Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Thực trạng nền giáo dục tại Mường Lát Thanh Hóa và các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.99 KB, 8 trang )

THỰC TRẠNG CỦA NỀN GIÁO DỤC HUYỆN MƯỜNG LÁT TỈNH
THANH HÓA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẠI ĐỊA PHƯƠNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NỀN GIÁO DỤC NƯỚC TA VÀ NỀN
GIÁO DỤC TỈNH THANH HÓA.
1. Những vấn đề chung về giáo dục nước ta.
Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Nhờ
có truyền thống giáo dục, cũng như nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng
của giáo dục và đào tạo mà chúng ta có thể xây dựng và bảo vệ được tổ quốc,
giữ dìn và phát triển văn hóa đậm đà bản sắc của nước nhà. Xác định rõ điều
này, các triều đại phong kiến trước đây luôn đặt giáo dục lên những vị trí cao
nhất, và xem đó là kế “Trị bình” lâu dài.
Kể từ sau cách mạng tháng Tám 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn xem
giáo dục là quốc sách hàng đầu để đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ
cho đất nước. Chính vì thế mà Đảng và nhà nước ta luôn dành những sự quan
tâm cao nhất cho công tác giáo dục và đào tạo trong cả nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành và triển khai thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách về phát triển giáo dục và đào tạo. Cùng với sự
vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội; lĩnh vực giáo dục
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần to lớn vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc như:
- Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ
Mầm Non cho đến Đại học.
- Số lượng học sinh, sinh viên trong cả nước tăng nhanh, nhất là ở bậc
giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề.
- Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư cải thiện, từng bước hiện đại hóa,
đáp ứng nhu cầu giảng dạy, (năm 2010 tỷ lệ kiên cố hóa bậc phổ thông đạt 70%
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị TW8 Khóa XI)
- Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ, đội ngũ nhà giáo và quản lý
phát triển cả về số lượng và chất lượng. “các đội tuyển của Việt Nam tham gia
thi Olympic khu vực và quốc tế tiếp tục đạt thành tích xuất sắc; giáo dục đại học


đang từng bước đổi mới đồng bộ theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách
nhiệm….”(Trích – Thư của chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam – gửi học sinh,
sinh viên nhân ngày khai giải năm học mới 2014 – 2015)
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do sự thay đổi của nền kinh tế thị
trường và hội nhập, giáo dục nước ta đang từng bước bộc lộ các khuyết điểm,
hạn chế và yếu kém cần phải khắc phục kịp thời như:


- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi
mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống thực tiễn, chua phát huy hết năng
lực của học sinh.
- Chất lượng giáo dục còn có lúc bị buông lỏng, giảm sút nhất là chất
lượng giáo dục đạo đức, lối sống.
- Hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối.
- Đội ngũ cán bộ giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng lực của
một bộ phận còn thấp.
- Tư duy giáo dục còn chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của đổi mới
và phát triển trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập….
Xuất phát từ những hạn chế, tồn tại đó, Đảng và nhà nước ta đã có chủ
trương đổi mới nền giáo dục Việt Nam. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã thể hiện
rõ quyết tâm của toàn Đảng toàn dân và nhất là các cơ quan quả lý giáo dục,
nhằm mục đích đưa giáo dục nước nhà lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn lịch sử trong giai đoạn hiện nay.
2. Đối với tỉnh Thanh Hóa.
Thanh Hóa là một trong những địa phương có vị trí địa lí quan trọng –
“Đòn gánh nối hai miền Nam – Bắc”. Với diện tích khoảng 11.131Km 2, dân số
khoảng 3,5 triệu người, với 27 huyện thị, thành phố. Trong đó có 11 huyện Miền

