Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) TỚI QUAN HỆ LAO ĐỘNG TẠI TẬP ĐOÀN TẬP ĐOÀN VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI (VIETTEL)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.07 KB, 16 trang )

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (TPP) TỚI QUAN HỆ LAO ĐỘNG TẠI TẬP ĐOÀN TẬP
ĐOÀN VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI (VIETTEL)
MỞ ĐẦU
Với việc gia nhập WTO ngày 11/1/2007, Việt Nam đã tiến một bước dài
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nếu như việc gia nhập WTO
năm 2007 có thể được xem là bước hội nhập “theo chiều rộng” với những cam kết
mở cửa ở mức độ tương đối áp dụng chung cho tất cả 150 thành viên của WTO thì
việc ký kết các Thỏa thuận trong Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) giữa Việt Nam với các đối tác trong Hiệp định là hình thức hội nhập “theo
chiều sâu” trong đó các cam kết mạnh mẽ hơn, ở nhiều lĩnh vực hơn và do đó mức
độ tác động tới tương lai không chỉ ở riêng phát triển nền kinh tế mà còn là thực
hiện các quy ước về Lao động
Sự kiện Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) như một bước ngoặt lịch sử lớn trong sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội
ở Việt Nam. Việc tham giá Hiệp định TPP, một trong những điểm khó nhất đối với
Việt Nam không phải lộ trình giảm thuế, sức ép dối với những nghành kinh tế mà
chính là đổi mới quan hệ lao động theo yêu cầu mới. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến riêng việc thay đổi pháp luật, các quy định của nhà nước mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến tổ chức công đoàn, đến quan hệ lao động trong doanh nghiệp.
Điều này được Quy định rõ nhất trong chương 19 Lao động của Toàn Văn Hiệp
định TPP. Do đó, em chọn đề tài “PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) TỚI QUAN HỆ LAO
ĐỘNG TẠI TẬP ĐOÀN TẬP ĐOÀN VIỄN THÔNG QUÂN ĐỘI (VIETTEL) “
nhằm làm rõ những tác động của Hiệp TPP đến quan hệ lao động tại Tập đoàn viễn
thông Quân đội Viêt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện bài Tiểu luận, em xin chân thành cảm ơn Th.S Lê
Thúy Hà giảng viên trường Đại Học Lao động – Xã hội. Em rất mong nhận được
những phản hồi, đánh giá và góp ý của cô để em có thể hoàn thành tốt nhất bài tiểu
luận
Xin chân thành cảm ơn!



1. Cơ sở lý luận


1.1 Khái quát chung về Quan hệ lao đông trong kinh tế
1.1.1 Khái niệm quan hệ lao động
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Bộ luật Lao động thì quan hệ lao động
được hiểu: “Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử
dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”. ( Bộ
luật Lao động, NXB Lao động – Xã hội, 2014)
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa quan hệ lao động là “
Những mối quan hệ cá nhân và tập thể giữa những người lao động và sử dụng lao
động tại nơi làm việc, cũng như các mối quan hệ giữa các đại diện của họ với Nhà
nước. Những mối quan hệ như thế xoay quanh các khía cạnh luật pháp, kinh tế, xã
hội học và tâm lý học và bao gồm cả những vấn đề như tuyển mộ, thuê mướn, sắp
xếp công việc, đào tạo, kỷ luật, thăng chức, buộc thôi việc, kết thúc hợp đồng, làm
ngoài giờ, tiền thưởng, phân chia lợi nhuận, giáo dục, y tế, vệ sinh, giải trí, chỗ ở,
chỗ làm việc, nghỉ ngơi, nghỉ phép, các vấn đề phúc lợi cho người thất nghiệp, ốm
đau, tai nạn, tuổi cao và tàn tật” ( David Macdonal & Caroline Vandenabieele,
Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm liên quan)
PGS.TS Nguyễn Tiệp, Trường Đại học lao động xã hội cho rằng “ Quan hệ
lao động là hệ thống các mối quan hệ giữa các cá nhân hay tổ chức đại diện của
người lao động với các cá nhân hay tổ chức đại diện của người sử dụng lao động
hoặc giữa các tổ chức dại điện của họ với Nhà nước và các chủ thể khác. Những
mối quan hệ này diễn ra xoay quanh quá trình thuê mướn lao động ( giữa người sử
dụng lao động và người lao động ) nhằm đảm bảo dự hài hòa và ổn định giữa các
bên liên quan. ” (Nguyễn Tiệp, Quan hệ lao động, NXB Lao động – Xã hội, 2008)
Tổng hợp các luồng tư tưởng, các định nghĩa khác nhau về QHLD cho thấy
chúng ta có cùng một các hiểu thống nhất là “QHLĐ là hệ thống những mối quan
hệ giữa NLĐ và NSDLĐ tại nơi làm việc hay giữa các tổ chức đại diện cảu họ với

