Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

“Vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.31 KB, 28 trang )

mở đầu
Trải qua 30 năm (1986 - 2016), công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc do
Đảng ta khởi xớng, lãnh đạo, đợc nhân dân đồng tình hởng ứng, đã đạt đợc
những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đờng
lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội
của nớc ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ đổi mới mà nớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh
tế tăng trởng nhanh, cơ sở vật chất đợc tăng cờng, đời sống của các tầng lớp
nhân dân không ngừng đợc cải thiện. Đổi mới làm thay đổi gần nh tất cả mọi
mặt đời sống kinh tế đất nớc. Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến nay đã
có rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu t,
chính sách tiền tệ và ngoại thơng. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động
lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất đa kinh tế đất nớc
tăng trởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987.
Xét riêng về kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà
nớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế t nhân đều đợc khuyến khích
phát triển không hạn chế; thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế
nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hớng mạnh về
xuất khẩu, thứ ba, tăng trởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm
nghèo và giải quyết công ăn việc làm là 2 u tiên trọng tâm; thứ t, cùng với đổi
mới kinh tế đã từng bớc đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý quan
điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nớc ta
hiện nay.
1



Trong giới hạn của một tiểu luận triết học, tôi xin phân tích nội dung
“Vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới ở nước ta”.
Do thời gian học tập, nghiên cứu và nhận thức của bản thân còn hạn chế
nên những nội dung trình bày có thể chưa thật hoàn chỉnh. Học viên mong
muốn nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy cô giảng viên để vấn đề
nghiên cứu trong tiểu luận và nhận thức của bản thân được hoàn thiện hơn.

2


NI DUNG
I. Một số vấn đề về quan điểm toàn diện
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận của quan điểm
toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự qui định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
sự vật, của một hiện tợng trong thế giới.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tợng là khách
quan, là vốn có của mọi sự vật hiện tợng. Ngay cả những vật vô tri vô giác
cũng đang ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật hiện tợng
khác nhau (nh ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm) tự nhiên, dù muốn hay không,
cũng luôn luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tợng khác. Đó là tính khách
quan của mối liên hệ.
Ngoài ra, mối liên hệ vốn có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên
hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tợng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tợng
khác, không có sự vật hiện tợng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại
ngày nàykhông có một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với các quốc

gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt Nam ta khi tham gia
tích cực vào các tổ chức nh ASEAN, hay sắp tói đây là WTO cũng không
ngoài mục đích là quan hệ, liên hệ, giao lu với nhiều nớc trên thế giới.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dới những hình thức riêng biệt cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
3


c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
về sự phát triển rút ra phơng pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện
thực. Đó chính là quan điểm toàn diện.
Vì bất cứ sự vật nào, hiện tợng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật hiện tợng ta phải
xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó với sự vật khác hay nói cách
khác chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ
xét sự vật hiện tợng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về
tính qui luật của chúng.
2. Nội dung của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật đó với
các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên
cơ sở đó chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện không chỉ đòi hỏi chúng ta nắm bắt những cái hiện
đạng tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hớng phát triển tơng lai của
chúng, phải thấy đợc những biến đổi đi lên cũng nh những biến đổi có tính

chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra
khuynh hớng biến đổi chính của sự vật.
3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con ngời
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tợng từ nhiều khía
cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tợng từ nhiều khía cạnh từ mối liên
hệ với sự vật hiện tợng khác sẽ giúp con ngời có nhận thức sâu sắc, toàn diện
4


về sự vật và hiện tợng đó tránh đợc quan điểm phiến diện về sự vật và hiện tợng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất qui luật chung của
chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phơng pháp tác động phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả coa nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong
nhận thức và hành động chúng ta cần lu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
mối liên hệ trong điều kiện xác định.
II. Quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trớc đổi mới
Sau khi đất nớc đợc giải phóng (năm 1976) và đất nớc thống nhất năm
(1976). Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc đợc áp dụng trên
phạm vi cả nớc. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế,
Nhà nớc đã đầu t khá lớn nhng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí
nên trong 5 năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trởng kinh tế chậm chạp chỉ
đạt 0,4%/năm (kế hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hớng giảm sút và
rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện ở các mặt.
Kinh tế tăng trởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm
lần thứ hai và ba không đạt đợc. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm
1976 - 1980 đều không đạt đợc, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp.
Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, l ơng
thực, chăn nuôi lợn, than, nhà ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng
rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá học, thép).

Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém,
thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ
thuật của những năm 1960 trở về trớc) lại chỉ phát huy đợc công suất ở mức 50%
là phổ biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng đợc nhu cầu tối thiểu; công
nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao

5


động vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công
lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm
trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tơng xứng vói sức lao động và vốn đầu
t bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn
bên nogài ngày càng lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ
tiêu dùng phải dựa vào nguồn nớc ngoài (riêng lơng thực phải nhập 5,6 triệu
tấn trong thời gian 1976 - 1980. Năm 1985 nợ nớc ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup USD cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản xuất ngày càng sâu.
Phân phối lu thông bị rối ren. Thị trờng tài chính, tiền tệ không ổn định.
Ngân sách Nhà nớc liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%,
1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi cả nớc, lạm
phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời sống
nhân dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật
tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nớc ta bị
khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
Trớc tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xớng lãnh đạo thực
hiện công cuộc đổi mới.
2. Nội dung của đổi mới
Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản về
vấn đề cải tạo XHCN và đa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế.

Vậy nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN.
2.1. Xây dựng nền kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trờng ở Việt
Nam, gồm 3 cơ sở chính:
6


Trong nền kinh tế nớc ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu t nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở
hữu t bản t nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập,
lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng
quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn đợc phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phơng
cũng ngày càng phát triển sự phát triển của phân công lao động đợc thể hiện ở
tính phong phú, đa dạng và chất lợng ngày càng cao của sản phẩm đa ra trao
đổi trên thị trờng.
Quan hệ hàng hoá, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại
đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vĩ mô nớc là một quốc gia riêng biệt, là ngời chủ sở hữu đối với các hàng hoá đa ra tra
đổi trên thị trờng thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Mặt khác xây dựng kinh tế thị trờng còn nhiều tác dụng to lớn đối với
nền kinh tế Việt Nam.
+ Nền kinh tế nớc ta khi bớc vào thời kì quá độ lên CNXH mang nặng
tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế
tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản
xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những ngời sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất
phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để giảm chi phí nhờ đó có thể

cạnh tranh về giá cả. Quá trình đó thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng
cao năng suất lao động xã hội.
+ Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh
tế kích thích việc nâng cao chất lợng, cải tiến mẫu mã cũng nh tăng khối lợng
hàng hoá và dịch vụ. Sự phát triển của kinh tế chuyên môn hoá sản xuất. Vì
7


thế phát huy đợc tiềm năng và lợi thế của từng vùng, cũng nh lợi thế của đất nớc có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nớc ngoài.
+ Sự phát triển của kinh tế thị trờng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao;
đồng thời chọn lọc đợc những ngời sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội
ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng vào nhu cầu phát
triển của đất nớc.
Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trờng là một tất yếu kinh tế với nớc ta,
một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nớc ta thành
nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đờng đúng đắn để phát triển lực lợng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng
của đất nớc vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.2. Giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trờng định hớng XHCN
ở Việt Nam
a. Thực hiện nhất quá chính sách kinh tế nhiều thành phần
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN và đa
ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: "Đi đôi với việc phát triển
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cờng nguồn tích luỹ tập trung của
Nhà nớc và tranh thủ vốn nớc ngoài cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế khác".
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và xuất
phát từ thực trạng kinh tế nền kinh tế Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình
thức sản xuất kinh doanh theo qui mô thích hợp với từng khâu của quá trình
tái sản xuất và lu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh

tế. Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lợc để giải phóng sức sản xuất
và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc
8


