LUẬN VĂN:
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản
A-Lời mở đầu
Từ khi đất nước ta tiến hành đổi mới ,chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang
kinh tế thị trường, nhu cầu phát triển kinh tế và mở rộng các mối quan hệ kinh tế
thương mại với các quốc gia khác trên thế giới ngày càng bức thiết. Xuất khẩu đã trở
thành một trong ba chương trình chiến lược quốc gia nhằm nâng cao chất lượng đời
sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta hiện nay như dầu mỏ, giày dép, thủy sản,gạo, cà phê, sản phẩm gỗ… dệt may
luôn nằm trong số 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước. Ngành dệt
may mỗi năm đã đóng góp hàng tỷ USD vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, ngành dệt may nước ta vẫn đang gặp phải những khó khăn, thử thách từ
phía mơi trường kinh doanh. Ví dụ như áp lực cạnh tranh từ phía các đối thủ cạnh
tranh ngày càng cao, nền kinh tế thế giới gặp phải nhiều biến động, tỷ giá hối đối có
nhiều biến động khó lường, sự khác biệt về kinh tế-văn hóa-xã hội tại các thị trường
xuất khẩu… Ngành dệt may nước ta đang phải vượt lên những khó khăn, thử thách ấy
để có thể mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt, ngành dệt may Việt Nam tại thị trường Nhật Bản đã và đang dần
khẳng định được chỗ đứng của mình. Thị trường Nhật Bản hiện đang là thị trường
xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam. Thị trường này vốn nổi tiếng là một
thị trường khó tính trên thế giới. Khi ngành dệt may nước ta có thể đứng vững trên thị
trường Nhật thì chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng vào khả năng cạnh tranh của hàng
dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Để có thể hình dung ra được những khó khăn, thách thức cũng như tìm ra được
các giải pháp tháo gỡ cho ngành dệt may nước ta, em xin trình bày đề tài: “ Giải
pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Nhật Bản” với
các nội dung chủ yếu sau:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu dệt may
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật
Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản
B- Nội dung
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng dệt may
1.Tổng quan về xuất khẩu
1.1.Khái niệm
Thương mại quốc tế là q trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước thông
qua hoạt động mua bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Hoạt động trao đổi, mua
bán này thường vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ là một
hình thức của các mối quan hệ kinh tế, xã hội, nó phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau
giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt ở các quốc gia khác nhau. Xuất khẩu
là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động ngoại thương hay thương mại
quốc tế ở góc độ quốc gia.
Xuất phát từ khái niệm chung về thương mại quốc tế, ta có thể hiểu xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ là q trình đưa các hàng hóa, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác nhằm mục đích thu lợi. Nếu xét ở góc độ kinh tế, mục đích của việc xuất
khẩu là thu lợi ích kinh tế, cụ thể là lợi nhuận. Nếu xét ở góc độ xã hội, mục đích của
xuất khẩu là nhằm thu được các lợi ích xã hội như an sinh, việc làm, nâng cao chất
lượng cuộc sống …
1.2.Vai trò của xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh
tế và thực hiện q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của xuất
khẩu được thể hiện rõ ở các mặt sau:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát
triển ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước. Nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và
kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngồi vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa kinh tế đất
nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu cũng địi hỏi các doanh nghiệp phải ln đổi mới và hồn thiện cơng
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống người dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta.
2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam
2.1.Ưu điểm
Dệt may là ngành Việt Nam được đánh giá có lợi thế so sánh: lợi thế giá nhân
công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng… Theo
Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong những năm qua đã có 534 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam với
tổng vốn đăng kí là 3,215 tỷ USD.
Trong giai đoạn 1998-2008, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
ngày càng tăng, ngành dệt may xuất khẩu luôn đạt trên 1 tỷ USD và thị trường xuất
khẩu ngày càng được mở rộng. Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% kim ngạch
xuất khẩu cả nước. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt 7,8 tỷ
USD, tăng 33,4% so với năm 2006 và bằng khoảng 16% giá trị xuất khẩu hàng hoá
năm 2007. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta lên tới 9,12 tỷ USD, tăng
gần 17% so với năm 2007. Ngành dệt may đã luôn nằm trong top 10 sản phấm xuất
khẩu nước ta đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, năm 1998 là 1,3 tỷ USD, năm 2008 con số
này là trên 9,1 tỷ USD. Đặc biệt, từ sau khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam
đã có thể xuất khẩu vào tồn bộ các nước thành viên WTO với mức thuế ưu đãi ,thâm
nhập được vào các thị trường trọng yếu trên thế giới như Hoa Kỳ ,liên minh Châu Âu
(EU) , Trung Quốc ,Nhật Bản do thị trường được mở rộng và khơng bị phân biệt đối
xử.
Ngành dệt may nước ta có một số lượng lớn các doanh nghiệp với trên 50 doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, gần 2000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,công
ty trách nhiệm hữu hạn và gần 500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng
trên 2,2 triệu lao động. Các doanh nghiệp có quy mơ lớn nhất trong ngành dệt may
Việt nam lần lượt là Công ty Hưng Ngiệp FORMOSA, công ty sợi TAIWAN, Tổng
công ty Việt Tiến, Tổng công ty Phong Phú, Tập đồn Dệt May Vinatex, cơng ty may
Nhà Bè…
Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may nước ta ngày càng được cải thiện. Chất
lượng hàng dệt may Việt Nam ngày càng được nâng cao, nhiều thương hiệu Việt
Nam đã có thể vươn ra thị trường quốc tế, chinh phục được nhiều thị trường khó tính
u cầu cao cả về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm như Mỹ, EU, Nhật Bản.
Đây là ba thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam.
Ở Việt Nam, dệt may cũng là một trong những ngành được chú trọng phát triển
khi Việt Nam thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những ưu thế về nguồn
nhân cơng dồi dào, lượng vốn đầu tư không lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh, Việt
Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may để vừa thu về giá trị xuất khẩu
lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vừa giải quyết được việc làm
cho phần lớn người lao động.