nhau hay nhà nước. Những mối quan hệ như vậy được chi phối bởi lợi ích và xoay
quanh các vấn đề phát sinh từ hoạt động thuê mướn lao động“ ( Nguyễn Duy Phúc,
Các nguyên lý quan hệ lao động, NXB Lao động – Xã hội, 2012)
1.1.2 Chủ thể trong quan hệ lao động
Các chủ thể QHLĐ là những cá nhân hay tổ chức tham gia vào quan hệ lao
động ở các cấp khác nhau như cấp quốc gia, cấp địa phương, cấp ngành và cấp
doanh nghiệp. Có 3 chủ thể chính tham gia vào các mối quan hệ này là:
- NLĐ và tổ chức đại diện của họ ( Công đoàn, nghiệp đoàn)


- NSDLĐ và tổ chức đại diện của họ (Liên đoàn giới chủ sử dụng lao
động…)
- Nhà nước
Trên phạm vi quốc gia các chủ thể này còn được gọi là các đổi tác xã hội
trong QHLĐ
1.1.3 Bản chất của quan hệ lao động
QHLĐ có những bản chất cơ bản sau
- Bản chất kinh tế của QHLĐ
- Bản chất xã hội của QHLĐ
- Bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn của QHLĐ
- Bản chất vừa bình đẳng vừa không bình đẳng của QHLĐ
- Bản chất cá nhân và tập thể của QHLĐ
1.1.4 Các nguyên tắc chủ yếu trong xác lập và vận hàng quan hệ lao động
Tôn trọng của các bên QHLĐ
Hợp tác trong QHLĐ
Gỉai quyết vấn đề bằng thương lượng
Các bên tham gia QHLĐ phải có tính độc lập tương đối
1.1.5 Phân loại quan hệ lao động
Theo chủ thế có: Quan hệ hai bên và quan hệ ba bên
Theo biểu hiện của nội dung QHLĐ có: Qun hệ việc làm, học nghề, bảo

hiểm xã hội…
Theo trình tự của QHLĐ có: Qaun hệ trước LĐ, quan hệ trong Lao động và
quan hệ sao lao động
Theo cấp quan hệ có: QHLĐ cấp doanh nghiệp, QHLĐ cấp ngành, QHLĐ
cấp quốc gia, QHLĐ cấp quốc tế
1.2 Khái quát chung về Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương ( TPP)
1.2.1 Lịch sử


Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific
Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự
do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New
Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. ( Trang web Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
/>Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealand và
Singapore ký vào ngày 3 tháng 06, 2005 và có hiệu lực ngày 28 tháng 05, 2006.
Sau đó, thêm 5 nước đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia,
Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam. Ngày 14 tháng 11, 2010, ngày cuối cùng của Hội nghị
thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản)
đã tán thành lời đề nghị của tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu của các
cuộc đàm phán thuộc Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ.
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer
Economic Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ
tướng Singapore Goh Chok Tong và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra
thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los
Cabos, Mexico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng 04
năm 2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hoặc P4).
Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập
khẩu giữa các nước thành viên trước ngày 1 tháng 1, 2006 và cắt giảm bằng không

tới năm 2015. Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính
của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về
xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, chính
sách của các chính quyền...
Tiến trình đàm phán cho hiệp định bị trì hoãn nhiều lần do thiếu tiếng nói
chung xoay quanh nhiều vấn đề như: giảm thuế xuất-nhập khẩu, bảo trợ hàng hóa
nội địa, quyền sở hữu trí tuệ v.v...Ngày 5 tháng 10 năm 2015 tại Atlanta, Hoa Kỳ,
tiến trình đàm phán hiệp định đã kết thúc thành công.
Theo bảng 1, hiện thời TPP có 12 thành viên chính thức bao gồm Úc, Brunei,
Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ,
Việt Nam.


ST
T

Quốc gia

1 Singapore
New
2 Zealand
3 Chile
4 Brunei
5 Nhật Bản
6 Hoa kỳ
7 Úc
8 Việt Nam
9 Peru
10 Mexico
11 Canada

12 Malaysia
13 Đài Loan
14 Thái Lan
15 Philipines
16 Indonexia
17 Hàn Quốc
18 Colombia

Trại thái
Sáng lập
Sáng lập
Sáng lập
Sáng lập
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Kết thúc đàm phán
Ngỏ ý muốn tham
gia
Ngỏ ý muốn tham
gia
Ngỏ ý muốn tham
gia
Ngỏ ý muốn tham
gia
Ngỏ ý muốn tham

gia
Ngỏ ý muốn tham
gia

Ngày bắt
đầu đàm
phán
06/2015
06/2015
06/2015
06/2015
03/2013
02/2008
11/2008
11/2008
11/2008
10/2012
10/2012
10/2011

Ngày ký kết
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016

04/02/2016
04/02/2016
04/02/2016

Bảng 1: Qúa trình đàm phán của các thành viên Hiệp định thương mại xuyên Thái
Bình Dương ( Nguồn Trang web Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
/>1.2.2 Phạm vi điều chỉnh của TPP
Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement - TTP) là hiệp định thương mại tự do
nhiều bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ hai với mục
tiêu thiết lập một mặt bằng tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Việt Nam đã tuyên bố tham gia TPP với tư cách là thành viên đầy đủ từ
ngày 13/11/2010.


Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) luôn yêu cầu mức độ cam kết mở
cửa sâu rộng hơn các cam kết mở cửa trong Hiệp định thương mại thông thường.
Theo FTA, các nước sẽ thực hiện lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Theo
thống kê của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), trên thế giới có hơn 200 FTAs
có hiệu lực, trong đó 12 nước đang tham gia đàm phán TPP cũng đang ràng buộc
với nhau thông qua một hệ thống trên 30 thỏa thuận thương mại song phương và
đa phương.
Thực tiễn hội nhập và toàn cầu hóa hoạt động thương mại trên thế giới đã
chứng kiến 03 thế hệ FTA, bao gồm:
- FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng
hóa (cắt giảm thuế quan, loại bỏ các rào cản phi thuế quan);
- FTA thế hệ thứ hai mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ
nhất định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên
quan);

- FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư.
Các FTA trong thời gian gần đây chứng kiến một xu hướng mới là không
chỉ những đề cập đến những lĩnh vực thương mại mở cửa mà cả những vấn đề phi
thương mại như lao động, môi trường cũng được đưa vào đàm phán và ký kết.
Hiệp định TPP đang được đàm phán theo xu hướng này. Phạm vi điều chỉnh của
Hiệp định này dự kiến sẽ rất rộng và phức tạp, với các vấn đề thương mại và phi
thương mại đan xen. Bản thân 4 nước tham gia sớm nhất vào Hiệp định là: Xinhga-po, Chi- lê, Niu Di-lân, Bru-nây đã có những cam kết mạnh mẽ về thuế quan và
nhiều vấn đề phi thuế quan. Mục tiêu ban đầu của TPP là giảm 90% các loại thuế
xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên trước ngày 1/1/2006 và cắt giảm bằng 0%
tới năm 2015.
Nhìn chung, TPP được đánh giá là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, có phạm vi đàm phán rất rộng và rất phức tạp, được thực hiện với lộ trình rất
ngắn. TPP đang tiếp tục phát triển từ 4 nước ban đầu lên 12 nước hiện đang tham
gia đàm phán và trong tương lai số đối tác sẽ tăng thêm, nên chắc chắn phạm vi
điều chỉnh của TPP sẽ còn lớn hơn nữa.
Hiệp định TPP được kỳ vọng là một “FTA của thế kỷ XXI” với phạm vi
điều chỉnh rộng, cùng với xu hướng đàm phán tự do mạnh mẽ được cụ thể hóa trên
những lĩnh vực sau:


- Thuế quan: Cắt giảm hầu hết các dòng thuế (ít nhất 90%), thực hiện ngay
hoặc thực hiện với lộ trình rất ngắn.
- Dịch vụ: Tăng mức độ mở cửa các loại dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài
chính.
- Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo
vệ nhà đầu tư.
- Quyền sở hữu trí tuệ: Tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao
hơn so với các mức trong WTO (WTO+).
- Các biện pháp về xác định các thành viên có thể hoặc không thể áp đặt các
hạn chế đối với những hàng hóa nhập khẩu nhất định (SPS), hàng rào kỹ thuật

thương mại (TBT): siết chặt các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và rào cản kỹ thuật.
- Cạnh tranh và mua sắm công: tăng cường cạnh tranh, đặc biệt trong lĩnh
vực mua sắm công và nhiều lĩnh vực khác.
1.2.3 Các đặc điểm nổi bật của TPP
Đàm phán một hiệp định với quy mô và tham vọng như Hiệp định TPP là
một công việc phức tạp và tốn nhiều thời gian. Tuy nhiên, quan chức cấp cao của
các nước tham gia đàm phán đều tin tưởng rằng việc xây dựng thành công Bản mô
tả các lĩnh vực đàm phán chính của hiệp định sẽ tạo cơ sở và động lực cần thiết để
khả dĩ kết thúc thành công hiệp định. Các đặc trưng góp phần làm nên hiệp định
mang tính lịch sử này bao gồm:
- Tiếp cận thị trường một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó
xóa bỏ thuế quan và các hàng rào khác đối với thương mại và đầu tư giữa các nước
thành viên, tạo ra và duy trì việc làm ngày càng nhiều.
- Là một hiệp định khu vực, các nước tham gia TPP nhất trí xây dựng một
biểu thuế thống nhất cũng như các quy tắc xuất xứ chung để giúp các doanh nghiệp
tận dụng được hiệp định một cách dễ dàng hơn.
- Các vấn đề thương mại xuyên suốt quá trình hình thành khung hiệp định
trên cơ sở những thỏa thuận đã thực hiện trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn
khác và bằng việc đưa vào Hiệp định TPP 4 vấn đề mới và mang tính xuyên suốt
bao gồm:
Gắn kết môi trường chính sách cụ thể của từng quốc gia;