Là thành phần nắm giữ một khối lợng lớn tài sản cố định và vốn lu động,
với gần 3 triệu lao động tạo ra khoảng 35 - 40% tổng sản phẩm xã hội và đóng
góp trên 50% ngân sách Nhà nớc. Trong nhiều ngành công nghiệp, các xí
nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ 70 - 100% sản lợng. Tuy nhiên các xí
nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở kinh doanh yếu kém
và không có hiệu quả thua lỗ hoặc không có lãi. Vì vậy đổi mới các xí nghiệp
quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp Nhà nớc) là một trong những nội
dung quan trọng trong quá trình đổi mới và đợc thực hiện từng bớc với các
biện pháp:
+ Từng bớc mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nớc đi đôi với
xoá bỏ chế độ Nhà nớc bao cấp tài chính, cung ứng và bao cấp giá vật t và
định giá đối với hầu hết các sản phẩm do DNNN sản xuất và tiêu thụ. Chế độ
quốc doanh cũng đợc bãi bỏ thay vào đó là chế độ thuế.
+ Sắp xếp lại DNNN theo hớng giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sát nhập các doanh nghiệp có liên quan với nhau về
công nghệ và thị trờng. Tổ chức lại công ty và các liên hiệp công nghiệp đợc
thành lập trớc đây thành lập các Tổng công ty mới, trong đó Nhà nớc bổ
nhiệm Hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách nhiệm trớc nhà nớc về kết
quả hoạt động của Tổng công ty.
+ Chuyển sang các hình thức sở hữu khác, cổ phần hoá DNNN bắt đầu
thực hiện thí điểm từ năm 1992, đến năm 1996 mới có 10 doanh nghiệp đựơc
cổ phần hoá.Từ năm 1998 đến năm đến nay Nhà nớc đã thực hiện nhiều biện
pháp thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá, ngoài ra Nhà nớc còn thực
hiện nhiều biện pháp chuyển đổi DNNN sang các hình thức sở hữu và kinh

doanh khác nh: giao, bán, khoán, kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy
mô nhỏ.
+ Sắp xếp đổi mới phát triển DNNN vẫn đợc nghiên cứu và tiếp tục thực
hiện theo hớng đa dạng hoá sở hữu, hoàn thiện thể chế làm cho DNNN có
quyền tự chủ và hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày một nâng cao. Năm 2003,
9


chính phủ bắt đầu thực hiện chuyển đổi DNNN, kể cả các tổng công ty theo
mô hình công ty mẹ - công ty con.
Đổi mới kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác chủ yếu dới các hình thức: Tổ hợp tái tập đoàn sản xuất,
hợp tác xã đợc hình thành trong quá trình cải tạo XHCN đối với những ngời
sản xuất nhỏ cá thể trong nông nghiệp thủ công nghiệp, thơng nghiệp và dịch
vụ. Trong kinh tế hợp tác sở hữu tập thể kiểu chung chung, không phân định
rõ trách nhiệm thêm vào đó là những yếu kém trong quản lý, nên đã bộc lộ
nhiều hạn chế đặc biệt mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã rơi vào khủng
hoảng sâu sắc. Nhiều hợp tác xã tồn tại trên hình thức. Trong thời kỳ đổi mới,
kinh tế hợp tác chuyển theo các hớng sau:
+ Giải thể các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác xã làm ăn kém, thua lỗ
kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức.
+ Giao khoán hoặc nhợng bán t liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp
quản lý, sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình. Hợp tác xã chỉ làm một số
khâu dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm cho xã viên. Đối với các đất đai
trong hợp tác xã nông, lâm nghiệp Nhà nớc vẫn nắm quyền sở hữu nhng giao
cho các hộ gia đình nông dân quản lý, sử dụng với 5 quyền cơ bản: Thừa kế,
cho thuê chuyển đổi, chuyển nhợng và thế chấp (theo luật đất đai ban hành
năm 1993).
+ Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hợp tác xã
cổ phần, hoạt động theo luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).

Phát triển kinh tế cá thể, t nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp.
Trớc khi đổi mới khu vực kinh tế t nhân và cá thể vẫn còn tồn tại ở nớc
ta, chiếm tới 29,1% trong tổng sản phẩm xã hội. Nhng chủ trơng của Nhà nớc
là hạn chế, cải tạo nên khu vực này từng bớc đợc khôi phục và phát triển theo
chủ trơng cải cách của Nhà nớc.
10