Các sản phẩm của ngành may mặc nước ta khá đa dạng, phong phú. Sản phẩm của
ngành may mặc không chỉ được biết đến đơn thuần là các sản phẩm quần áo, mà
còn bao gồm những sản phẩm dùng trong các ngành và sinh hoạt như: lều, buồm,
chăn, màn, rèm…Với ngành may mặc Việt Nam, sản phẩm của ngành cũng rất đa
dạng nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Những sản phẩm may mặc phổ biến thường
được xuất khẩu sang các thị trường chính của Việt Nam, như Mỹ, EU, Nhật Bản, là
quần dài, quần short, áo jacket, áo sơ mi, áo bông, áo thun…
2.2.Nhược điểm
Với mục tiêu thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dệt may là một
trong những ngành được chú trọng và ưu tiên phát triển trên cơ sở tận dụng nguồn
nhân công dồi dào, giá rẻ trong nước để thực hiện các đơn hàng may xuất khẩu của
nước ngoài. Đến nay, số lao động trong ngành may là trên 2 triệu lao động. Tuy
ngành may đã thu hút được nhiều lao động, nhưng tính ổn định của nguồn lao động
trong ngành lại khơng cao. Ngun nhân chính là do mức thu nhập của công nhân
ngành may khá thấp so với các ngành khác. Do đó, người lao động không mấy mặn
mà với ngành may Họ sẵn sàng chuyển đổi sang những cơng việc khác có thu nhập
cao hơn. Mặc dù, trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp may đã có những thay
đổi trong chính sách lương thưởng cho người lao động nhưng số lao động thôi việc
vẫn không ngừng tăng lên so với số lao động tuyển mới.
Doanh nghiệp dệt may của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là thực hiện các đơn
hàng gia công xuất khẩu cho phía nước ngồi. Số doanh nghiệp có khả năng thiết kế
và sản xuất các sản phẩm thời trang hiện vẫn chưa nhiều. Do đó, sự khác biệt về kiểu
dáng, mẫu mã sản phẩm Việt Nam so với nhiều quốc gia khác vẫn chưa được thể hiện
rõ nét. Điều này đã làm giảm đi giá trị gia tăng trong các sản phẩm may mặc của Việt
Na, dẫn đến lợi nhuận thu về chưa tương xứng với khả năng cũng như giá trị xuất
khẩu cao trong những năm qua.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp may mặc trong nước lại chưa chú trọng đến thị
trường nội địa với số dân đông đảo hiện nay (trên 80 triệu người năm 2008). Chính vì
thế, hàng may mặc Việt Nam dù được đánh giá khá cao tại nước ngồi thì lại được
biết tới rất ít ở trong nước. Quần áo của Trung Quốc với giá rẻ và mẫu mã đa dạng có
thể được tìm thấy ở khắp các cửa hàng, siêu thị, chợ của Việt Nam trong khi hàng
Việt Nam thì hầu như vắng bóng. Gần đây, hàng may mặc của Việt Nam đã nổi lên
với một số thương hiệu như May 10, Việt Tiến, Ninomax... dần được người
tiêu dùng Việt Nam chú ý hơn. Tuy nhiên, ở phân khúc thị trường hàng may mặc giá
rẻ thì hàng Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc.
Một điểm yếu cực kỳ quan trọng là ngành may mặc của Việt Nam vẫn bị phụ
thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, với trị giá nguyên phụ liệu
nhập khẩu thường chiếm gần 60 – 80% giá trị nguyên phụ liệu cần thiết để sản xuất.
Tuy đã được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng
nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất
hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài.
Nhiều đơn đặt hàng, phía nước ngồi cũng chỉ định ln nhà cung cấp nguyên vật liệu
khiến cho các doanh nghiệp may Việt Nam khơng có điều kiện sử dụng những
ngun liệu sản xuất trong nước với giá thành rẻ hơn.
Trình độ cơng nghệ và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp may Việt Nam
hiện nay vẫn còn thấp hơn 30 – 50% so với mặt bằng chung của khu vực. Với trình độ
như vây, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam bị giảm đi phần nào.
Bảng 1: Hiện trạng năng lực sản xuất doanh nghiệp dệt may (2005)
Sản phẩm
Số doanh nghiệp
Năng lực sản xuất hàng năm
Các loại sợi
102
260 ngàn tấn
Dệt
135
680 triệu mét vuông
Sản phẩm dệt kim
56
300 ngàn tấn
Vải
1050
2000 triệu đơn vị sản phẩm
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Tuy nhiên, trong thời gian qua, một số doanh nghiệp cũng đã chủ động đầu tư cải
tiến về công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí,
từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngành dệt may trong nước là phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường như Mỹ
(chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu), EU (17%), Nhật (8%)... (theo số liệu năm
2008 của Hiệp hội dệt may Việt Nam). Do vậy, ngành dệt may nước dễ bị tác động
khi các thị trường trên gặp sự cố. Đặc biệt là vừa qua tình hình khủng hoảng trên tồn
thế giới, nhu cầu tiêu thụ hàng giảm mạnh do người dân các thị trường lớn thắt chặt
chi tiêu. Nhiều đơn đặt hàng từ nước ngoài bị rút lại cũng đã gây ảnh hưởng khá lớn
đến hoạt động xuất khẩu dệt may của nước ta.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật
Bản của Việt Nam
1.Tình hình nhập khẩu dệt may của Nhật Bản
Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là một thị trường lớn với dân số
khoảng 128 triệu và có sức mua lớn. Những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của
Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và
năm 2006 đạt 580 tỷ USD, năm 2007 đạt 621 tỷ USD (tăng 7,2% so với năm 2006),
trong đó: nơng thủy sản, thực phẩm là 51 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng kim ngạch nhập
khẩu), hải sản là 14,6 tỷ USD (chiếm 2,4%), may mặc là 30 tỷ USD (chiếm 4,9%)…
Thị trường Nhật Bản gần như là một thách thức lớn với các doanh nghiệp Việt
Nam, nhưng sự khắt khe đó lại được những tiềm lực và thế mạnh của một số mặt
hàng Việt Nam khắc phục, đó là những nhóm hàng dệt may, nhóm hàng thủy sản,
hàng thực phẩm, nhóm da giầy, gốm sứ và đồ đạc gia đình... Người tiêu dùng Nhật
Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm. Sản phẩm có vịng đời ngắn nhưng chất
lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người tiêu
dùng Nhật Bản hiện nay. Do đó, hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật cần đáp ứng được
cả về chất lượng lẫn kiểu dáng.