Núi và 192Km đường biên giới.
Trong những năm qua, nhất là trong những năm gần đây, dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự nỗ lực của các cấp, các
ngành, các địa phương cũng như sự vào cuộc của gia đình và xã hội, giáo dục và
đào tạo tỉnh ta đã đạt được những kết quả khá toàn diện như:
- Quy mô giáo dục và đào tạo dần ổn định và điều chỉnh hợp lý, phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh. Mạng lưới trường lớp được dần hoàn
chỉnh, đáp ứng nhu cầu dạy và học của con em trong tỉnh.
- Chất lượng giáo dục đại trà được nâng lên, chất lượng giáo dục mũi
nhọn có các tiến bộ vượt bậc (Từ năm 1984 đến nay tỉnh ta đã đạt được 34 huy
chương tại các kỳ thi quốc tế - không nhiều tỉnh có được thành tích này)
- Cơ sở vật chất trường học được đầu tư phát triển theo hướng đồng bộ và
chuẩn hóa.
- Đội ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục được tăng cường, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, có trình độ chuẩn và trên chuẩn cao.
- Công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và THCS được nâng lên, phổ cập
giáo dục mầm non dưới 5 tuổi được triển khai mạnh mẽ, hoàn thành trước thời
hạn 1 năm ( năm 2013). …


Tuy nhiên, Giáo dục Thanh Hóa, đặc biệt là giáo dục miền núi Thanh hóa
còn có nhiều khó khăn, hạn chế, thách thức trước yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh và chương trình phát triển kinh tế, xã hội miền núi Thanh Hóa, đó
là:
- Chất lượng giáo dục các cấp học và bậc học còn thấp, Phổ cập giáo dục
xóa mù chữ chưa đạt hiệu quả triệt để (vẫn còn tình trạng tái mù), nhất là các xã
vùng sâu vùng cao.
- Tình trạng học sinh bỏ học còn diễn ra nhiều, đặc biệt là học sinh bậc
phổ thông. Nhất là các huyện miền núi.
- Công tác hướng nghiệp cho học sinh vùng miền chưa thật sự hiệu quả,

chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn ở địa phương, nhất là các huyện miền núi.
- Tỷ lệ phòng học kiên cố còn thấp, nhiều trường học (nhất là các khu lẻ)
vẫn đang tình trạng nhà cấp 4, không đáp ứng yêu cầu dạy và học.
- Trình độ và năng lực của cán bộ, giáo viên chưa thật sự đồng đều, nhất
là các huyện vùng cao….
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng trên.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Ủy, HDND tỉnh, UBND tỉnh. Sở GD&ĐT
Thanh Hóa đã và đang thực hiệc các biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại và
yếu kém, từng bước đồng bộ hóa nền giáo dục tỉnh nhà, để bắt kịp với cả nước
nói chung và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng.
II. THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN
MƯỜNG LÁT.
1. Những nét chung.
Mường Lát là một huyện vùng cao biên giới nằm ở tận cùng phía Tây Bắc
của tỉnh Thanh Hóa. Cách trung tâm thành phố khoảng 246km, với 110km
đường biên giới giáp nước bạn Lào. Diện tích tự nhiên khoảng 80.865ha, 100%
diện tích là đồi núi, địa hình chia cắt đi lại khó khăn.
Là một huyện mới được chia tách ra từ huyện Quan Hóa cũ vào 3/1997
(Thực hiện theo Nghị định 72/CP). Cho đến nay đã có 8 xã và 1 thị trấn, tổng
dân số tính đến năm 2014 là trên 3,5 vạn người, chủ yếu là các dân tộc thiểu số
như: Hmôngz, Thái, Dao, Khơ mú, Mường, và một bộ phận thiểu số người
Kinh. Trong đó chiếm số lượng đông nhất là dân tộc Thái (46%) và dân tộc
HMôngz.
Tuy là một huyện mới được chia tách, nhưng với tinh thần đoàn kết, ý chí
quyết tâm cùng với sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. Nhân
dân Mường Lát đã và đang đạt được những thành tích đáng kể trong công cuộc
đẩy mạnh việc xây dựng và đổi mới quê hương.
Mặc dù vậy, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhìn chung,
điều kiện kinh tế Mường Lát còn hết sức khó khăn, là một trong những huyện
được xem là nghèo và khó khăn nhất cả nước, (tỷ lệ hộ Nghèo năm 2013 còn