Với chủ trơng giao ruộng đất cho xã hội hợp tác xã nông nghiệp thì ở
nông thôn, các hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ hoàn toàn. Sự
tan rã của các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã đã thúc đẩy sự phục hồi rất
nhanh của kinh tế cá thể.
Hiến pháp năm 1992 qui định mọi công dân đợc tự do kinh doanh theo
pháp luật không hạn chế qui mô vốn là số lao động sử dụng. Sau đó hệ thống
luật pháp tiếp tục đợc hoàn chỉnh và nhiều chính sách mới đợc ban hành nhằm
khuýến khích phát triển kinh tế t nhân và kinh tế cá thể.
Các hình thức sở hữu, kinh doanh hỗn hợp mới ra đời. Đặc biệt từ năm
1988, khi Nhà nớc ban hành Luật đầu t nớc ngoài thì các liên doanh với nớc
ngoài phát triển dới nhiều dạng khác nhau, nh là: doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh doanh doanh nghiệp 100% vốn nớc
ngoài, riêng năm 2000 đã có 1063 doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài 2787
doanh nghiệp hỗn hợp.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) ứng dụng nhanh
tiến bộ khoa học công nghệ trên cơ sở đó phân công lao động xã hội.
Phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá vì
vậy để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội
mà sự phân công lao động xã hội do sự phát triển của lực lợng sản xuất quyết
định cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội còn đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền
sản xuất hiện đại.

Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc hậu cơ sở
vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lợng sản xuất cha phát triển,
quan hệ sản xuất XHCN mới đợc thiết lập, cha hoàn thiện vì vậy, quá trình
công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế.

11


Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiệnd
đại phát triển rất nhanh chóng: những thuận lợi và khó khăn về khách quan và
chủ quan, có nhiều thời cơ và thách thức, nền kinh tế của chúng ta đan xen với
nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nớc chúng ta phải chủ động, sáng tạo
nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá tạo ra thế và lực mới để vợt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đa nền
kinh tế tăng trởng phát triển bền vững.
Tác dụng của công nghiệp hoá.
Trớc hết nó có tác dụng thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lợc phát triển kinh tế xã hội
nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với
việc hình thành từng bớc quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ
hơn bản chất u việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất
kỹ thuật cần thiết về con ngời và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nhằm huy động năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trờng sinh thái.
Công nghiệp hoá là cơ sở để củng cố vững chắc khối liên minh giữa giai
cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền

kinh tế độc lập tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công
và hợp tác quốc tế.
Đặc điểm của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay.
Thứ nhất, công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá
sở dĩ nh vậy là vì trên thế giới đang diễn ra đợc cách mạng và khoa học công
nghệ hiện đại, một số nớc phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp
12


sang kinh tế tri thức nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiệnd dại hoá
những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nớc chậm phát triển nhng với
mỗi nớc , mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau ở nớc
ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, tăng cờng sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, công nghiệp hoá trong điều kiện cơ chế thị trờng có sự điều tiết
của Nhà nớc. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay có
sự khác biệt, nó không xuất phát từ chủ quan của Nhà nớc mà nó đòihỏi phải
vận dụng các qui luật khách quan mà trớc hết là các qui luật thị trờng.
Thứ t, công nghiệp hoá trong điều kiện "chiến lợc" kinh tế mở có thể đi
nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ đợc thành tựu của thế giới và sự
giúp đỡ của quốc tế. Tuy nhiên nó cũng gây không ít trở ngại do những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, mà các nớc t bản phát triển thiết lập
không có lợi cho các nớc nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá phải đảm bảo xây dựng nớc ta một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Những nội dung cơ bản của CNH - HĐH ở Việt Nam
Phát triển lực lợng sản xuất - cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành

tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hớng hiện đại hoá hợp lý và hiệu quả cao.
Cơ cấu kinh tế đợc gọi là hợp lý kho nó đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
+ Nông nghiệp phải giảm dần về tỉ trọng, công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ phải tăng về tỉ trọng

13


+ Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hớng tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra nh vũ bão trên thế giới.
+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nớc, của các ngành
các địa phơng, các thành phần kinh tế.
+ Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hớng toàn cầu hoá
kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế đợc tạo dựng phải là cơ cấu.
Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đó là nội dung công nghiệp hoá ở nớc ta, mà cụ thể hơn nội dung của
công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hiện đại hoá ở nớc ta trong những năm trớc
mắt:
+ Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
+ Phát triển công nghiệp hoá chú trọng các ngành: nghề chế biến lơng
thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu công nghiệp điện tử
và công nghiệp thông tin.
+ Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ
tầng, vật chất của nền kinh tế.
+ Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ.
+ Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ
b. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đại hội VI đã chỉ rõ:"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ
vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát
triển kinh tế đối ngoại". Thực hiện chủ trơng đó, Nhà nớc đã ban hành chinhs

ách "mở cửa" để thu hút vốn và kỹ thuật nớc ngoài, từng bớc gắn nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trờng trong nớc với thị trờng quốc tế trên
nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và
an ninh quốc gia.
14