1.1.Hàng rào thương mại của Nhật Bản đối với hàng dệt may
1.1.1.Hàng rào thuế quan
Nhìn chung, mức thuế suất nhập khẩu hàng dệt may thông thường là 14-16,8%,
mức thuế đối với áo sơ mi thì thấp hơn: từ 9-11,2%. Nước được áp dụng chế độ ưu
đãi theo Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) thì mức thuế thấp theo điều kiện phân bổ
trước hoặc miễn thuế.
Trong Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), các mức thuế ưu đãi với hàng
may mặc được quản lý như sau: Các mức thuế trần ưu đãi được xác định cho mỗi
năm tài chính và các mức thuế ưu đãi được phân bổ trước thông qua việc nộp đơn xin.
Người nhập khẩu xin được phân bổ thuế ưu đãi trần bằng cách nộp đơn xin liên hệ
phòng thuế quan, Vụ kinh tế quốc tế, Bộ công thương hoặc văn phịng Thương mại
quốc tế và cơng nghiệp khu vực. Người nhập khẩu sẽ nộp giấy chứng nhận phân bổ
cùng với giấy chứng nhận ưu đãi do cơ quan chính thức của nước xuất xứ cấp, cho
hải quan tại cảng đến (thơng tin chi tiết có thể liên hệ văn phịng thương mại quốc tế
và cơng nghiệp khu vực hoặc Hiệp hội nhập khẩu hàng dệt Nhật Bản).
1.1.2.Hàng rào phi thuế quan
Về hạn ngạch, một số mặt hàng có hạn ngạch tối đa cho từng nước xác định vào
đầu mỗi năm tài chính và phải qua kiểm tra hàng ngày, theo đó nhập khẩu được tính
tốn hàng ngày và mức thuế tối huệ quốc (MFN) được áp dụng 2 ngày sau khi mức
hạn ngạch tối đa nói trên bị vượt quá.
Thứ hai là các quy định về luật liên quan đến nhập khẩu, nhìn chung, hàng dệt
may vào thị trường Nhật Bản không phải theo một quy định nào, hay nói cách khác là
được nhập tự do vào Nhật. Hàng dệt may có sử dụng một phần da hay phụ kiện da
phải tuân thủ theo công ước Washington.
Về nhãn hiệu hàng hoá, Luật hàng hoá đạt chất lượng tốt yêu cầu hàng dệt may
phải có nhãn hiệu với các thơng tin sau:
- Loại sợi dệt, tỉ lệ sợi pha
- Cách giặt và sử dụng
- Loại da được sử dụng
- Nhãn phải ghi rõ tên, địa chỉ, số điện thoại có thể liên hệ.
Tuy vậy, doanh nghiệp xuất khẩu dệt may vào Nhất cần quan tâm tới một số quy
định luật pháp thương mại tiêu biểu và có ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ hàng hóa:
Luật trách nhiệm sản phẩm:Luật trách nhiệm sản phẩm được áp dụng đối với các
sản phẩm nói chung và sản phẩm nhập khẩu nói riêng. Luật này được ban hành vào
tháng 7-1995 để bảo vệ người tiêu dùng. Luật này quy định nếu như một sản phẩm có
khuyết tật gây ra thương tích cho người hoặc thiệt hại về của cải thì nạn nhân có thể
địi nhà sản xuất bồi thường cho các thiệt hại xảy ra liên quan đến sản phẩm có khuyết
tật và các quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.
Quy định tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản-JIS:Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật
Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này
dựa trên "Luật tiêu chuẩn hóa cơng nghiệp" được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và
thường được biết tới dưới cái tên "dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản"
hay JIS. Hệ thống JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hóa trên phạm vi tồn
bộ nền cơng nghiệp Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn JIS áp dụng đối với tất cả các sản
phẩm cơng nghiệp và khống sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn
chuyên ngành như dược phẩm, phân hóa học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm
nông nghiệp khác được quy định trong Luật về tiêu chuẩn hóa và dán nhãn các nơng
lâm sản (viết tắt là JAS). Do đó khi kiểm tra các sản phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu
chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ xác nhận chất lượng của chúng.
Nhật Bản không áp đặt quy định và luật nào về giá cả và phương thức thanh toán.
Nhà xuất khẩu có thể báo giá bằng Đơ la Mỹ, n Nhật hoặc bất cứ loại tiền nào, tuy
nhiên tốt nhất nên báo giá bằng đồng Yên Nhật hoặc Đô la Mỹ . Cách thức báo giá,
thanh toán tùy thuộc vào chủng loại hàng hóa, số lượng và quan hệ giữa hai bên.
Thứ hai là hệ thống kênh phân phố của Nhật cũng tạo thành một rào cản với các
doanh nghiệp xuất khẩu hang dệt may.Cụ thể, hàng may mặc nhập khẩu từ nước
ngồi ln đi qua hệ thống phân phối bắt đầu từ các công ty thương mại tổng hợp
hoặc cơng ty chun ngành, sau đó đến các nhà bán buôn, những người bán lẻ, cuối
cùng là người tiêu dùng. Hoặc, khâu nhập khẩu sẽ do chi nhánh các công ty thương
mại tại nước xuất xứ tiến hành, sau đó hàng sẽ được chuyển qua công ty mẹ tại Nhật
hoặc giao cho các hãng may hoặc cửa hàng bán lẻ.
Ngày nay, một hình thức phân phối mới ngày càng phổ biến là các khâu nhập
khẩu sẽ do chi nhánh các công ty thương mại tại nước xuất xứ tiến hành, sau đó hàng
sẽ được chuyển qua cơng ty mẹ tại Nhật hoặc giao cho các hãng may hoặc cửa hàng
bán lẻ.
