỉ mang tính chất tham khảo và không có tính ràng buộc,
những ý kiến tư vấn của ICJ có uy tín cũng như giá trị pháp lý rất lớn.
Chúng góp phần phát triển luật pháp quốc tế và thúc đẩy quan hệ hòa bình
giữa các quốc gia. Ngoài ra, Tòa còn có các dạng thẩm quyền khác (liên
quan đến các vấn đề có tính tạm thời và hỗn hợp) như: thẩm quyền của Tòa
đối với một tranh chấp liên quan đến chính thẩm quyền của Tòa đối với vụ
việc; thẩm quyền của Tòa trong việc kiểm soát trình tự xét xử; thẩm quyền
của Tòa đối với các biện pháp bảo hộ tạm thời; và việc chấm dứt các vụ
tranh chấp…
Về luật áp dụng: những vụ việc được đưa ra ICJ được giải quyết theo
luật quốc tế. Luật được áp dụng tại Tòa được quy định tại điều 38(1) Quy
chế TAQT (Statute of International Court of Justice). Theo đó, luật áp dụng
gồm:
Các công ước quốc tế chung hoặc khu vực đã quy định về những
nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa nhận.
Các tập quán quốc tế với tính chất là những chứng cứ thực tiễn chung
được thừa nhận như những qui phạm pháp luật.
Các nguyên tắc đã được hình thành từ lâu đời được các quốc gia văn
minh thừa nhận.



NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

9

Các nghị quyết xét xử (mang tính chất án lệ quốc tế) và các học thuyết
của các chuyên gia có uy tín về luật pháp quốc tế của các nước khác nhau
cũng có thể được coi là nguồn bổ trợ để xác định các qui phạm pháp luật
phục vụ cho công tác xét xử của Tòa án quốc tế.
Điều 38(2) đảm bảo quyền quyết định một vụ việc của Tòa, đảm
bảo tính công bằng, nếu các bên đồng ý: "điều khoản này sẽ không phương
hại tới thẩm quyền của Tòa trong việc đưa ra phán quyết cho vụ việc theo
nguyên tắc en aequo et bono, nếu như các bên chấp thuận". Tòa có thể dựa
vào điều 38(1) để xét xử vụ việc theo các quy định của luật được áp dụng.
Mặt khác, Tòa cũng có thể dựa vào điều 38(2) để đưa ra một bản án đảm
bảo tính công bằng và có thể chấp nhận được đối với cả hai bên.
Về thủ tục xét xử: các phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế chỉ
mang ý nghĩa chính trị hơn là có hiệu lực thi hành, và mọi việc đều tùy
thuộc vào thiện chí của các nước. Theo lý thuyết, nếu một bên từ chối thi
hành phán quyết của tòa, vấn đề có thể được chuyển lên cho Hội đồng Bảo
an LHQ xử lý, nhưng việc này thường lâm vào bế tắc vì năm thành viên
thường trực thường xuyên sử dụng quyền phủ quyết. Trong năm 2004 tòa
đưa ra một phán quyết đầy tranh cãi bằng việc lên án hàng rào an
ninh của Israel, kết tội hành động của Israel là vi phạm luật pháp quốc tế và
phải dỡ bỏ hàng rào này ngay lập tức, cũng như bồi hoàn chi phí thiệt hại
cho người Palestine. Israel phản đối quyết liệt quyết định trên và lờ đi, vẫn
tiếp tục xây dựng và củng cố hàng rào an ninh. Và Israel không phải là

nước đầu tiên phớt lờ quyết định của tòa, Argentina vào năm 1977 và Hoa
Kỳ vào năm 1984 cũng có các quyết định tương tự.
2.1.1 Ưu điểm
Tòa án quốc tế ICJ đã và đang hoạt động với vai trò là một tòa án
thường trực và là cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc, chính vì vậy mâu thuẫn
giữa các quốc gia là thành viên của Liên Hiệp Quốc đương nhiên sẽ có