Về ngoại thơng, cải cách ngoại thơng đợc thực hiện theo hớng từng bớc
mở cửa và hội nhập quốc tế.
Chủ trơng của Đảng và Nhà nớc là: Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu
cầu nhập khẩu, coi xuất khẩu là một trong 3 chơng trình trọng điểm của chặng
đờng đầu tiên, là hớng u tiên của kinh tế đối ngoại trong suốt thời kỳ đổi mới.
Các giải pháp cụ thể là:
+ Nhà nớc xoá bỏ bao cấp bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu đối với
các DNNN từ cuối năm 1987 các doanh nghiệp này phải tự hạch toán kinh
doanh sao cho có hiệu quả.
+ Nhà nớc bỏ nguyên tắc độc quyền ngoại thơng (từ năm 1990)
+ Điều chỉnh tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu. Từ năm 1991
chế độ 2 tổ quốc đợc xoá bỏ, chuyển sang thực hiện tỷ giá linh hoạt có quản lý
củ Nhà nớc.
Tăng cờng thu hút vốn đầu t nớc nogài
Năm 1987, Nhà nớc ban hành luật đầu t nớc ngoài, sau đó đợc bổ sung
và sửa đổi nhiều lần nhằm hấp dẫn các nhà đầu t.
Nhà nớc tạo môi trờng thuận lợi cho các nhà đầu t nớc ngoài nh đơn giản
hoá thủ tục hành chính, xây dựng các khu chế xuất, cơ sở hạ tâng thuận tiện.
Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh hoạt động thơng mại quốc tế và
thu hút đầu t của nớc ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để
phát triển kinh tế.
c. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế của Nhà nớc

Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không
tạo đợc động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tợng tiêu cực trong xã hội. Do
đó, đại hội VI đã chủ trơng đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực
15


chất của cơ chế mới đó là: "Cơ chế kế hoạch hoá theo hớng phơng thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ".
Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý
ở nớc ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục làm rõ
nội dung và phơng thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hớng "xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng XHCN". Điều đó thực chất là quá trình đổi mới cả hệ
thống các công cụ, chính sách quản lý và tăng cờng chức năng quản lý của
Nhà nớc.
3. Những thành tựu sau 26 năm đổi mới
3.1. Nền kinh tế tăng trởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao
Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 cho đến nay nền kinh tế Việt
Nam luôn có nhịp độ tăng trởng dơng, đặc biệt đã đạt đợc tốc độ tăng trởng
nhanh và liên tục trong suốt thời gian từ 1986-1997.
Trong 5 năm đầu đổi mới (1986-1990), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần,
các doanh nghiệp Nhà nớc và các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực
kinh tế t nhân và cá thể cha phát triển nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn
định, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng năm 1986 đạt 0,3%) và lạm phát cao
kéo dài. Nhng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nớc ta liên tục tăng trởng ổn định và
đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm
(1991-1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vợt mức nhiều chỉ tiêu của kế
hoạch này. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhận định: "Nớc ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhng một số mặt còn cha vững chắc. Nhiệm
vụ đề ra cho chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ và chuẩn bị tiền đề cho công

nghiêp hoá đã hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc.
Tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1996-2000) và
chiến lợc kinh tế 10 năm (1991-2000) đều đạt và vợt kế hoạch; GDP trong 10
16


này tăng bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ vậy GDP năm 2000 đã gấp 2,07
lần năm 1990. Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trởng châm hơn trớc
(5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng
với thiên tai xảy ra trong nhiều vùng trên cả nớc. Tuy nhiên đến năm 20002002 tốc độ tăng trởng lại tăng lên đạt 6,7%; 68% và 70% đặc biệt năm 2005
là 8,0% đa tốc độ tăng trởng bình quân trong 5 năm 2001-2005 từ 7,5%.
3.2. Thnh tu 10 thc hin chin lc phỏt trin kinh t - xó hi
(2001 2010)
+ Nn kinh t vt qua nhiu khú khn, thỏch thc, kinh t v mụ c bn
n nh, duy trỡ c tc tng trng khỏ, tim lc v quy mụ nn kinh t
tng lờn, nc ta ó ra khi tỡnh trng kộm phỏt trin
Tc tng trng kinh t bỡnh quõn 5 nm t 7%. Tng vn u t
ton xó hi gp 2,5 ln so vi giai on 2001 - 2005, t 42,9% GDP. Mc dự
khng hong ti chớnh v suy thoỏi kinh t ton cu, nhng thu hỳt vn u t
nc ngoi vo nc ta t cao. Quy mụ tng sn phm trong nc (GDP)
nm 2010 tớnh theo giỏ thc t t 101,6 t USD, gp 3,26 ln so vi nm
2000; GDP bỡnh quõn u ngi t 1.168 USD. Hu ht cỏc ngnh, lnh vc
ca nn kinh t u cú bc phỏt trin khỏ. S phỏt trin n nh trong ngnh
nụng nghip, nht l sn xut lng thc ó bo m an ninh lng thc quc
gia. Kinh t nụng thụn v i sng nụng dõn c ci thin hn trc. Vic
tp trung u t xõy dng kt cu h tng nụng thụn, u t, phỏt trin ging
mi cú nng sut, cht lng cao, phỏt trin cỏc cm cụng nghip, lng ngh,
tiu th cụng nghip... ó cú tỏc ng tớch cc n vic sn xut, to vic lm
v xoỏ úi, gim nghốo. Sn phm cụng nghip phỏt trin ngy cng a dng