Tăng cường năng lực cạnh tranh và tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế các nước thành viên;
Cam kết giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ để những
doanh nghiệp này tìm được lợi thế trong TPP;
Hướng chính sách thương mại vào việc giảm nghèo, tăng cường trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp.
- Các công nghệ mới sẽ tạo ra những cơ hội mới cho thương mại và đầu tư

giữa các nước thành viên, đồng thời cũng làm nảy sinh những vấn đề tiềm ẩn cần
giải quyết trong hiệp định này để có thể thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ
và đảm bảo tất cả nền kinh tế của tất cả các nước TPP đều được hưởng lợi.
- TPP thực hiện cơ chế mở, theo đó, trong tương lai, những nước quan tâm
có thể tham gia đàm phán gia nhập. Nói cách khác, mục tiêu cuối cùng của Hiệp
định TPP là mở rộng cho các quốc gia khác trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương.
Tính mở của TPP có ưu điểm là chỉ bằng đàm phán TPP, một nước có thể
cùng có FTA với nhiều nước đối tác. Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn vì
càng nhiều nước tham gia càng khó đạt được sự nhất trí và kéo dài thời gian đàm
phán.
2 Tác động của hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) tới quan
hệ lao động tại Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL)
2.1 Giới thiệu chung về Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL)
Tên Công ty: Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL)
Trụ sở chính: Số 1 Trần Hữu Dực, Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt
Nam
Điện thoại: 04. 62556789
Fax: 04. 62996789
Email:
Website: www.viettel.com.vn


Tập đoàn Viễn thông Quân đội được thí điểm thành lập theo Quyết định số
2078/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/12/2009. Tập đoàn Viễn thông
Quân đội được thành lập trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Tổng công ty Viễn thông
Quân đội và các đơn vị thành viên.
Công ty mẹ - Tập đoàn Viễn thông Quân đội (tên viết tắt là VIETTEL) được
thành lập theo Quyết định số 2079/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
14/12/2009 trên cơ sở tổ chức lại các phòng ban chức năng của Tổng công ty Viễn

thông Quân đội, Công ty Viễn thông Viettel và Công ty Truyền dẫn Viettel.
Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 978/QĐTTg về việc chuyển Công ty mẹ- Tập đoàn Viễn thông Quân đội thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước.
Ngày 30/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 466/QĐTTg phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Viễn thông Quân đội.
Ngày 17/5/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 753/QĐTTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Viễn thông Quân đội giai đoạn 2013 2015.
• Doanh thu (2014): 196.650 tỷ đồng
• Lợi nhuận (2014): 42.224 tỷ đồng
• Nộp ngân sách (2014): 15.981 tỷ đồng
• Nhân lực (2014): 27.000 người
• Khách hàng trên toàn cầu (2014): 75.800.000
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là doanh nghiệp kinh tế quốc phòng
100% vốn nhà nước, chịu trách nhiệm kế thừa các quyền, nghĩa vụ pháp lý và lợi
ích hợp pháp của Tổng Công ty Viễn thông Quân đội. Tập đoàn Viễn thông Quân
đội (Viettel) do Bộ Quốc phòng thực hiện quyền chủ sở hữu và là một doanh
nghiệp quân đội kinh doanh trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông và công nghệ
thông tin. Với một slogan "Hãy nói theo cách của bạn", Viettel luôn cố gắng nỗ lực
phát triển vững bước trong thời gian hoạt động.
Viettel là Tập đoàn Viễn thông và Công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam,
đồng thời được đánh giá là một trong những công ty viễn thông có tốc độ phát triển
nhanh nhất thế giới và nằm trong Top 15 các công ty viễn thông toàn cầu về số


lượng thuê bao. Hiện nay, Viettel đã đầu tư tại 7 quốc gia ở 3 Châu lục gồm Châu
Á, Châu Mỹ, Châu Phi.
Ngành nghề kinh doanh của Tập đoàn Viễn thông Quân đội:
- Ngành, nghề kinh doanh chính: Viễn thông; công nghệ thông tin; phát
thanh, truyền hình; bưu chính, chuyển phát; nghiên cứu, sản xuất thiết bị, sản phẩm
viễn thông, công nghệ thông tin , truyền thông.
- Ngành, nghề kinh doanh có liên quan: Thương mại, phân phối, bán lẻ vật
tư, thiết bị, sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin, truyền thông. Tài chính,