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

10

quyền được đưa những tranh chấp của mình ra ICJ đẻ giải quyết. ICJ có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia hoặc đưa
ra những kết luận tư vấn về nặt pháp lý mà Đại hội đồng, Hội đồng bảo an
củng như các cơ quan khác của Liên Hiệp Quốc yêu cầu. Các phán quyết của
tòa án thể hiện tính khách quan, nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo hòa
bình an ninh trên thế giới. Và tòa án quốc tế cũng mang nhiều ưu điểm
khác như:
- Phán quyết của Tòa án được bảo đảm thi hành
- Việc xét xử phải tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng.
- Xét xử công khai
- Nhiều cấp xét xử
- Xét xử tập thể và theo đa số.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN

THEO CƯLB NĂM 1982

11

2.1.2 Nhược điểm
Đối với giải quyết tranh chấp bằng tòa án quốc tế có một vài điểm hạn
chế. Thứ nhất, thời gian giải quyết một vụ tranh chấp thường kéo dài. Thứ
hai, quy trình tố tụng cứng nhắc, tính chủ động của các quốc gia tại tòa lại
không cao. Mặt khác, tòa án lại xét xử công khai nên không đảm bảo được
những bí mật khi tranh chấp đặc biệt là bên thua kiện. Chính vì vậy thực tiễn
không có nhiều các vụ tranh chấp giữa các quốc gia được giải quyết tại tòa án
quốc tế.
2.2 Trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế là một hình thức giải quyết tranh chấp lai. Nó bắt đầu
bằng sự thỏa thuận tư giữa các bên. Nó tiếp tục bắt đầu bằng các thủ tục tư,
trong đó ý chí các bên có ý nghĩa vô cùng đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, nó
chấm dứt hiệu lực với một phán quyết bắt buộc và dựa trên những điều kiện
thích hợp, tòa án của hầu hết các quốc gia xét công nhận và cho thi hành.
Trọng tài quốc tế gồm các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, mang tính quốc tế. Thuật ngữ quốc tế được dùng để phân biệt
sự khác nhau giữa các vụ trọng tài thuần túy trong nước với các vụ trọng tài, ở
một phương diện nào đó, vượt qua biên giới quốc gia và được gọi là quốc tế.
- Thứ hai, thỏa thuận trọng tài, một thỏa thuận giữa các bên đưa bất kỳ
sự tranh chấp hay mâu thuẫn nào giữa họ ra trọng tài là nền tảng của trọng tài
quốc tế hiện đại. Một trọng tài có hiệu lực trước tiên phải có một thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực. Điều này được thừa nhận bởi luật quốc gia và cả các
điều ước quốc tế.
- Thứ ba, là lựa chọn trọng tài viên. Một trong những điểm cơ bản để
phân biệt trọng tài với tòa án là các bên trong tố tụng trọng tài có quyền tự do
lựa chọn hội đồng trọng tài cho mình. Mặt khác, trọng tài viên trong một vụ

trọng tài quốc tế cũng có những yêu cầu khác so với trong tài viên trong một
vụ trọng tài thuần túy trong nước. Thực vậy, nếu trọng tài gồm ba thành viên


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

12

thì mỗi trọng tài sẽ có một quốc tịch khác nhau và mỗi người trong số họ sẽ
trưởng thành từ một môi trường pháp lý khác nhau.
- Thứ tư, là quyết định của hội đồng trọng tài. Trong trọng tài quốc tế,
quyết định của hội đồng trọng tài về giải quyết tranh chấp giữa các bên sẽ có
giá trị bắt buộc đối với các bên. Và nếu các bên không tự nguyện thi hành sẽ
bị cưỡng chế thi hành. Đặc trưng này phân biệt trọng tài với các phương thức
giải quyết tranh chấp thông qua các thủ tục khác như thương lượng hay hòa
giải. Bởi thuận lợi cuối cùng trong hòa giải hay thương lượng luôn được bảo
đảm bằng sự đồng ý của cả hai bên.
- Cuối cùng, thi hành quyết định của trọng tài. Một khi hội đồng trọng tài
quốc tế đã ra phán quyết, nó đã hoàn thành chức năng của nó và chấm dứt
hoạt động. Tuy nhiên, quyết định của hội đồng trọng tài mang đến hậu quả
pháp lý quan trọng và lâu dài. Mặc dù nó là kết quả của một sự dàn xếp tư
nhưng có giá trị ràng buộc đói với các bên. Nếu nó không được thi hành một
cách tự nguyện, quyết định trọng tài sẽ được thực hiện thông qua các thủ tục
pháp lý trên cả bình diện địa phương lẫn bình diện quốc tế.
2.2.1 Ưu điểm của trọng tài quốc tế
So với phương thức giải quyết bằng tòa án thì trọng tài quốc tế cũng có
những điểm mạnh riêng, cụ thể:
- Thứ nhất, nếu như ở trung gian hòa giải, người thứ ba ở đây có thể là

bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào được các bên lựa chọn làm người trung
gian, pháp luật không có bất kỳ tiêu chuẩn nào bắt buộc đối với người này.
Như vậy không tránh khỏi trường hợp người thứ ba không có kinh nghiệm,
năng lực để giải quyết, dẫn đến hòa giải thất bại. Đối với trọng tài viên, để
có thể trở thành trọng tài viên họ phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe
được pháp luật vè trọng tài thương mại quy định rõ ràng, Do đó họ là
những người có chuyên môn sâu và kinh nghiệm giải quyết đối với lĩnh vực
của vụ tranh chấp.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

13

- Thứ hai, tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, nghĩa
là các bên có thể lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào không phụ thuộc
vào địa chỉ của họ. Đây là ưu điểm lớn của Trọng tài quốc tế so với Tòa án,
bởi một tranh chấp muốn được giải quyết tại Tòa án thì đương sự không
được tự do lựa chon Tòa án giải quyết, thông thường sẽ là Tòa án nơi có
trụ sở của các đương sự hoặc nơi phát sinh tranh chấp. Các bên có quyền
thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp. Chỉ khi không có thỏa thuận
của các bên mới quyết định.
- Thứ ba, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế đơn
giản, không có nhiều công đoạn tố tụng. Nếu như các bên lựa chọn trọng tài
viên là người giải quyết tranh chấp thì hầu như không có quy định bắt buộc
về thủ tục tố tụng nào. Chỉ khi lựa chọn Hội đồng trọng tài hoặc Trung tâm
trọng tài, các bên mới phải tuân thủ thủ tục tố tụng trọng tài. Khi xem xét
thực tiễn hoạt động của trọng tài thương mại ở mỗi quốc gia cũng như trên

bình diện quốc tế, các nhà nghiên cứu đều nhận xét rằng quá trình giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với thủ tục
tiến hành giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Mặc dù trong một vài trường
hợp, tính nhanh chóng của thủ tục trọng tài có thể bị hạn chế và thời gian
giải quyết tranh chấp phải kéo dài thêm, nhất là khi tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định của trọng tài; tuy nhiên các bên tranh chấp vẫn đánh giá
cao ưu điểm này của trọng tài. Thủ tục giải quyết thông qua trọng tài
nhanh, gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi của các bên có liên quan.
- Thứ tư, cũng như thương lượng, hòa giải, trong Trọng tài quốc tế,
nội dung tranh chấp, danh tính và những bí mật liên quan đến các vấn đề
tranh chấp của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy. Tính bảo
mật được thể hiện ở chỗ quá trình giải quyết tranh chấp sẽ được tổ chức
dưới hình thức họp kín và quyết định giải quyết tranh chấp chỉ được thông
báo công khai khi được sự đồng ý của các bên. Quy định này làm cho các


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

14

bên, nhất là bên thua, không cảm thấy lo ngại vì kết quả giải quyết tranh
chấp có thể có tác động không tốt đến hoạt động kinh doanh của họ. Điều
đó, có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Vì tố tụng tại trọng tài quốc
tế là tự nguyện nên việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài vẫn giữ
được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không
làm mất đi quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Cần lưu ý quy định này
không mang tính tuyệt đối, nếu quá trình giải quyết tranh chấp có liên
quan đến lợi ích của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng thì quyết định giải

quyết tranh chấp của trọng tài tùy trường hợp sẽ được thông báo đến bên
thứ ba hoặc thông báo công khai.
- Thứ năm, quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực
pháp luật, như bản án của Toà án và nó được thực hiện ngay, đáp ứng yêu
cầu nhanh gọn của các bên tham gia tranh chấp. Nếu một trong các bên
không thực hiện sẽ có áp dụng biện pháp cưỡng chế để thực hiện quyết định
của trọng tài.
- Thứ sáu, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo,
nhanh chóng, linh hoạt cho các bên. Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn
phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách
thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên
thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm phương
thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu
quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể
làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh
chấp.
- Cuối cùng, việc được lựa chọn đề cao ý chỉ tự do thoả thuận của các
bên tranh chấp. Tranh chấp chỉ có thể được giải quyết tại trọng tài quốc tế
nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Tính thỏa thuận được thể hiện ở việc
các bên đương sự được tự do lựa chọn trung tâm trọng tài, thanh lập Hội


