Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

nghi luan doan tho- ôn tập học kì 1 lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.49 KB, 60 trang )

BÀI TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
Đoạn 1
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

* Phần Làm văn:
A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Quang Dũng và bài “Tậy Tiến”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và
nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu đơn vị Tây Tiến, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
- Hai câu đầu : nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu. ( dẫn
thơ – phân tích )
- Hai câu tiếp : nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng


nếm trải. ( dẫn thơ – phân tích )
- Bốn câu tiếp: thiên nhiên còn hiện ra với mọi sắc độ khắc nghiệt, dữ dội hoặc mênh mang của nó
( dẫn thơ – phân tích )
+ Hình ảnh con đường hành quân nhiều dốc
+ Hình ảnh người lính vượt dốc
- Hai câu tiếp: gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có
tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu.( dẫn thơ – phân tích )
- Hai câu tiếp: nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ.
( dẫn thơ – phân tích )
- Hai câu cuối: Nhớ hình ảnh người lính khi dừng chân ở Mai Châu ( dẫn thơ – phân tích )
- Cả đoạn thơ :
+ Bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng, trữ tình.
+Hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi sinh
nhưng vẫn ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn.
- Nghệ thuật: kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn; ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu
nhạc điệu; biện pháp tu từ đặc sắc; ...
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ tuật đoạn thơ. Liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa
đoạn thơ.
B. Làm văn ( HS tự luyện)
Đoạn 2
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc

1



Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

* Phần Làm văn:
A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Quang Dũng và bài “Tậy Tiến”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và
nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu đơn vị Tây Tiến, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
- Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ ( dẫn
thơ – phân tích ).
- Bốn câu sau: Bên cạnh nét đẹp của núi rừng biên giới là cảnh sông núi miền Tây mênh mang, mờ
ảo, thơ mộng. Hình ảnh con người hùng dũng, hiên ngang giữa dòng thác lũ.( dẫn thơ – phân tích )
- Cả đoạn thơ :
+ Thiên nhiên Châu Mộc qua vài nét chấm phá của Quang Dũng hiện lên có hồn và tình tứ như
con người.
+Hình ảnh người lính trẻ trung, lãng mạn, ấm áp tình quân dân.
- Nghệ thuật: sự hoà quyện giữa chất hoạ, chất nhạc và chất thơ làm thành một
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ tuật đoạn thơ. Liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa
đoạn thơ.
B. Bài văn tham khảo : ( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở bài

- Như phần giới thiệu tác giả và bài thơ
- Giới thiệu đoạn thơ: Một trong những đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ về những hình ảnh

tươi đẹp, rực rỡ và thơ mộng, nổi bật trong đó là những hình ảnh thiếu nữ miền Tây trong
đêm lửa trại và vẻ đẹp huyền ảo trong sương chiều trên dòng nước lũ Châu Mộc, được khắc
họa đậm nét :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
…………………………….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Thân
- Khái quát ( như đề 1)
bài :
-Đoạn thơ phân tích thuộc phần hai của bài thơ.
Nêu ý
Cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ là nỗi nhớ: nhớ bản mường và núi rừng miền Tây,
chính
nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc…
Phân
Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản
tích
làng xứ lạ:
bốn
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
câu thơ
..................................................
đầu
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là
hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm thẳm của
đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa. Bừng lên là
bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. Doanh trại như đang trong giấc ngủ im ắng thì bỗng bừng
tỉnh dậy. Những cuộc hành quân gian nan, vất vả hết ngày này sang ngày khác của các chiến
sĩ nay bỗng có những giờ phút tưng bừng, nhộn nhịp, sôi động trong tình quân dân gắn bó.

Nhà thơ đã dùng từ hội đuốc hoa với hai nghĩa. Nghĩa thực là đuốc đốt sáng để vui chơi.
Nghĩa ẩn dụ là có ý bông đùa, nghịch ngợm nhưng lại rất lành mạnh của các anh bộ đội trẻ.
Đó chính là lễ cưới.“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ
được dùng trong văn học cũ: “Động phòng hoa chúc”(Thành ngữ), “Đuốc hoa chẳng thẹn với