1.2.Chủng loại hàng may mặc nhập khẩu vào Nhật Bản chia làm 4 nhóm:
-Hàng thời trang cao cấp: loại hàng này mang tính thời trang từ màu sắc, mẫu mã,
chất lượng, kiểu dáng và thường được nhập từ châu Âu và Mỹ
-Hàng từ ngun liệu thơ: ít có ở Nhật, ví dụ hàng Casomia, angora, mohair
-Sản phẩm dùng nhiều sức lao động: những sản phẩm làm bằng tay được sản xuất
ở các nước có mức tiền lương thấp
-Sản phẩm thủ công truyền thống
Từ năm 1997 do thuế tiêu thụ tăng, đồng yên mất giá nên mức tiêu dùng bị giảm,
rõ nhất là hàng may mặc của nam giới và trẻ em. Trước tình hình đó, các nhà kinh
doanh hàng dệt may Nhật bản đã nhanh chóng thay đổi cơ cấu kinh doanh, thu hẹp
qui mô sản xuất, đặc biệt tập trung nghiên cứu các sản phẩm mang tính thời trang,
vịng đời ngắn. Hiện nay, hình thức kinh doanh theo kiểu người sản xuất đảm nhận
luôn khâu bán hàng đã trở nên thông dụng ở Nhật.
1.3.Xu hướng nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và nhập khẩu dệt may
hàng đầu, Nhật Bản có sức ảnh hưởng lớn đến nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của thế
giới. Cụ thể hơn, Nhật như là một nhà tiêu thụ quần áo chủ chốt và tầm ảnh hưởng
của xu hướng thời trang tại quốc gia này không thể phủ nhận. Nhật Bản chỉ đứng sau
Mỹ về chi tiêu cho quần áo và nhu cầu về bông.
Nhập khẩu hàng may mặc vào Nhật năm 1999 đạt 681,529 tấn (tăng 20% so với
năm trước) và đạt 1.622 tỷ yên (giảm 3,7% về giá trị). Hàng may mặc nhập khẩu vào
Nhật tăng rất nhanh vào những năm 80 và tiếp tục tăng với tốc độ khá vào những năm
90. Năm 1997, khi đồng yên mất giá và tiêu dùng giảm, hàng nhập khẩu chứng lại và
giảm dần. Xu hướng này vẫn tiếp tục vào năm 1998. Sau đó, với những biện pháp
tăng cường tiếp thị tới tận tay người tiêu dùng và các cửa hàng tăng cường giảm giá
đối với những mặt hàng có nhu cầu thấp để kích thích người mua hàng, từ năm 1999
đến nay thị trường hàng nhập khẩu có xu hướng phục hồi. Hiện Nhật Bản là thị
trường lớn thứ hai trên thế giới về tiêu thụ hàng dệt may, trong đó thị trường thời
trang hàng ngày cho tầng lớp phụ nữ trẻ chiếm khoảng 60% trong tổng thể thị trường
quần áo và có trị giá khoảng 28 tỷ USD.
Một vài thập kỷ gần đây, hàng nhập khẩu luôn chiếm phần lớn trong tổng doanh
số bán lẻ và tiêu dùng hàng may mặc tại Nhật. Nhập khẩu quần áo tăng trung bình
7,5% mỗi năm trong 2 thập kỷ qua. Khi quần áo nhập khẩu chiếm phần lớn trong
doanh thu bán lẻ quần áo ngày càng tăng của Nhật thì thị phần của quốc gia xuất khẩu
quần áo lớn nhất, Trung Quốc sẽ tăng. Vào cuối những năm 1980 thị phần của Trung
Quốc tại thị trường nhập khẩu quần áo của Nhật Bản thấp hơn 40% nhưng đến năm
2007 con số này đã là 92%. Điều này là do quần áo của Trung Quốc có giá trung bình
tương đương hoặc thấp hơn giá của các nước khác.
Thị phần của bông tại thị trường quần áo Nhật Bản đã có sự tăng trưởng đáng kể
trong một thập kỷ qua, điều này phản ánh vai trò dẫn đầu của Nhật trong xu hướng
thời trang toàn cầu. Giá trị nhập khẩu tính bằng đồng Yên của quần áo làm bằng chất
liệu bông tại Nhật tăng nhanh hơn là giá trị nhập khẩu quần áo nói chung. Điều này
chứng tỏ rằng người tiêu dùng của Nhật ngày càng yêu thích chất liệu bơng. Trong
vịng 1 thập kỷ qua, thị phần của quần áo có chất liệu bơng đã tăng từ 40-48%. Điều
này cũng giống như xu hướng tại Mỹ.
Về hàng dệt thoi, thị phần của quần áo làm từ bông tăng ổn định từ 40% của năm
1996 lên 45% năm 2007, chủ yếu là sự tăng mạnh ở các loại quần như quần jean, và
trang phục dành cho phụ nữ và các em bé gái. Về hàng dệt kim, thị phần quần áo làm
từ bông tăng từ 37% năm 1998 lên 50% năm 2007, chủ yếu tăng ở nhóm quần áo ngủ
(tăng 234% trong 10 năm qua).Trong cuộc điều tra về xu hướng tiêu dùng người Nhật
được thực hiện bởi công ty Cotton Incorporated’s Global Lifestyle Monitor™, khi
được hỏi về loại xơ nào mà họ muốn dùng làm chất liệu trong trang phục hiện nay,
51% chọn bông, tăng 5,6% so với năm 1999.
Từ đầu những năm 1990, người tiêu dùng Nhật Bản cũng như người Mỹ đều
thích sự thoải mái, co giãn tốt của hàng dệt kim hơn là dệt thoi. Thị phần của hàng dệt
kim trên thị trường quần áo chất liệu bông nhập khẩu tăng từ 48% (1990) lên 55%
(2007). Tại Mỹ, thị phần của dệt kim cũng theo xu hướng trên, tăng từ 37% lên 50%.
Mặc dù cả quần áo dệt kim lẫn dệt thoi nhập khẩu vào Nhật đều tăng trong giai đoạn
này nhưng nhu cầu hàng dệt kim tăng rõ ràng hơn cả. Tại cả thị trường Nhật lẫn Mỹ,
sự phát triển mạnh của chất liệu bông trong quần áo dệt kim được thể hiện trong
doanh số bán lẻ và khối lượng nhập khẩu.