ngân hàng, bất động sản. Đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực phục vụ hoạt động sản
xuất, kinh doanh ở trong nước và nước ngoài của Tập đoàn.
- Ngành, nghề kinh doanh khác theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, được Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận.
Sứ mệnh: Sáng tạo vì con người . Mỗi khách hàng là một con người – một
cá thể riêng biệt, cần được tôn trọng, quan tâm và lắng nghe, thấu hiểu và phục vụ
một cách riêng biệt. Liên tục đổi mới, cùng với khách hàng sáng tạo ra các sản
phẩm, dịch vụ ngày càng hoàn hảo. Nền tảng cho một doanh nghiệp phát triển là
xã hội. VIETTEL cam kết tái đầu tư lại cho xã hội thông qua việc gắn kết các hoạt
động sản xuất kinh doanh với các hoạt động xã hội đặc biệt là các chương trình
phục vụ cho y tế, giáo dục và hỗ trợ người nghèo.
8 Giá trị cốt lõi. Những giá trị cốt lõi là lời cam kết của Viettel đối với khách
hàng, đối tác, các nhà đầu tư, với xã hội và với chính bản thân chúng tôi. Những
giá trị này là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Viettel để trở thành một doanh
nghiệp kinh doanh sáng tạo vì con người.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý.
- Trưởng thành qua những thách thức và thất bại.
- Thích ứng nhanh là sức mạnh cạnh tranh.
- Sáng tạo là sức sống.
- Tư duy hệ thống.
- Kết hợp Đông - Tây.
- Truyền thống và cách làm người lính.


- Viettel là ngôi nhà chung.( Trang web Tập đoàn Viễn thông quân đội
( VIETTEL) />2.2 Tác động của hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (TPP) tới quan hệ
lao động tại tập đoàn Viễn thông quân đội (VIETTEL)
2.2.1 Tác động tích cực của hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (TPP) tới
quan hệ lao động tại tập đoàn Viễn thông quân đội (VIETTEL)
Việt Nam đã ký rất nhiều các hiệp định thương mại, tuy nhiên TPP là hiệp

định thương mại tự do đầu tiên của Việt Nam có các quy định liên quan đến
QHLĐ, điều đó có nghĩa là TPP không chỉ là hàng hóa mà còn bao chùm lên
những người sản xuất hàng hóa đó, đó là lý do mà TPP dành cả Chương 19 để nói
về lao động ( Toàn văn Hiệp định TPP). Trong quá trình đàm phán TPP, một trong
những vấn đề khó nhất của Việt Nam là trường hợp của Viettel, một doanh nghiệp
nhà nước có cả mảng quốc phòng và kinh doanh. Vì nếu muốn thực hiện các cam
kết trong TPP thì QHLĐ là điêu khó thực hiện nhất bởi TPP tác động toàn diện tới
Viettel không chỉ ở các phương diện hoạt động đầu tư, kinh doanh mà còn cả các
vấn đề về QHLĐ. Về mặt thực tiễn, Viettel là một doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh các sản phẩm dịch vụ nghành công nghệ - viễn thông, một ngành rất phát
triển và năng động nên phải thường xuyên quan tâm đến vấn đề QHLĐ tránh xảy
ra các tình trạng tranh chấp lao động và đình công.
Tuy Viettel là một doanh nghiệp nhà nước nhưng Viettel lại có những cơ chế
trả lương, làm việc riêng, khác biệt với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
khác cùng kinh doanh sản phẩm dịch vụ công nghệ Viễn Thông như Tập Đoàn
Bưu chính – Viễn Thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty Thông Tin Di động
Việt Nam (Mobifone). Trên thực tế, theo một thống kê năm 2014 của Anphabe
(mạng cộng đồng nghề nghiệp cấp quản lý) và Công ty nghiên cứu thị trường
Nielsen vừa công bố thì Viettel đứng thứ 8 trong danh sách 100 nơi làm việc tốt
nhất Việt Nam, và cũng là doanh nghiệp nhà nước diuy nhất góp mặt trong Top 10
( Báo Dantri Vì sao Viettel vào danh sách 10 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam
vì vậy, việc tiếp nhận các tiêu chuẩn
mới không hẳn là một thách thức quá lớn đối với Viettel Hiện nay, vấn đề mà
TPP tác động mạnh mẽ nhất đến với QHLĐ tại Viettel là quyền thương lượng của
NLĐ đối với NSDLĐ do sẽ không chỉ có duy nhất 1 tổ chức CĐ đứng ra đại diện
cho NLĐ. Với Viettel là một tập đoàn kinh tế nhà nước lớn thì quy định về QHLĐ
trong TTP giúp Viettel phải thực đồng thời hai mục tiêu lớn vừa nâng cao lợi