2


chàng mai xưa” (Truyện Kiều – câu 3096). Đêm liên hoan “bừng” ánh sáng của đuốc hoa, của
lửa trại; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện
của “em”, của “nàng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến.
Trong ánh lửa của đêm hội đuốc hoa, các chàng trai chiến binh Tây Tiến đang hoà
niềm vui với đồng bào nơi mình đóng quân. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái,
những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng
khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ,
đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” vừa là sự chào đón vừa nói lên sự ngạc nhiên,
sung sướng khi những cô gái dân tộc xuất hiện. Họ rực rỡ, đẹp lạ thường! Xiêm áo tự bao giờ
vừa có nghĩa các cô gái đã ăn mặc, trang điểm từ lúc nào mà đẹp, mà rực rỡ như thế; vừa có
nghĩa xiêm áo cổ truyền của dân tộc. Các cô gái ấy đến với cuộc liên hoan giữa quân và dân
như những cô dâu đến lễ cưới. Mọi gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
Trong cuộc liên hoan lửa trại như vậy, hẳn là đôi mắt đa tình của người chiến binh
đang dõi theo dáng điệu của nàng e ấp. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là
những cô gái dân tộc vùng núi Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong trang phục lạ, vừa e thẹn, vừa
tình tứ trong một vũ điệu lạ: man điệu, nhạc cụ lạ : khèn, dáng điệu lạ: e ấp. Tưởng là những
thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội, những gian truân vất vả trên đường hành quân sẽ
làm cho tâm hồn người lính trở nên chai sạn. Nhưng không, tâm hồn họ vẫn phơi phới niềm
lạc quan yêu đời, đầy ắp niềm vui và mộng mơ, dù có thể ngày hôm sau một người nào đó
trong số họ sẽ nằm lại nơi núi rừng u tịch. Tâm hồn người lính bay bổng theo thơ và nhạc về
miền xuôi: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Các anh thanh niên Hà Nội say mê theo tiếng
nhạc, tâm hồn tràn đầy ý thơ, mơ tưởng đến những ngày mai tươi vui ở Viên Chăn.

Phân
Bốn câu sau là hình ảnh thiên nhiên và con người Tây Bắc :
tích
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
bốn
...........................................................
câu thơ
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
sau
Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống
như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh
thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào
xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ
và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. Đó là cái hồn của cỏ cây sông nước, cái linh hồn của tạo
vật.“Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi
câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về…Nó nhắc nhở và gợi nhớ về một tâm trạng, một xúc
cảm lãng mạn, mộng mơ của người lính Tây Tiến trong một buổi chiều sương phủ bên dòng
suối lũ mênh mông.
Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc “trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt, nét độc đáo trong nghệ thuật biểu đạt của nhà thơ là
cách thi nhân không tả mà chỉ gợi. Cái “dáng người trên độc mộc” cũng là gợi nhưng vẫn
làm rõ cái dịu dàng, uyển chuyển, xinh xắn của những cô gái trên chiếc thuyền độc mộc lao
nhanh trên dòng nước lũ đang chảy xiết. Hình ảnh đó như thể đã khắc sâu trong tâm khảm,
trong tâm trí các chiến sĩ Tây Tiến.
Như hòa hợp vời con người, những bông hoa rừng cũng “ đong đưa” làm duyên trên
dòng nức lũ. Hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”. “Đong đưa” là đưa qua đảo lại.
Còn “đung đưa” là chao đi chao lại một cách nhẹ nhàng trong khoảng không. Đây là bút pháp
vừa tả thực vừa tả tình lãng mạn: nước lũ chảy xiết làm cho những bông hoa bên mép suối
đung đưa, nhưng thi nhân nhìn thành “đong đưa” như những điệu múa mềm mại của những
cô gái đẹp, tài hoa, tình tứ.

Nghệ
Có thể nói, nghệ thuật của đoạn thơ là sự hoà quyện giữa chất hoạ, chất nhạc và
thuật
chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua
đoạn
đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng
thơ
người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương”
hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Kết bài
Tóm lại, tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét

3


chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp,
một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ đạo. Tám câu thơ,
hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải là một nhà thơ của “Tây
Tiến” mới sáng tạo được những vần thơ tài hoa đến như thế!
Đoạn 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
* Phần Làm văn:


A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Quang Dũng và bài “Tây Tiến”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và
nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau: ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu đơn vị Tây Tiến, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
- Hai câu đầu: là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra với dáng vẻ khác thường(dẫn thơ – phân
tích )
Hai câu tiếp: là mộng và mơ của người lính ( dẫn thơ – phân tích )
Hai câu tiếp: bộc lộ được ý chí hào hùng của người lính Tây Tiến( dẫn thơ – phân tích )
- Hai câu cuối: nói đến sự hi sinh của những người đồng chí, đồng đội thân yêu của nhà thơ nơi chiến
trường gian khổ ( dẫn thơ – phân tích )
- Cả đoạn thơ :
+ Vẻ đẹp hào hùng: Ngoại hình độc đáo, gân guốc, đầy dũng khí; Lí tưởng chiến đấu cao cả, coi
thường cái chết.
+ Vẻ đẹp hào hoa: Tâm hồn lãng mạn, đa tình, mộng mơ.
- Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ tài hoa và xúc cảm mãnh liệt về đồng đội của Quang Dũng
đã làm nên sức sống của hình tượng nghệ thuật, rung động người đọc.
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ tuật đoạn thơ. Liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa
đoạn thơ.
B. Bài văn tham khảo : ( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích).
Mở bài
- Như phần giới thiệu tác giả và bài thơ
- Giới thiệu đoạn thơ: Một trong những đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ về đồng đội, là
bức chân dung tượng đài nghệ thuật về người lính Tây Tiến được tác giả thể hiện rất