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

15

đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên và chỉ những trung tâm trọng tài,
Hội đồng trọng tài, trọng tài viên được lựa chọn đó mới có thẩm quyền giải

quyết. Trọng tài viên được lựa chọn phải là người vô tư, khách quan và
không có lợi ích liên quan đến tranh chấp, vì vậy một số trung tâm trọng tài
còn yêu cầu trọng tài viên phải cam kết bằng văn bản rằng họ đang và sẽ
dộc lập với các bên, và họ có thể phải giải trình về bất kỳ tình tiết nào mà ác
bên tranh chấp thấy nó có thể ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan đó. Cách
thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách
quan trong quá trình tố tụng. Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực
hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp, thời gian mở
phiên họp…chỉ khi các bên không có thỏa thuận thì Chủ tịch Hội đồng trọng
tài mới có quyền quyết định. Mọi vi phạm liên quan đến vấn đề này đều có
thể đãn đến quyết định của Hội đồng trọng tài sẽ bị Tòa án hủy theo yêu cầu
của các bên.
Những hạn chế của trọng tài quốc tế
Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng bên cạnh đó, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài quốc tế vẫn còn một vài điểm hạn chế như:
Thứ nhất, trọng tai chỉ xét xử một lần chung thẩm tạo nên hiệu lực cho
phán quyết trọng tài, song đồng thời hạn chế cơ hội sửa chứa nếu có sai xót
về nội dung hay không đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tranh chấp.
Thứ hai, phán quyết của trọng tài quốc tế có thể bị tuyên hủy bởi quyết
định của tòa án là một hạn chế. Vì nó hạn chế hiệu lực của phán quyết
trọng tài cũng như giảm sự tin cậy vào cơ chế giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài.
Thứ ba, trọng tài có tính chất phi chính phủ nên khi hiểu biết của một
bộ phận chưa đươc đầy đủ và toàn diện về trọng tài chưa cao thì sự tin
tưởng về khả năng, hiệu quả công việc, giá trị pháp lí của phán quyết trọng
tài…cũng còn hạn chế.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN

THEO CƯLB NĂM 1982

16

3. So sánh cơ chế giải quyết giữa tòa án và trọng tài quốc tế
3.1 Cơ chế giải quyết bằng trọng tài
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải
quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên
thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết
buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Cũng như thủ tục tố tụng tòa án, trong quá trình giải quyết các tranh
chấp kinh doanh trọng tài cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục nhất định
mà pháp luật quy định, từ việc khởi kiện, xét xử, thi hành phán quyết trọng
tài, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia,… Đây chính là thủ tục tố
trọng tài. Nói cách khác, tố tụng trọng tài được hiểu là trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định để giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài.
Tố tụng trọng tài nhìn chung có các đặc điểm cơ bản sau :
- Trọng tài quốc tế là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ chức
mang tính chất xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế
trọng tài.
- Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.
Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết
thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận.
- Tố tụng trọng tài đảm bảo cho các bên tranh chấp có quyền tự định
đoạt của mình một cách cao nhất, các bên tahm gia có quyền lựa chọn trọng
tài viên, quyền lựa chọn địa điểm giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố
tụng….
- Phán quyết của trọng tài quốc tế có giá trị chung thẩm và không thể
kháng cáo trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không
xét xử công khai, do đó ngoài nguyên đơn và bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các

đương sự khác khi cần thiết.
- Quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế của các quốc gia rất khác nhau,
nhưng nhìn chung quy tắc lựa chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