nhuận và cải thiện phúc lợi xã hội cho NLĐ, qua đó thúc đẩy và duy trì tính bền

vững của quá trình hoàn thiện QHLĐ. Bởi lẽ, gia nhập TTP có nghĩa là NLĐ có
quyền tự do được thành lập hoặc tham gia các tổ chức CĐ theo ý muốn của mình
và Viettel phải chấp nhận các cam kết trong cuộc chơi này, qua đó thúc đây Viettel
phải đưa ra các kế hoạch, chính sách phát triển để vừa có thể nâng cao lợi nhuận và
vừa phải làm tốt phúc lợi xã hội cho NLĐ. Với tư cách là NSDLĐ việc này sẽ giúp
Viettel phải làm sao để có thể tổ chức đối thoại với tổ chức CĐ đại diện được NLĐ
chọn để nhằm đảm bảo quyền lợi hai bên, chia sẻ thông tin, và cũng là cách để
NLĐ hiểu hơn về Viettel, các chính sách bà tình hình Viettel.
Viettel sẽ có lợi nhuận lớn hơn khi khi áp dụng các quy định về LĐ của TPP
. Theo một cuộc khảo sát của ILO về các hiệp định thương mại cho thấy nếu một
hiệp định thương mại có các điều khoản lao động thì sẽ tăng giá trị thương mại lên
đến 28% so với các hiệp định thương mại không có các điều khoản lao động. Các
điều khoản về lao động chương 19 trong Toàn văn hiệp định TPP xem xét tất cả
các tiêu chuẩn liên quan tới QHLĐ hoặc điều kiện làm việc tối thiểu, các cơ chế
giám sát hoặc tăng cường tuân thủ pháp luật, và khuôn khổ hợp tác. Định nghĩa
này bao phủ một số lượng lớn điều khoản về QHLĐ. TTP quy định chặt chẽ các
vấn đề về lao động sẽ hạn chế các vi phạm các nguyên tắc và quyền cơ bản trong
lao động, giảm bớt tình trạng bất bình đẳng tiền lương, giảm tình trạng thất nghiệp
kéo dài, giảm số vụ đình công cũng như rút ngắn thời gian đình công và góp phần
đảm bảo quyền con người, từ đó, giúp Viettel xây dựng được các quy chế QHLĐ
chặt chẽ.
2.2 Tác động tiêu cực của hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (TPP) tới
quan hệ lao động tại tập đoàn Viễn thông quân đội (VIETTEL)
Ngoài những tác động tích cực, thì các tác động tiêu cực của việc gia nhập
TPP tới QHLĐ tại Viettel là không nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam còn
thiếu nhiều các chính sách pháp luật về LĐ, điều này có nghĩa là các thông tin của
TPP về QHLĐ tại Viettel còn thiếu và mập mờ. Bởi lẽ khi Việt Nam tham gia TPP,
ngoài việc phải áp dụng các tiêu chuẩn về lao động của ILO, thì Vietel phải áp
dụng nhiều tiêu chuẩn cao hơn nữa của TPP. Trong đó, đáng lưu ý là “đảm bảo các
điều kiện lao động chấp nhận được”, bao gồm tiền công tối thiểu, thời giờ làm

việc, an toàn vệ sinh lao động… Điều này, vô hình chung sẽ làm cho việc xây
dựng các quy chế về QHLĐ của Viettel phải có lộ trình cụ thể, phù hợp với
chương 19 về Lao động trong Toàn Văn Hiệp định TPP.


Các nội dung trong cam kết trong TPP như: đảm bảo quyền tự do lập hội,
đảm bảo quyền thương lượng tập thể, xóa bỏ lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối
xử nam nữ… đều được quy định trong pháp luật về lao động của Việt Nam. Tuy
nhiên, dù đã có những cơ thế riêng biệt nhưng về QHLĐ thì việc tuân thủ tuyệt đối
các tiêu chuẩn LĐ của TPP là một thách thức không nhỏ đối với Viettel. Do Viettel
là một tập đoàn lớn, theo thống kê năm 2014 thì số lao động làm việc tại Viettel là
khoảng 27000 người, trong khi đó trình độ của người lao động không đồng đều sẽ
tạo ra thách thức trong quản lý LĐ tại tập đoàn. Một trong những trở ngại lớn

của Viettel khi tham gia TPP là thị trường lao động ở nước ta vẫn chưa phát
triển. Cung cầu về lao động chưa được giải quyết khiến việc giải quyết mối
quan hệ giữa lao động và việc làm bị ách tách bởi nguồn nhân lực và khả
năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để thực hiện. Thị trường
lao động vẫn đang chập chững những bước đi đầu tiên và gần như hoàn toàn
tự phát.
Một vấn đề quan trọng khác có tác động lâu dài và ảnh hưởng lớn đến
Viettel là quy định của TPP về quyền thành lập tổ chức đại diện của người lao
động. Viettel buộc phải tôn trọng và không được ngăn cản quyền của NLĐ trong
việc thành lập và gia nhập tổ chức của NLĐ. Không giống như tổ chức CĐ vừa do
chủ doanh nghiệp hỗ trợ về tài chính, vừa có trách nhiệm thực hiện chủ chương,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa bảo vệ quyền lợi của người lao
động, mô hình tổ chức mới đại diện cho người lao động sẽ bảo vệ trực tiếp, riêng
biệt và hiệu quả cho những quyền lợi của người lao động mà trước đây vì lí do
ràng buộc về tài chính hay trách nhiệm chính trị nào đó mà tổ chức công đoàn chưa
thực sự là công cụ hữu hiệu đấu tranh cho những tiêu chuẩn về lao động và nói lên