thành công là :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…………………………….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Thân
- Khái quát ( Phần A.II)
bài :
- Đoạn thơ phân tích thuộc phần ba của bài thơ.
Nêu ý
Cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ là nỗi nhớ: nhớ vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của
chính
người lính Tây Tiến.
Phân
Thật vậy, mở đầu đọan thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra với dáng vẻ
tích hai khác thường :

4


câu thơ
đầu

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Đó là người lính “không mọc tóc” và” xanh màu lá”. Chỉ hai chi tiết thôi nhưng tác giả
đã tái hiện hình ảnh người lính với hiện thực khốc liệt của bệnh tật. Rừng sâu, nước độc đã
tàn phá ngoại hình những chàng trai trẻ đất Hà Thành. Bệnh sốt rét rừng đã khiến cho tóc
rụng trọc, da xanh. Nhưng với sức sống của tuổi thanh niên, ngòi bút lãng mạn của Quang
Dũng đã nắm bắt hiện thực cuộc chiến, tô đậm và phóng đại, hiện lên dáng vẻ người lính đẹp
lạ thường. Cũng là bệnh sốt rét rừng ấy nhưng với ngòi bút hiện thực, người lính cùng thời

của Chính Hữu là: “ anh với tôi biết từng cơn ớn lanh/ sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
Còn người lính Tây Tiến thì “không mọc tóc” và” xanh màu lá” vừa thực, vừa lãng mạn.
Đầu “không mọc tóc” chứ không phải là do tóc không mọc đựơc, da “xanh màu lá” không
phải vì sốt rét da xanh mà do tác động của sắc màu núi rừng đó thôi ! Người lính không hề ở
trong tư thế bị động mà trái lại chủ động hiên ngang đầy khí phách “ dữ oai hùm”. Họ ốm mà
không yếu, ngoại hình tiều tuỵ yếu đuối nhưng nội tâm mạnh mẽ vô cùng.
Phân
Hai câu thơ tiếp là mộng và mơ của người lính. Bên trong ngoại hình ấy là tâm hồn
tích hai rất mộng mơ:
câu
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
tiếp
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Mắt trừng là chi tiết cực tả cái phẫn nộ sôi sục của nội tâm hướng về nhiệm vụ chiến
đấu. Mộng là mộng của người lính nơi chiến trường Tây Tiến lúc bấy giờ. Nhiệm vụ nặng nề
của họ đâu chỉ ở dải đất quê hương, “qua biên giới” là còn phải sang Lào, thực hiện nhiệm vụ
của một chiến binh. Đây là chất thơ của Quang Dũng, cách diễn đạt rất riêng của nhà thơ. Mơ
là những giấc mơ, hay còn là sự mộng mơ của những người lính ra đi vào tuổi đầy ắp những
mơ tưởng, những chuyện yêu đương? Bên cạnh vẻ đẹp của nghị lực kiên cường, của ý chí sắt
đá, là một vẻ đẹp trong tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, hào hoa của những chàng trai mang bao
mộng ước trong đời. Đôi mắt ấy chợt dịu lại khi mơ về người con gái thanh lịch Hà thành đã
một lần đi qua trong nỗi nhớ của anh :
“ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến không cụ thể “dáng kiều thơm”. Đó không hẳn là
người vợ, người yêu, cũng không hẳn là cô láng giềng; có thể chỉ là một bóng hồng bất chợt
đi qua trong những ngày còn ở Hà Nội mà thôi. Nỗi nhớ của Quang Dũng rất đáng trân trọng
vì trong những người lính trẻ thời ấy, mộng và mơ như hòa quyện trong nhau, trong tình yêu
đất nước “gửi mộng qua biên giới”, yêu quê hương “mơ Hà Nội ”, có tình cảm riêng tư của
mỗi cá nhân “dáng kiều thơm”- những giấc mơ ít nhiều thơm mùi sách vở học trò. Câu thơ
gợi nhớ đến người lính đánh Pháp năm nào của Nguyễn Đình Thi cũng có cùng cảm xúc “