1.4.Thị phần nhập khẩu và xuất xứ hàng dệt may ở thị trường Nhật
Từ năm 1987 trở lại đây, hàng nhập khẩu luôn chiếm tới 60% tính về giá trị và
trên 60% tính về số lượng trên thị trường Nhật. Trung quốc đứng đầu danh sách xuất
khẩu hàng dệt may sang Nhật bản, chiếm 60-80%. Hiện nay, nhập khẩu từ Hàn quốc,
Đài loan, Hongkong giảm dần trong khi nhập khẩu từ Việt nam, Thái lan, Indonexia,
và các nước ASEAN khác ngày một gia tăng. Thị trường nhập khẩu sản phẩm dệt
may của Nhật Bản rất lớn. Trung bình mỗi năm, Nhật nhập khẩu hàng dệt may nhiều
nhất là Trung Quốc với tỷ trọng 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, Mỹ 2,5%, Đài Loan
1,3%, ASEAN chiếm 7,5% và Việt Nam hiện là đối tác lớn nhất của Nhật Bản trong
khối ASEAN với lượng hàng dệt may xuất khẩu chiếm 34,4% trong khối ASEAN,
chiếm gần 3% thị phần tại Nhật.
2.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản của Việt Nam qua các năm
(từ 1998 tới nay)
Theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, quan hệ thương mại ViệtNhật đang phát triển với tốc độ cao. Nhật ln duy trì vị trí là một trong 3 thị trường
xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam sau Mỹ và EU. Trong quan hệ thương mại với
Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc
độ phát triển khá cao, tăng trung bình từ 15-20% so với năm trước. Trong cán cân
thương mại, Việt Nam luôn là nước xuất siêu.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật, mặt hàng dệt may là mặt hàng có
kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam sang Nhật Bản từ trước tới nay.Điển hình
trong năm 2005,hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong 10 mặt hàng
xuất khẩu sang Nhật (theo số liệu được thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản tổng kết):
Hàng may mặc (đạt 721,7 triệu USD, tăng 8,6% so với năm 2004) cao nhất về giá trị
kim ngạch xuất khẩu; Hải sản kể cả tôm (đạt 614 triệu USD, tăng 1,9%, trong đó tơm
đơng lạnh đạt 452 triệu USD, tăng 0,5%); Dầu thô (đạt 585 triệu USD, tăng 58,6% do
giá dầu thô trên thế giới trong năm 2005 tăng đột biến); Hàng dệt thoi (đạt 466 triệu
USD, tăng 7,8%);Dây cáp điện (đạt 450 triệu USD, tăng 35,4%); Than đá (đạt 207,6
triệu USD, tăng 51,8%); Đồ gỗ (184,3 triệu USD, tăng 21,0%); Hàng dệt kim (đạt
122,5 triệu USD, tăng 16,1%); Linh kiện điện tử mạch in (đạt 119 triệu USD, tăng
7,2%).
2.1.Đánh giá tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của nước ta tuy có tăng trong
những năm gần đây song vẫn chưa thực sự khởi sắc, chưa đúng với tiềm năng xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam.Dựa vào các số liệu ở bảng 2 ta thấy: từ năm 1998 tới
năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng gấp
2,5 lần từ 321 triệu USD lên 820 triệu USD; trong khi đó thì hàng dệt may nước ta
trên thị trường Mỹ từ 21 triệu USD tới 5,1 tỷ USD còn thị trường EU từ 521 triệu
USD lên 1,7 tỷ USD.Đồng thời, kim ngạch xuất khẩu dệt may bình quân nước ta
trong giai đoạn này sang thị trường Nhật là 570 triệu USD, sang EU là 865 triệu USD
và Mỹ là 1,895 tỷ USD (gấp 3,5 lần kim ngạch xuất khẩu dệt may bình quan sang thị
trường Nhật). Do đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của nước ta còn
thấp hơn rất nhiều so với Mỹ, EU ,mặc dù thị trường Nhật là thị trường xuất khẩu dệt
may lớn thứ 3 của Việt Nam. Điều này vẫn chưa tương xứng với quan hệ linh tế
thương mại Việt Nam-Nhật Bản từ khi 2 nước thiết lập quan hệ song phương tới nay.
Bảng 2: Bảng thể hiện tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị
trường Mỹ, EU, Nhật Bản
(đơn vị: triệu USD)
199
199
200
200
200
200
200
200
200
200
8
9
0
1
2
3
4
5
6
7
321
417
620
588
521
514
531
604
636
700
26
34
50
45
951
197
247
260
318
440
3
4
3
6
0
521
555
609
599
579
580
762
882
122
150
5
0
KN XK dệt may
135
174
189
196
275
365
436
483
592
778
cả nước
1
7
2
2
2
4
8
8
7
0
Năm
KN XK dệt may
sang Nhật
KNXK dệt may
sang Mỹ
KNXK dệt may
sang EU
Nguồn : www.vietnamtextile.org
Bên cạnh đó, dựa vào Biểu đồ thể hiện kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam
sang Nhật Bản từ 1998 tới nay, và ước tính năm 2009, 2010, 2015
ta có thể thấy
được xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang Nhật cũng có nhiều biến động, cụ thể
là tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng giảm thất thường qua các năm. Trong giai
đoạn 1998-2000, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng mạnh từ 321 triệu USD năm
1998 tới năm 2000 kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật đạt 620 triệu USD.
Nhưng sau đó lại giảm đi chỉ cịn 514 triệu USD năm 2003; từ năm 2003 tới năm
2008 kim ngạch xuất khẩu mới tăng lên mức 820 triệu vào năm 2008.Như vậy, kim
ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật mới chỉ gấp 1,6 lần trong 5 năm trở lại đây. Theo
thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 6 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may qua thị trường Nhật Bản ước đạt 440 triệu USD, tăng 22% so với cùng
kỳ năm 2009. Trong đó, các mặt hàng áo thun, áo sơ mi, đồ lót... đều tăng mạnh.