tiếng nói của người lao động. Việc cho phép thành lập loại hình tổ chức đại diện
này ngoài việc quản lý của nhà nước về vấn đề lập hội hoặc quy định về đăng ký
lập hội đại diện cho người lao động, thì đây được coi là một thách thức lớn không
chỉ đối với riêng Viettel mà còn với nhiều doanh nghiệp hoạt động khác. Bởi tổ
chức của người lao động tại Viettel sau khi đăng ký thành lập có thể gia nhập công
đoàn hoặc hoạt động độc lập. Tổ chức này nếu thực sự bảo vệ các quyền lợi và lợi
ích chính đáng của người lao động như tôn chỉ, mục đích và phương thức hoạt
động đã được đăng ký thì thực sự đáng hoan nghênh và làm cho tổ chức công đoàn
cơ sở mạnh lên. Nhưng bên cạnh đó nó còn có thể xuất hiện những đòi hỏi, yêu
sách phi pháp, trái với Điều lệ và nguyên tắc chung khi thành lập hoặc trái với tinh
thần của Hiến pháp 2013 về vấn đề tự do lập hội. Dựa vào những quy định trong
TPP nhằm bảo vệ tổ chức của người lao động, theo đó Viettel không được can


thiệp và phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu khả năng đại diện,
bảo vệ cho quyền và lợi ích của người lao động, chính “tổ chức” này có thể lợi
dụng sức mạnh cộng đồng của tập thể người lao động để đấu tranh cho những đòi
hỏi phi lý mà Viettel khó có thể đáp ứng ngay được thông qua ràng buộc trong đối
thoại, thương lượng tập thể, thậm trí đình công và các hành động tiêu cực tập thể
trá hình khác trong quan hệ lao động. Khi đó Viettel buộc phải tiêu tốn thời gian,
công sức, chi phí để thương lượng với người lao động hoặc sử dụng các biện pháp
hành chính, tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc này tất yếu dẫn đến những
chi phí phát sinh mà Viettel phải gánh chịu và làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hóa và dịch vụ khi đưa ra thi trường quốc tế và trong khu vực các nước thành viên
TPP.
3 Đề xuất giải pháp và kiến nghị
3.1 Giai phap
3.1.1 Chủ động áp dụng trước những tiêu chuẩn lao động trong TPP có thể thực
hiện trước được
Viettel cần chủ động áp dụng trước những tiêu chuẩn lao động theo TPP mà

ở thời điểm hiện tại có thể đáp ứng được, không giữ quan điểm bảo thủ trong toàn
bộ vấn đề về lợi nhuận ngắn hạn, sử dụng lao động trẻ em và lập hội của người lao
động. Viettel phải nhận thức rằng đáp ứng nhiều tiêu chuẩn về lao động liên quan
đặc biệt đến loại bỏ lao động trẻ em, đảm bảo quyền tiếp cận công lý trong thực thi
pháp luật lao động…. là thực hiện trách nhiệm xã hội, đồng thời cũng là cách tốt
nhất để đáp ứng xu hướng đòi hỏi tiêu chuẩn cao về lao động của khách hàng thuộc
các nước thành viên TPP và trên thế giới. Với nhận thức như vậy, việc các tiêu
chuẩn về lao động khi được áp dụng ngay từ bây giờ sẽ không gây ra khó khăn hay
bất cập lớn cho Viettel sau khi Hiệp định chính thức được phê duyệt.
3.1.2 Trang bị kiến thức hiện hành về Pháp luật Việt Nam, các quy định về lao
động của TPP và ILO
Các nhà quản lý Viettel cần phải trang bị cho mình những kiến thức pháp
luật về các quy định trong Hiến pháp, pháp luật lao động hiện hành và các quy
định cụ thể trong chương 19 của Hiệp định TPP cũng như quy định của ILO theo
nguyên tắc cơ bản tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ pháp luật
của Việt Nam và theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đồng thời cũng phải có bộ
phận chức năng tích cực nghiên cứu, giám sát các hoạt động của các tổ chức đại
diện người lao động có phù hợp với tôn chỉ, mục đích và phương thức hoạt động


đã được đăng ký với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi quyền
đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại Viettel
nơi họ làm việc hay không. Theo đó các tổ chức của người lao động không được
phép tiến hành bất cứ hoạt động nào, cũng như không được tham gia bất cứ hoạt
động nào ngoài tôn chỉ mục đích và Điều lệ hoạt động đã được đăng ký với Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
3.2 Kiến nghị
3.2.1 Đối với nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật tương thích với những
cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Công đoàn