17

trung tâm trọng tài trên thế giới đều theo khuôn mẫu của Quy tắc trọng tài
mẫu UNCITRAL.
- Trọng tài quốc tế trên thế giới chủ yếu tồn tại dưới hai dạng cơ bản :
Thứ nhất, trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad – hoc) là hình thức trọng tài
được lập ra để giải quyết những tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể
khi giải quyết xong tranh chấp đó.Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là
không có trụ sở, không có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một
quy tắc xét xử nào. Về nguyên tắc, các bên đương sự khi yều cầu trọng tài
Ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng.
Thứ hai, trọng tài thường trực (còn gọi là quy chế) là những trọng tài có
hình thức tổ chức, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động
theo điều lệ riêng. Phần lớn các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới
đều được thành lập theo mô hình này dưới các tên gọi như Trung tâm trọng
tài, Ủy ban trọng tài, Viện trọng tài, Hội đồng trọng tài quốc gia và Quốc tế.
Trọng tài thường trực có quy chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ.
Về cơ bản, các đương sự không được phép lựa chọn thủ tục tố tụng.
3.2 Cơ chế giải quyết bằng tòa án
Giải quyết tranh chấp bằng tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp
thông qua hoạt động của cơ quan tài phán để đưa ra phán quyết buộc các bên

có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình giải
quyết các tranh chấp quốc tế nói chung và về biển nói riêng, tòa án phải tuân
theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là
những nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải
quyết vụ việc tại tòa án, thi hành bản án, quyết định của tòa án; quyền và
nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, các bên tham gia tham gia tố
tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan,…
Như vậy, tố tụng tòa án trong tòa án quốc tế chính là trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định để giải quyết các tranh chấp bằng tòa án.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

18

Thực tiễn pháp luật tố tụng của các nước cho thấy, tố tụng tòa án đều có
chung một số đặc điểm cơ bản sau :
- Ở hầu hết các nước trên thế giới, thủ tục tố tụng tòa án áp dụng cho các
tranh chấp quốc tế được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một
số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như :
về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng.
- Tố tụng trong tòa án quốc tế là thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh
của Tòa án – một cơ quan tài phán, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền
lực nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và đóng vai trò là cơ quan
bảo vệ pháp luật.
- Phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của
Tòa án rất chặt chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được. Phán quyết của
tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị hoặc có thể được xem xét lại theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Trong tố tụng tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công
khai, bản án được công bố rộng rãi.
3.3 So sánh cơ chế tố tụng giữa tòa án và tố tụng trọng tài.
Tòa án và trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp quốc tế,
chúng đóng vai trò một bên trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp.
Hoạt động giải quyết tranh chấp của tòa án và trọng tài có điểm giống nhau và
có thể phân biệt với các hình thức giải quyết tranh chấp khác đó là chúng căn
cứ vào pháp luật, xem xét sự thật vụ án và độc lập ra phán quyết, phán quyết
này được đảm bảo thi hành. Vì chúng có thẩm quyền xem xét và ra phán
quyết cho nên thủ tục tố tụng của tòa án và trọng tài rất chặt chẽ và được pháp
luật quy định. Thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài đều dựa trên những
nguyên tắc chung như : tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm
bảo sự độc lập của người tài phán, … Tuy nhiên, vì đây là hai hình thức giải
quyết tranh chấp độc lập, cho nên giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài cũng
có những sự khác biệt cơ bản sau đây :


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

19

Một là về tính chất pháp lý:
Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của
mỗi loại cơ quan này. Trong quá trình tố tụng, tòa án mang trong mình sự
quyền lực để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng
và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp.
Trong khi đó, các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức

phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp. Tính phi
chính phủ của trọng tài quốc tế thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài không
do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin
phép Nhà nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài trong tranh chấp
quốc tế không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng
không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội
nghề nghiệp. Trọng tài được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh
một cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện
phù hợp yêu cầu chung của xã hội. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án
và trọng tài đã quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án
và tố tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Hai là về thẩm quyền:
Thẩm quyền theo vụ việc : dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, thực tế
cho thấy tòa án thường có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có
thẩm quyền giải quyết hầu hết tất cả các tranh chấp quốc tế. Trong khi đó,
khác với tòa án, thẩm quyền của trọng tài có thể thay đổi, hoặc thu hẹp lại tùy
theo từng trung tâm trọng tài.
Thẩm quyền theo lãnh thổ : Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp
quốc tế nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý
giải quyết khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại,
trong tố tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các
bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết
cho mình theo ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