Biểu đồ 1: kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Nhật Bản từ 1998
tới nay, và ước tính năm 2009, 2010, 2015
(đơn vị: triệu USD)
2008
820
5100
1700
9130
Ng
uồn : www.vietnamtextile.org
Năm 2009, hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản không phải chịu
thuế nhập khẩu, điều này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho hàng dệt may xuất khẩu của
nước ta. Dự báo, năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang
Nhật Bản tăng 20% so với năm 2008. Và trong tương lai kim ngạch xuất khẩu dệt
may của nước ta sang thị trường Nhật Bản sẽ đạt kim ngạch 1,25 tỷ USD vào năm
2010 khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản(EPA) bắt đầu được thực hiện.
Và đến năm 2015, kim ngạch sẽ chạm mức 2,5 tỷ USD.
2.2.Đánh giá tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật
Nhìn chung tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của nước
ta đang có xu hướng giảm dần so với các thị trường khác.Thị trường hàng dệt may
truyền thống này có những dấu hiệu bất ổn định, mặc dù xét về tổng kim ngạch thì
vẫn đang là thị trường tiêu thụ chủ chốt với khả năng tăng tổng kim ngạch xuất khẩu
dệt may khá đều qua các năm.
Dựa vào bảng 3 ta thấy tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật
trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước từ 2000 tới nay có xu hướng giảm
dần về tỷ trọng.
Bảng 3: Bảng thể hiện tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật trong
(đơn vị :%)
tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước
Năm
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tỷ trọng
(%)
23,8
23,9
32,8
30,0
18,9
14,0
12,1
12,5
10,7
9,0
9,0
Nguồn: tự tổng hợp
Giai đoạn trước năm 2000 là giai đoạn hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật đạt tỷ
trọng lớn với tốc độ tăng kim ngạch mạnh mẽ, sang giai đoạn từ sau năm 2000 tỷ
trọng hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản trong cơ cấu thị trường hàng dệt may
nước ta bắt đầu đi xuống. Năm 2000, kim ngạch hàng dệt may sang Nhật chiếm
32,8% kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước tới năm 2008 chỉ cịn 9%, mức giảm
bình qn là 2,5% một năm.
Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy rõ sự suy giảm về tỷ trọng hàng dệt may xuất
khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nói chung sang Nhật Bản (bảng 4).
Mặt hàng dệt may không thể giữ được mức tăng tỷ trọng như những năm trước năm
2000 mà đang có những biểu hiện giảm dần về tỷ trọng hàng dệt may trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật Bản từ sau năm 2000. Bằng
chứng là từ 2000 tới năm 2008, hàng dệt may đã giảm đi 2,5 lần từ 24,07% xuống còn
9,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta sang thị trường Nhật Bản
Bảng 4: Bảng thể hiện tỷ trọng hàng dệt may trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa nước ta sang Nhật Bản
(đơn vị: triệuUSD)
Năm
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
KN XK dệt
321
may sang Nhật
Tổng KN XK
sang Nhật
417
620
588
521
514
531
604
636
700
820
1514 1786 2575 2510 2437 2909 3542 4340 5240 6090 8538
Tỷ trọng (%)
21.19 23.34 24.07 23.43 21.37 17.67 14.99 13.92 12.14 11.49 9.6
Nguồn: tự tổng hợp
Tuy tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật có xu hướng giảm đi nhưng tỷ
trọng hàng dệt may xuất khẩu sang các thị trường khác đang tăng lên không cả về giá
trị lẫn sản lượng tiêu thụ. Điều này chứng tỏ hàng dệt may nước ta đã giảm bớt sự
phụ thuộc vào thị trường Nhật. Đặc biệt là sự gia tăng tỷ trọng của hàng dệt may tiêu
thụ ở thị trường trong nước. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do trong thời gian
gần đây,Nhà nước ta đang khuyến khích tiêu thụ hàng dệt may ở thị trường nội địa,
các thương hiệu dệt may Việt Nam đang tìm được chỗ đứng của mình trong lịng
người tiêu dùng. Điều này chứng tỏ công tác xúc tiến tiêu dùng hàng dệt may ở thị
trường trong nước và trên thị trường xuất khẩu dệt may mới đang hoạt động có hiệu
quả.
2.3.Đánh giá tốc độ tăng kim ngạch hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản
Nhìn chung, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản những năm gần đây
ln tăng trưởng ở mức 9-10%, song cịn chậm hơn nhiều so với các thị trường Mỹ,
EU. Từ năm 1998 tới năm 2008, Mỹ có tốc độ tăng kim ngạch cao nhất trên 196 lần
trong vòng 10 năm trở lại đây với mức tăng kim ngạch bình quân gần 507,4 triệu
USD/năm, EU có tốc độ tăng khiêm tốn hơn gần 3,3 lần với mức tăng kim ngạch bình
quân 117,9 là triệu USD/năm, còn tốc độ tăng kim ngạch hàng dệt may nước ta trên
thị trường Nhật chỉ đạt 2,5 lần với mức tăng kim ngạch bình quân tương ứng khoảng
49,9 triệu USD/năm.
Bảng 5: Bảng thể hiện sự thay đổi trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường Nhật Bản từ năm 1998 tới năm 2008
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
So với So với So với So với So với So với So với So với So với So với
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
96
203
-32
-67
-7
17
73
32
64
120
29,9
48,7
-5,2
-11,4
-1,3
3,3
13,7
5,3
10,1
17,1
Chênh
lệch KN
(triệuUSD
)
Tỷ lệ %
thay đổi
Nguồn: tự tổng hợp
Dựa vào bảng 5, từ năm 1997 tới năm 2000 là giai đoạn kim ngạch xuất khẩu dệt
may sang Nhật của nước ta đạt tốc độ tăng cao nhất trung bình 100 triệu USD mỗi
năm. Tuy nhiên, hàng dệt may nước ta không thể giữ được mức tăng trưởng này, sau
khi đạt đỉnh vào năm 2000 (620 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị
trường Nhật Bản quay đầu sụt giảm trong suốt 3 năm liên tiếp từ năm 2001 tới năm
2003 với mức giảm trung bình 35,3 triệu USD/năm, tương ứng với mức giảm 6% mỗi
năm. Sau khi chạm đáy 514 triệu USD năm 2003, hàng dệt may sang Nhật của nước
ta có dấu hiệu phục hồi. Xét cả giai đoạn 2003-2008 mỗi năm tăng gần 62,1 triệu
USD, với mức tăng tương ứng là 9,9% mỗi năm.