chiếm gần 40%). Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo
dục tại đây.
2. Thực trạng nền giáo dục tại Mường Lát.
2.1. Những thành tích đã đạt được.
Mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội đang hết sức khó khăn, trình độ dân trí
thấp, nhưng trong những năm vừa qua, với sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng,
chính quyền, Phòng GD&ĐT … huyện Mường Lát. Nền giáo dục huyện nhà đã
và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Hệ thống trường lớp ngày càng được đầu tư và kiên cố hóa, cơ sở vật chất
được cải thiện, dần dần đáp ứng được nhu cầu của công tác dạy và học. Tính đến
năm học 2013 – 2014 toàn ngành có 504 phòng học, trong đó có 1/3 là phòng
học kiên cố, trang bị hệ thống điện thắp sáng và quạt…
Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ngày càng được trẻ hóa, đào tạo cơ
bản. Năm học 2013 – 2014 toàn ngành có 767 cán bộ giáo viên, chủ yếu đã được
đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn.
Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên ở các cấp học, bậc học.
(Năm học 2013 – 2014 tỷ lệ học sinh khá giỏi bậc THCS tăng 3% và tỷ lệ học
sinh yếu kém giảm 4% so với năm học 2012- 2013).
Công tác phổ cập giáo dục đã và đang được giám sát chặt chẽ và đẩy
mạnh, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm xuống ở tất cả các bậc học.
Đời sống của cán bộ, giáo viên ngày càng được nâng cao, đã phần nào tạo
tâm lý yên tâm công tác và cống hiến.
2.2. Những tồ tại và hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng nhìn một cách
toàn diện thì giáo dục huyện Mường Lát vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa nói
chung và Mường Lát nói riêng.
- Cơ sở vật chất dù đã được quan tâm, hỗ trợ, đầu tư xây dựng nhưng vẫn

chưa đủ phục vụ nhu cầu dạy và học. (phòng học cấp 4 vẫn còn tới hơn 200
phòng, phòng tranh tre, hơn 60 phòng). Chưa kể các phòng học ở nhiều cơ sở
đang có hiện tượng xuống cấp trầm trọng. Nhiều điểm trường (đặc biệt là các
khu lẻ của Tiểu học và Mầm Non) còn thiếu thốn rất nhiều.
- Các trang thiết bị phục vụ nhu cầu dạy – học không đủ (Tài liệu, sách
tham khảo, bản đồ, tranh ảnh, đồ thí nghiệm… thậm chí là cả SGK), việc bổ
sung và cấp mới chủ yếu chờ vào cấp trên. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng các giời dạy – học.
- Cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt của giáo viên đang thiếu, nhiều
điểm trường lẻ không có điện, hệ thống nước sinh hoạt (kể cả khối THCS).
- Đội ngũ cán bộ giáo viên tuy đông, đủ nhưng chất lượng đại trà chưa
cao, đặc biệt là giáo viên Tiểu Học, Mầm Non… (Đội ngũ giáo viên người địa


phương đi học Cử tuyển chiếm khoảng 30% đến 40%. Trong đó nhiều giáo viên
còn non và hạn chế về năng lực)
- Chất lượng giáo dục toàn diện so với mặt bằng chung của Tỉnh và cả
nước đang còn thấp so với yêu cầu (Đặc biệt là đào tạo mũi nhọn). Tỷ lệ học
sinh bỏ học vẫ còn xảy ra, đặc biệt là các em ở các lớp cuối cấp của khối THCS
và THPT (do nhiều nguyên nhân).
- Phương pháp giáo dục, thi kiểm tra đánh giá còn thiếu thực chất, chưa
đổi mới kịp thời, chủ yếu vẫn là phương pháp truyền thống (Do thiếu trang thiết
bị và trình độ nhận thức của học sinh còn chậm). Điều này làm cho chất lượng
giáo dục không cao, giảm tính chủ động và sáng tạo của cả giáo viên và học
sinh.
- Một số bộ phận cán bộ quản lý của các nhà trường chưa đáp ứng được
yêu cầu, cụ thể trong công tác quản lý, triển khai và chỉ đạo nhiệm vụ ngay tại
đơn vị mình.
- Hiện nay vẫn còn tình trạng một số cán bộ, giáo viên chưa thực sự
chuyên tâm trong việc đầu tư cho công tách giảng dạy (do nhiều nguyên nhân