20


bên thỏa thuận đưa ra trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có
quyền thụ lý tranh chấp. Như vậy, về thẩm quyền vụ việc thì tòa án có thẩm
quyền rộng hơn so với trọng tài, còn thẩm quyền lãnh thổ trong tố tụng trọng
tài lại không được đặt ra như đối với tòa án.
Ba là các giai đoạn tố tụng, trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử
một lần các tranh chấp quốc tế. Phán quyết của trọng tài là quyết định chung
thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên
tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa án. Nguyên tắc này xuất
phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt
của các bên tham gia tranh chấp. Các bên đã tự do lựa chọn và tín nhiệm
người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người
đó. Trong khi đó, trong tố tụng tòa án có nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm đến
phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của tòa án còn có thể được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì thủ tục tố tụng
tòa án phải thông qua nhiều giai đoạn xét xử khác nhau đã dẫn tới việc kéo
dài thời gian xét xử, đây là điều mà các bên tham gia vào tranh chấp không
mong muốn.
Bốn là điều kiện khởi kiện, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện – một
nguyên tắc cốt lõi trong tố tụng trọng tài, sự hình thành trọng tài là do ý chí tự
nguyện của các bên đương sự và trong quá trình tố tụng trọng tài đều nhân
danh ý chí tối cao của các bên tham gia vào tranh chấp. Các bên đương sự
hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên
cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, không có sự áp đặt ý chí của bất
cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chính vì vậy, đối với tố tụng trọng tài,
khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra
trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này.
Điều này có nghĩa là : sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền
khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà trong tố tụng tòa án không có.



NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

21

Năm là nguyên tắc xét xử tập thể, tố tụng trọng tài không có nguyên tắc
xét xử tập thể như trong tố tụng tòa án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài
viên để giải quyết tranh chấp cho mình là quyền của các bên tranh chấp, pháp
luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp vào vấn đề này khi các bên
không thỏa thuận được với nhau về cách thức lựa chọn trọng tài viên mà thôi.
Ví dụ, khi các bên không đạt được sự nhất trí trong việc chọn một trọng tài
viên để giải quyết tranh chấp cho mình theo quy định của pháp luật, mỗi bên
tranh chấp sẽ chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ chọn
một người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp hai
trọng tài không chọn được người thứ ba đó thì quyền quyết định thuộc về tòa
án.
Sáu là tính công khai của hoạt động tố tụng, trong tố tụng tòa án, Việc
xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của các bên
tham gia vào tranh chấp quốc tế mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo
pháp luật. Do vậy, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai, các
bản án thường được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó
khăn khi bảo vệ các thông tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài,
mọi tình tiết và kết quả đều không được công bố công khai nếu không được
sự chấp thuận của các bên. Xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ một cách nghiêm
ngặt các bí mật nghề nghiệp của các nhà kinh doanh mà pháp luật không bắt
buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải tiến hành công khai. Quyết định của
trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài ra quyết định sẽ không được
công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu. Quyết định của trọng tài chỉ

được phép công bố rộng rãi khi các bên đồng ý. Có thể nói. Nguyên tắc này
hoàn toàn đối lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án.
Bảy là tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng, tố tụng trọng tài là
một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố tụng đơn giản, thuận
tiện, đảm bảo yêu cầu giải quyết nhanh chóng của các bên tranh chấp. Ví dụ
như : trong tố tụng trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

22

tài viên mà mình tín nhiệm, tin tưởng có thể giải quyết mâu thuẫn của họ, các
bên cũng có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài mà thấy là thuận tiện,
thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng
cho vụ kiện.
Trong khi đó, tố tụng tòa án bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm
ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi thức, luật áp dụng
được coi là bất di bất dịch.
Tám là phán quyết, ở cả hai hình thức tố tụng này, việc xét xử tranh chấp
đều được kết thúc bằng việc ra bản án, quyết định của tòa án hoặc phán quyết
trọng tài quốc tế. Nhưng phán quyết của trọng tài và bản án, quyết định của
tòa án quốc tế trong nhiều trường hợp cũng có những điểm khác nhau cơ bản.
Trong tố tụng tòa án, bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực
nếu các bên tham gia tranh chấp không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi
hành án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp
luật. Trong khi đó, ở một số quốc gia, không phải lúc nào quyết định của
trọng tài cũng được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế của Nhà nước. Ở nhiều

Quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khi quyết định của trọng tài hợp
pháp mà không được bên thua kiện thi hành tự nguyện thì theo yêu cầu của
phía bên kia, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành như một phán quyết
của tòa án. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, mà ở đó sự phối hợp hoạt
động giữa tòa án và trọng tài chưa cao và chưa được pháp luật quy định, thì
việc sử dụng cơ chế tòa án phê chuẩn quyết định của trọng tài để trên cơ sở đó
mà cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài là chưa có điều kiện thực hiện.
Vì vậy, ở các quốc gia này các quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài
không được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Trong
trường hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì bên kia
có quyền đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án .
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TẠI VIỆT NAM


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

23

1. Khái quát về vùng biển Việt Nam.
Biển và đại dương được các nhà khoa học gọi là “ Lục địa xanh ”, phủ
kín 70,8% bề mặt trái đất và đang “cất giấu” những kho nguyên liệu, khoáng
vật khổng lồ dưới dạng hòa tan trong nước, lắng đọng dưới đáy và vùi kín
dưới lòng đại dương. Do có đặc thù như vậy nên nhiều vùng biển, đại dương
đang là nơi tranh chấp trên thế giới, nhất là đối với những nước lớn ở gần biển
và đại dương có sức mạnh về kinh tế và quân sự.
Biển Đông là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, với
diện tích khoảng 3,5 triệu km2 trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và

từ kinh độ 1000 đến 1210Đông. Biển Đông tiếp giáp với 9 nước là Việt Nam,
Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Bruney, Malayxia, Singapore, Thái Lan,
Camphuchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông có vị trí chiến
lược đối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và
các quốc gia khác trên thế giới.
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa
chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có.
Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong
số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số
chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ
100 km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì
28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành
ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc,
biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con
người Việt Nam.
Vùng biển nước ta: bao gồm cả vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có
diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần
30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Vùng biển nước


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

24

ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và
Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị

trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía
Đông của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng
làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa
Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên các vùng biển.
Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các
quốc gia ven biển có năm (05) vùng biển gồm: Nội thủy nằm bên trong đường
cơ sở; lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở; riêng thềm lục địa có thể
kéo dài ra tới 350 hải lý. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các
vùng biển nói trên:
(1) Nội thủy: Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất
liền, đặt dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam.
Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài
của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để làm cơ sở xác định
phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là
đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác. Có
2 loại đường cơ sở:
- Đường cơ sở thông thường: Là đường sử dụng ngấn nước thủy triều
thấp nhất ven bờ biển hoặc hải đảo.
- Đường cơ sở thẳng: Là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của
bờ biển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia
ven biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển.


NGUYỄN THỊ BĂNG TÂM_K36A KINH TẾ_1250210257_NIÊN LUẬN K36: GI ẢI QUY ẾT TRANH

CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN
THEO CƯLB NĂM 1982

25

Nước ta có chuỗi đảo chạy dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định
đường cơ sở thẳng. Năm 1982, Chính phủ nước ta ra tuyên bố xác định
đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm. Trừ
điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo.
Điểm 0 nằm trên ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử Việt Nam Campuchia. Điểm A1: Hòn Nhạn (Kiên Giang); A2: Hòn Đá Lẻ (Cà Mau); A3:
Hòn Tài Lớn; A4: Hòn Bông Lan; A5: Hòn Bảy Cạnh (Bà Rịa - Vũng Tàu); A6:
Hòn Hải (nhóm đảo Phú Quý - Bình Thuận); A7: Hòn Đôi (Khánh Hòa); A8:
Mũi Đại Lãnh (Khánh Hòa); A9: Hòn Ông Căn (Bình Định); A10: Đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi); A11: Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị).
(2) Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
rộng 12 hải lý (01 hải lý tương đương 1.852m), ở phía ngoài đường cơ sở.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối
với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển của lãnh hải. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982,
chủ quyền đối với vùng lãnh hải không phải là tuyệt đối như vùng nội thủy,
tàu thuyền các nước khác được “ đi qua không gây hại ” trong lãnh hải. Các
quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân
chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm
bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.
(3) Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải
Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý, hợp với lãnh hải thành một vùng rộng 24
hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát

cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình nhằm bảo vệ quyền lợi về


×