Đặc biệt, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2008, xuất
khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 820 triệu USD, tăng 17,1 % so với
năm 2007, cao hơn nhiều so với mức tăng 12% của năm 2007 so với năm 2006.Dự
kiến sau khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản(EPA) bắt đầu được thực
hiện thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta cịn cao hơn nữa. Cụ thể,
giai đoạn 2010-2015 có tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may khoảng 208,3
triệu USD mỗi năm lớn gấp 4 lần con số 51 triệu USD mỗi năm của giai đoạn 20032008.
2.4.Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu nước ta sang thị trường Nhật Bản
Về mặt cơ cấu, trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị
trường Nhật Bản đạt được mức tăng trưởng khá chủ yếu nhờ kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng áo kimono, áo thun, áo sơ mi, khăn bông, váy… tăng mạnh so với năm
2007. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu áo kimono sang Nhật Bản đạt cao nhất với mức
tăng trưởng mạnh, gần 131 triệu USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Tiếp đến là mặt
hàng quần, đạt 118,29 triệu USD, nhưng giảm 5,7% so với năm 2007, áo thun là mặt
hàng có tốc độ tăng mạnh nhất với 161,1%, đạt 81,37 triệu USD. Ngoài ra, một số
mặt hàng cũng đạt được tốc độ tăng trưởng cao như áo sơ mi tăng 36,3%, váy tăng
59%…
Trong 17 nhóm hàng dệt may (trên 10 triệu USD) mà Nhật Bản nhập khẩu từ
Việt Nam thì có đến 11 nhóm hàng đang trong xu hướng tăng, trong đó có nhóm áo
thun tăng đến trên 161%, tiếp đến là nhóm váy tăng trên 58%, áo kimono tăng 43%
và áo sơ mi tăng 36,5%. Việc gia tăng nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam của Nhật
Bản cho thấy, hàng dệt may Việt Nam đã từng bước chinh phục được giới tiêu dùng
khó tính của nước này.
Theo VITAS đánh giá kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Nhật
Bản tăng cao trong thời gian gần đây chủ yếu nhờ sự vực dậy của mặt hàng áo
kimono, áo sơ my, áo thun.... Còn những sản phẩm chủ lực khác như đồ lót, tơ tằm,
khăn bơng lại giảm. Điều này cho thấy tăng trưởng xuất khẩu dệt may của Việt Nam
vào Nhật Bản chưa thực sự bền vững. Nhật Bản là thị trường không hạn ngạch lớn
nhất của hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt từ
năm 1994. Vào thời điểm năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong 7 nước xuất
khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là
2,3%.
2.5.Đánh giá thị phần hàng dệt may Việt Nam ở Nhật Bản
Như ta đã biết, thị phần hàng dệt may ở Nhật Bản của Trung Quốc là lớn nhất
chiếm 60-80%.Và Nhật Bản cũng nhập khẩu hàng dệt may từ rất nhiều nước khác
trên thế giới. Do đó, nước ta chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ ở Nhật Bản.
Bảng 5 : Thị phần hàng dệt may trên thị trường Nhật năm 2007
Nước
China
EU-27
Vietnam
Thailand
S. Korea
United States
Malaysia
India
Indonesia
Myanmar
Philippines
Taiwan
Trị giá
(triệu USD)
19,795
1,652
717
271
258
198
170
157
134
95
78
61
Thị phần
(%)
82.5
6.9
3
1.1
1.1
0.8
0.7
0.7
0.6
0.4
0.3
0.3
Nguồn : Số liệu do Viatas tổng hợp từ Emergingtextiles
Tuy nhiên, thị phần hàng dệt may của Việt Nam đang có xu hướng tăng nhẹ, từ
chỗ chỉ chiếm dưới 1% năm 2001nay đã đạt trên 3% năm 2007. Như vậy, thị phần
hàng dệt may nước ta ở Nhật tuy cao so với các nước ASEAN nhưng vẫn còn rất thấp
so với Trung Quốc, tốc độ tăng thị phần của hàng dệt may nước ta ở Nhật chưa thật
sự cao, trong 6 năm mới chỉ thêm được 2%.
Tuy vậy, hàng dệt may nước ta hoàn toàn có thể mở rộng hơn nữa thị phần trong
tương lai. Nguyên nhân là do Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách nhập khẩu chủ yếu
từ nguồn cung cấp của Trung Quốc trong nhiều năm qua sang các nhà cung cấp hàng
giá rẻ khác từ châu Á như Ấn độ, Banladesh, Việt Nam... Hiệp định EPA đã và đang
được thực hiện, hàng dệt may nước ta có thêm được lợi thế về thuế suất. Ngoài ra
phải kể tới sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta ngày càng được cải thiện.
2.6.Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật
Bản
Nhật Bản là một thị trường truyền thống của ngành dệt may Việt Nam. Các doanh
nghiệp thuộc Tập đồn Dệt-May Việt Nam như Dệt kim Đơng Xn, May Nhà Bè,
May 10, Dệt-May Nam Định, Phong Phú... đã trở thành nhà cung cấp hàng dệt kim,
hàng Veston, hàng sơ mi, khăn các loại… nhiều năm cho các công ty thương mại
Nhật Bản.
Theo số liệu thống kê, năm 2008 có 575 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng
dệt may sang Nhật Bản, tăng 10 doanh nghiệp so với năm 2007. Trong đó, số lượng
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lần đầu sang thị trường này khá lớn và nhiều doanh
nghiệp đạt được kim ngạch xuất khẩu cao. Có khoảng 10 doanh nghiệp đạt kim ngạch
xuất khẩu từ 1-5 triệu USD.