chủ quan và khách quan).
2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.3.1. Nguyên nhân khách quan.
- Do địa hình đồi núi phức tạp, giao thông đi lại không thuận lợi, đặc biệt
là vào mùa mưa bão (nhiều bản các em phải đi bộ trên quãng đường 6km đến
7km). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì sĩ số học sinh.
- Điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ dân cư thấp, còn tồn tại nhiều các
hủ tục lạc hậu (ma chay, làm vía nhiều, tảo hôn, ngủ thăm…) cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến việc duy sĩ số làm cho học sinh bỏ học, vắng học. Đặc biệt là công
tác xã hội hóa giáo dục.
- Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, chưa kịp thời. Chính
đều này là nguyên nhân cơ bản của thực trạng thiếu thốn cơ sở vật chất ở các
trường lớp trên địa bàn huyện Mường Lát.
- Phương pháp giáo dục đã được đổi mới, nhưng chưa thể áp dụng toàn
diện vào thực tiễn địa phương, chính vì thế đã ít nhiều tạo nên tâm lý thụ động,
không khơi dậy được hứng thú học tập của học sinh.
- Hệ thống kiến thức trong khung chương trình nhìn chung còn nặng, ôm
đồm, máy móc, làm cho học sinh các dân tộc thiểu số miền núi khó có thể nắm
hết được.
- Ảnh hưởng của cơ chế thị trường, lối sống hưởng thụ, phụ thuộc gia
đình, nhiễm các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội không chỉ ở các huyện miền
xuôi mà Mường Lát cũng có (thậm chí đang biến tướng).


- Ma Túy cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh trong
huyện phải bỏ học giữa chừng, do nhiều gia đình ly tán, không đủ khả năng nuôi
con đi học. (nhiều học sinh mồ côi cả bố lẫn mẹ)
2.3.2.Nguyên nhân chủ quan.
- Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà
nước về phát triển giáo dục toàn diện, nhất là quan điểm “Giáo dục là quốc sách

hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Thêm vào đó công tác quản lý ở một số đơn
vị chưa thực sự hiệu quả, chưa xây dựng được chương trình hành động hợp lý,
chưa có các giải pháp khả thi…
- Nhiều giáo viên còn hạn chế về năng lực chuyên môn, nhất là khối tiểu
học và THCS – tập trung chủ yếu ở đội ngũ giáo viên địa phương đi cử tuyển, và
học liên thông.
- Tâm lý của nhiều cán bộ giáo viên chưa thực sự yên tâm công tác, chủ
yếu tập trung vào đội ngũ cán bộ giáo viên ở các huyện khác lên vì tâm lý muốn
về gần gia đình, vợ con…
- Công tác phối hợp quản lý học sinh giữa Gia đình – Nhà trường chưa
mang lại hiệu quả cao. Chủ yếu phó mặc cho các thầy cô ở trên lớp.
- Hệ thống phòng học bàn ghế thiếu nhiều do xây dựng và mua sắm từ
lâu, nay đã xuống cấp nghiêm trọng và không đảm bảo an toàn và không sử
dụng được.
- Công tác quản lý chất lượng, thanh kiểm tra, giám sát chưa được kịp
thời, đôi khi còn hình thức.
- Công tác phê bình và tự phê bình của cán bộ, giáo viên chưa cao, chưa
thật sự nghiêm túc, nên không mang lại hiệu quả và kịp thời rút kinh nghiệm,
sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
- Bệnh thành tích cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến
thực trạng giáo dục như trên. (Thậm chí HS lên THCS còn chưa đọc thông viết
thạo)
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THỰC TRẠNG TRÊN
Xuất phát từ thực trạng của nền giáo dục nước nhà, hội nghị Trung ương
8 khóa XI đã có nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
“Ngành Giáo dục đã có nhiều cố gắng, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
để tiếp tục đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông,

giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; chính sách cho học sinh, sinh viên
nghèo, dân tộc thiều số, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn vá các đối tượng chính sách được bổ sung kịp thời; việc đổi mới thi tốt
nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng trong năm 2014