Việt Nam và tham gia sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn theo hướng: Xác
định rõ nội dung trọng tâm theo thứ tự ưu tiên của các cấp công đoàn, tập trung
thực hiện những nhiệm vụ về quan hệ lao động, giảm hoặc lược bớt các nhiệm vụ
khác thuộc lĩnh vực chính trị – xã hội, ít hoặc không liên quan đến quan hệ lao
động. Cấp công đoàn cơ sở tập trung thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp
đến quan hệ lao động và thực hiện nhiệm vụ chăm lo, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của người lao động; Tiếp tục tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động, trong đó cần xác định rõ các hành vi phân biệt đối xử về quyền công đoàn và
thao túng, can thiệp chống công đoàn của người sử dụng lao động…
Nhà nước phải tăng cường quản lý của mình mối quan hệ lao động hài hòa
và hiệu quả. Các cuộc đình công tại Việt Nam thường diễn ra ở các DN FDI và nếu
để tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại Việt Nam. Điều
quan trọng nhất là tạo cơ chế đối thoại hiệu quả giữa chủ sử dụng lao động với
người lao động. Do đó, cần phải nâng cao năng lực, vai trò vị thế của người lao
động để có được mối quan hệ lao động hài hòa thông qua việc hỗ trợ đào tạo về
chuyên môn, kiến thức về pháp luật lao động, chính sách về tiền lương, bảo
hiểm…
Xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết tranh chấp lao động và
đình công trong Bộ luật Lao động và các luật khác có liên quan; Có chế tài đủ
mạnh xử lý các vi phạm về pháp luật lao động và công đoàn, đặc biệt là những vi
phạm về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện pháp luật
lao động, cần chú ý tới tính khác biệt, đặc thù giữa các loại đối tượng lao động của
từng loại hình cơ sở trong các thành phần kinh tế và trình độ, tâm lý, tuổi tác, giới
tính, nghề nghiệp để lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền, phổ biến cho
phù hợp với đối tượng.


3.2.2 Đối với Viettet
Trong điều kiện hiện tại thì các doanh nghiệp phải tự tận dụng chính các nội

lực của mình. Cần phải hiểu biết một cách sâu sắc các nội dung của Hiệp định TPP
và nắm bắt được cơ hội, mang lại lợi ích cao nhất. Xây dựng và hoàn các quy định,
quy chế về QHLĐ phù hợp với các quy định trong chương 19 Lao động. Coi trọng
trình độ tổ chức và quản lí doanh nghiệp, uốn hội nhập được, các doanh nghiệp của
chúng ta phải nắm được các điểm yếu này, đào tạo được đội ngũ cán bộ, nhân viên
có năng lực, tận tụy, tích cực, năng động, đặc biệt là các càn bộ làm việc tại bộ
phận nhân sự. Các doanh nhân bên cạnh những kiến thức chuyên môn, năng lực tổ
chức quản lí cần có tầm nhìn để thích ứng kịp thời nhằm giải quyết các vấn đề về
lao động có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Cần phải tăng cường sự trao đổi giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lí. Các doanh
nghiệp phải chủ động tham mưa,đóng góp các ý kiến của mình nhằm giúp nhà nước hoàn thiện các
pháp chế về QHLĐ.

KẾT LUẬN
Những phân tích trên cho thấy cần phải tiến hành thêm các nghiên cứu
trong tương lai về tác động của TPP đối với thay đổi QHLĐ không chỉ Tập đoàn
Viễn Thông Quân đội (Viettel) nói riêng mà còn các Doanh nghiệp đang hoạt động
tại Việt Nam nói chung. Đây là hiệp định đầu tiên Việt Nam chịu sự ràng buộc với
các cam kết về lao động trong khung khổ Hiệp định thương mại, vì thế các doanh
nghiệp cần phải lường trước các tác động tích cực cũng như tiêu cực có thể nảy
sinh mà các cam kết về lao động trong TPP mang lại. Bên cạnh đó, để giúp đỡ các
doanh nghiệp, Nhà nước Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động,
nâng cao năng lực thể chế nhằm đảm bảo khả năng thực hiện các cam kết trong
TTP. Qua đó, cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp, bởi cơ hội thì ít, thach
thức thì rất nhiều. Nếu doanh nghiệp không chuẩn bị tốt thì từ những hào quang mà
TPP đem lại cũng có thể trở thành sóng gió, cuồng phong dối với các doanh nghiệp
Việt Nam. Chính sách trung tâm của thời đại ngày nay là chính sách con người và
sự tham gia của con người vào tiến trình phát triển xã hội và tiến bộ xã hội. Phát
triển QHLĐ - việc làm không chỉ bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, mà còn trực
tiếp góp phần củng cố và nâng cao chất lượng, sức mạnh kinh tế của đất nước.




×