Trong năm 2008, Tổng công ty may Việt Tiến là đơn vị đi đầu trong xuất khẩu
hàng dệt may sang Nhật Bản cả về trị giá và tốc độ tăng trưởng, đạt 56,3 triệu USD,
tăng 36% so với năm 2007.Sang tháng 1/2009, nước ta có 290 doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản, tăng 20 đơn vị so với cùng thời
điểm này năm 2008.
3.Kết luận về tình hình xuất khẩu hàng dệt may nước ta sang thị trường Nhật
Bản:
Đã trên 35 năm trôi qua kể từ ngày Việt Nam và Nhật bản chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao năm 1973, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước đã trải qua
rất nhiều thăng trầm. Ngành dệt may nước ta xuất khẩu sang Nhật cũng đã đạt được
rất nhiều thành tựu song cũng có khơng ít những hạn chế còn tồn tại.
3.1.Thành tựu
Tốc độ tăng trưởng nhanh và mạnh của ngành may mặc Việt Nam càng được
khẳng định. Xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật Bản đang được hồi phục, tổng
kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã tăng gấp 2,5 lần từ
321 triệu USD lên 820 triệu USD từ năm 1998 tới năm 2008. Dự kiến trong thời gian
tới kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này còn lên cao hơn nữa khi quan hệ thương mại
Việt-Nhật ngày càng phát triển. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam-Nhật
bản(Hiệp định EPA) là một mốc đánh dấu quan trọng cho mối quan hệ song phương
ấy.
Hiện nay, thị trường Nhật đã trở thành thị trường xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 của
Việt Nam sau Mỹ, EU. Thị phần hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
đang được cải thiện, chiếm khoảng 3% năm 2007. Tuy thấp hơn rất nhiều so với
Trung Quốc nhưng thị phần hàng dệt may nước ta ở Nhật vẫn cao hơn rất nhiều các
nước trong ASEAN.
Số lượng doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nhật ngày càng tăng. Điều này
chứng tỏ các doanh nghiệp dệt may nước ta đã và đang thích ứng với những nhu cầu
khắt khe của người tiêu dùng Nhật Bản.
Ngành dệt may phát triển góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nói
riêng, hàng hóa Việt Nam nói chung khơng chỉ ở thị trường Nhật mà ở cả nhiều thị
trường khác. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành một trong 10 nước xuất khẩu dệt may
hàng đầu thế giới. Bởi vì thị trường Nhật nổi tiếng là khó tính, khi đã chinh phục
được thị trường này hàng dệt may nước ta hồn tồn có thể tự tin mở rộng sang các
thị trường khác.
Ngành dệt may Việt Nam là một trong trong số ít những ngành có tỷ lệ tăng
trưởng ổn định qua các năm. Ngành dệt may đã đóng góp 17% cho GDP của Việt
Nam năm 2006; kim ngạch xuất khẩu của ngành năm 2006 đạt đến con số rất ấn
tượng
5,9
tỷ
USD,
tăng
22%
với
năm
2005.
3.2.Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, hàng dệt may nước ta sang Nhật
còn tồn tại những mặt còn hạn chế như sau :
Mặt hạn chế đầu tiên mà ta có thể dễ dàng nhận thấy là thị phần hàng dệt may
trên thị trường Nhật Bản của nước ta hiện nay vẫn còn quá nhỏ bé chỉ khoảng từ 1%
tới 3%. Con số này thấp hơn rất nhiều so với Trung Quốc (từ 60% tới 80%). Khả
năng mở rộng thị phần hàng dệt may nước ta trên thị trường Nhật Bản trong những
năm trước 2008 vẫn còn chưa tương xứng với quan hệ hai nước. Trong 5 năm từ 2001
tới 2007 mới chỉ chiếm được 2% thị phần.Tuy vậy, chúng ta hồn tồn có thể tin
tưởng sẽ mở rơng thị phần hơn nữa trong thời gian tới khi Hiệp định EPA đi vào thực
tiễn, hàng dệt may nước ta sẽ có thêm lợi thế ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu vào thị
trường Nhật Bản.
Hai là xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật vẫn chưa thật sự bền vững, ổn định. Ta
có thể thấy rõ điều này khi kim ngạch dệt may thay đổi thất thường trong những năm
trở lại đây. Giai đoạn 1998-2000, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng mạnh từ 321
triệu USD năm 1998 tới năm 2000 kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật đạt 620
triệu USD. Nhưng sau đó lại giảm đi chỉ còn 514 triệu USD năm 2003; từ năm 2003
tới năm 2008 kim ngạch xuất khẩu mới tăng nhẹ lên mức 820 triệu vào năm 2008.
Bên cạnh đó, trong tỷ trọng hàng dệt may nước ta trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của cả nước và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta sang thị
trường truyền thống này có dấu hiệu suy giảm. Năm 2000, kim ngạch hàng dệt may
sang Nhật chiếm 32,8% kim ngạch xuất khẩu dệt may cả nước tới năm 2008 chỉ còn
9%.
Thứ ba, số lượng doanh nghiệp dệt may nước ta có thể xuất khẩu sang Nhật tuy
có tăng qua các năm nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ trên tổng số hơn 2000 doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nước ta năm 2008.
3.3.Nguyên nhân những hạn chế
Những hạn chế kể trên của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Nhật Bản chủ yếu xuất phát từ các điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
Việt Nam và cả những rủi ro từ phía mơi trường kinh doanh trong nước, thế giới đem
lại. Sau đây em xin đưa ra một vài lý do chủ yếu:
Một là do nguyên phụ liệu dệt may nước ta chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc
(chiếm 70% tổng giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu) nên hàng dệt may nước ta ln
có giá thành sản xuất cao hơn so với Trung Quốc. Do đó, hàng dệt may nước ta khó
có thể cạnh tranh được về giá so với hàng của Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản
nói riêng, thế giới nói chung.
Hai là do hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thời gian vừa qua làm
cho giá cả biến động khó lường. Nhiều nguyên phụ liệu dệt may đang trên đà tăng giá
mạnh mẽ. Giá cả các yếu tố đầu vào khác cũng tăng cao khiến cho các doanh nghiệp
xuất khẩu dệt may nước ta vô cùng khốn đốn.