nhận được sự đồng thuận của xã hội” (Trích – Thư của chủ tịch nước CHXHCN
Việt Nam – gửi học sinh, sinh viên nhân ngày khai giải năm học mới 2014 –
2015)
Trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước cũng như của ngành Giáo
dục, Sở giáo dục. Xuất phát từ thực tiễn kinh tế-xã hội huyện Mường Lát. Giáo
dục huyện nhà cần thực hiện những giải pháp trước mắt và lâu dài như sau:
1. Đối với các cơ quan quản lý (Đảng và Chính quyền các cấp, phòng
GD&ĐT)
- Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sựu quan tâm quản lý của chính
quyền địa phương trong công tác đổi mới giáo dục và đào tạo.
- Coi trọng công tác phát triển Đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các
trường học, trước hết là đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ.
- Tăng cường công tác vận động, tuyên truyền nhân dân, để nhân dân hiểu
rõ hơn về vị trí và vai trò của giáo dục. Tích cực chống các hủ tục lạc hậu, phát
triển kinh tế xã hội địa phương.
- Có kế hoạch dài hạn trong công tác phát triển nhân lực của giáo dục và
đào tạo địa phương.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất theo hướng hiện đại hóa, đáp ứng nhu
cầu thực tiễn trong các đơn vị trường học.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở giáo
dục địa phương, đặc biệt là thanh tra chuyên môn…
2. Đối với đội ngũ giáo viên
- Có kế hoạch định kỳ để kiểm tra chất lượng đội ngũ giáo viên, đội ngũ
quản lý, nhân viên. Đối với những trường hợp yếu kém, cần phân loại để có kế

hoạch bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đẩy mạnh và có hiệu quả hơn công tác tuyên truyền cho cán bộ, giáo
viên về nâng cao ý thức và trách nhiệm của nhà giáo. Xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Kịp thời uốn nắn lối sống buông thả của một bộ
phận cán bộ, giáo viên (nhất là giáo viên nam trẻ).
- Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ giáo viên được tham gia các lớp tập
huấn, các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tich cực của
học sinh. Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, khuyến khích sử dụng
công nghệ thông tin một cách hiệu quả, phù hợp với thực tiễn.
- Có các chính sách hỗ trợ, chi trả đầy đủ, đúng và kịp thời mọi chế độ,
chính sách cho cán bộ giáo viên.
- Động viên và phê bình kịp thời những cán bộ, giáo viên có thành tích
nổi bật cũng như có các hành động vi phạm kỷ luật.
3. Đối với vấn đề cơ sở vật chất.


- Cần ưu tiên đầu tư xây dựng, sửa chữa, bổ sung cho các điểm trường xa,
khó khăn, chưa có hệ thống phòng học, bàn ghế đúng tiêu chuẩn.
- Đẩy mạnh hơn công tác xã hội hóa giáo dục, vận động các nguồn lực để
cải thiện, làm mới hệ thống đường giao thông, điện, nước sinh hoạt cho nhà
trường và phục vụ đời sống giáo viên, học sinh.
- Làm tốt công tác tham mưu cho chủ tịch UBND xã, UBND huyện để
xây dựng các trường lớp theo hướng kiên cố hóa.
- Trước mắt bằng các biện pháp cụ thể sửa chữa lại các phòng học, nhất là
phòng tranh tre nứa lá, chú ý công tác vệ sinh trường lớp học.
4. Đối với học sinh
- Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong việc phối kết
hợp với các nhà trường để vận động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số.
- Thực hiện công tác kiểm tra đánh giá nghiêm túc nhằm rà soát lại chất

lượng học sinh, phân loại để có các biện pháp bồi dưỡng kịp thời.
- Giáo viên phụ trách lớp, giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được tâm lý
của đối tượng học sinh, để có các biện pháp uốn nắn kịp thời. Kiên quyết cấm
hiện tượng học sinh dùng điện thoại di động trong nhà trường (Chủ yếu là bậc
Phổ thông vì đây cũng là một trong những lý do dẫn đến thực trạng học sinh tảo
hôn, tham gia tệ nạn xã hội).
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn của Thanh Hóa nói chung và địa phương
Mường Lát nói riêng. Để giáo dục và đào tạo thực sự trở thành “công cụ” rèn
đức – luyện tài, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập của đất nước. Giáo dục
Mường Lát cần phải có các biện pháp đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn,
trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, của Nhà nước và của Nghành giáo dục.
Tén Tằn, ngày 6 tháng 9 năm 2014
(Cao Xuân Hợi)



×