v phong phỳ v chng loi, cht lng c ci thin, tng bc nõng cao
kh nng cnh tranh, m bo cung cu ca nn kinh t, gi vng th trng
trong nc v m rng th trng xut khu. ó u t phỏt trin mt s
ngnh cụng nghip mi, cụng ngh cao. Khu vc dch v cú tc tng

17


trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực[1].
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể
chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn;
môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các
loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có
bước phát triển mạnh. Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các
tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, doanh
nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so
với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh phổ biến.
+ Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực
xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước
cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các
nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm.
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh,
thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua
đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Hoạt động

nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới,
thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị
trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công
nghệ được nâng lên.

18


Giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với
người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực.
Trong 5 năm, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất
nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công
tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức
hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng
tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở
rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân
dân. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" từng bước đi
vào chiều sâu.
Nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên. Việc phòng ngừa, khắc
phục suy thoái, ô nhiễm môi trường được quan tâm và đạt một số kết quả tích
cực. Công tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học có tiến bộ. Chương
trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu bước đầu được triển khai.
+ Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ
nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc

phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung
yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh
được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được
chú trọng hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây
dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực
sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham
19


mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà
bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh
ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội
phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội
phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí
nóng, chống người thi hành công vụ; tham gia tích cực, có hiệu quả vào các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng,
chống và khắc phục thiên tai.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp
phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng
giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành
phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống mốc biên
giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với
Campuchia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ
với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên
quan. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc
tế; đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành
công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước

Đông Nam á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng
cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân
tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả
tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn
về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp
định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan
trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan
trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
20


của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát
huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị
có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền
lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại
ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở
rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp
tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội
viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết
thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực
vào những thành tựu của đất nước.
+ Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát
21


đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước. Việc
thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách
nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực
chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của
Quốc hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách
nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm
đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý,
điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý
vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp
tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính
thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức
bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc
tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu có

kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được
tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ
đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử.
Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết
quả tích cực

22


Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào
tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng
hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập
trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan
điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt động
thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn
ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích.
Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân
dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo

trong đời sống xã hội.
Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ.
Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn
theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây dựng, bổ sung các quy định
về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ
chức; ban hành nhiều quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính
trị. Tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định rõ hơn tổ chức và hoạt động các đảng
đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung ương
và cấp tỉnh, ban cán sự đảng và mô hình tổ chức đảng ở các đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Chính phủ.
Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể
chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy định. Đã triển khai tương đối đồng
bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
23


luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó công tác
quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực.
Tăng cường phân cấp trong công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về
số lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú
trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng
yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở
đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất
lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp
hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng
viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước. Sau hơn hai năm
triển khai thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân, đã có

nhiều đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia phát
triển kinh tế tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng góp tích cực
vào phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm
chỉ đạo; tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng
nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu
quả được nâng lên. Cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết quả việc
kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các chương trình, dự án; quản
lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên
có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật,
kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm
24


quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan
uỷ ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm rõ.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng
được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường
vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở,
gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là

giai đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
năm 2010 so với năm 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim
ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.
Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi
mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của
nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ
vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.

25


×