Những đêm dài hành quân nung nấu/bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”( Đất nước). Chính
tình cảm riêng tư ấy đã chắp cánh cho tình yêu nước của anh. Chính sự hài hòa của mộng và
mơ đã tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ lập nên chiến công hiển hách, là lời thúc
giục họ tiến lên phía trước, lại cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua
bom đạn trở về.
Phân
Hai câu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã bộc lộ được ý chí hào hùng của người lính
tích hai Tây Tiến:
câu thơ
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
tiếp
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ vừa có chất hào hùng, vừa có chất bi tráng và được diễn tả bằng bút pháp
tương phản, đối lập. Cách diễn tả này đã được Quang Dũng sử dụng rất thành công trong bài
thơ, đến đây tiếp tục được phát huy. Quang Dũng không tránh né hiện thực. Câu thứ nhất nói
đến sự thật lạnh lùng và nghiệt ngã, ấy là cái chết, là sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Điều
này được gợi ra bởi hình ảnh những nấm mồ nằm rải rác biên cương, nơi rừng thiêng xứ lạ.
Rải rác là thưa thớt, viễn xứ là nơi xa. Những nấm mồ thường thiếu vắng những vòng hoa và
những nén hương tưởng nhớ. Vì thế, câu thơ như vẽ ra bức tranh ảm đạm với màu sắc lạnh.
Song thực ra cũng không phải như vậy, bởi với ai đó những nấm mồ viễn xứ nằm rải rác
biên cương có thể gợi cảm giác ghê sợ, nhưng với những người lính Tây Tiến thì không. Vì

5


câu thơ Rải rác biên cương mồ viễn xứ làm nền cho cảm hứng mạnh mẽ, cho lời thề quyết
tâm ra đi của người lính ở câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Ý chí quyết tâm ấy
mới là nguồn cảm hứng chủ đạo bao trùm của khổ thơ này. Câu thơ ở đây có vẻ đẹp giản dị
nhưng lại có sức khái quát rộng lớn, mang tầm vóc thời đại và có tính tư tưởng cao. Nó đã
khẳng định, nêu bật phương châm sống, quan niệm sống, triết lí sống của những người sống

có trách nhiệm công dân cao nhất đối với Tổ quốc.
Phân
Tiếp tục khẳng định tinh thần cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh của người lính Tây Tiến,
tích hai ở hai câu sau, một lần nữa, Quang Dũng lại nói đến sự hi sinh của những người đồng
câu thơ chí, đồng đội thân yêu của nhà thơ nơi chiến trường gian khổ:
cuối
Áo bào thay chiếu anh vềđất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nói đến sự hi sinh mất mát, những câu thơ không gây cho ta cảm giác bi luỵ đau
thương, mà trái lại vẫn giữ được sự thanh thản, nhẹ nhàng, thậm chí còn pha dáng vẻ ngang
tàng, khí phách hiên ngang nơi chiến địa của những tráng sĩ năm xưa trong Chinh phụ ngâm
của Đặng Trần Côn qua hình ảnh chiếc áo bào. Hai câu thơ thể hiện vẻ đẹp bi tráng nhưng
cũng rất tài hoa lãng mạn của người lính. Bởi trong điều kiện chiến đấu gian khổ ác liệt của
những năm đầu cuộc kháng chiến, những người lính thường cơm không đủ no, mặc không đủ
ấm, thiếu thuốc men, thiếu phương tiện ...đó là một thực tế. Trong hoàn cảnh ấy, người lính
không thể tránh khỏi sự hi sinh. Song, cho dù có ngã xuống và khi ấy không có lấy một manh
chiếu bọc thây nhưng trong con mắt đầy tinh thần tráng sĩ của họ, cái chết vẫn cứ sang, phải
đẹp, phải đàng hoàng. Đặc biệt, tác giả sử dụng cách nói về đất thay cho từ chết là cách nói
giảm nhẹ làm vơi đi sự mất mát đau thương nhưng lại hàm chứa một ý nghĩa lớn lao. Về đất
là về với tổ tiên khi người ta làm tròn trách nhiệm với quê hương, đất nước; về đất còn là sự
hoà nhập, là sự hoá thân vào hồn thiêng sông núi để trở thành cái vĩnh viễn bất tử. Người lính
Tây Tiến dù có ngã xuống nhưng là về với đất, trong âm hưởng hào hùng của thiên nhiên:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Đây là một câu thơ chứa đầy chất bi tráng, bởi tiếng gầm
lên của con sông Mã qua khúc độc hành đã được nhiều người hiểu và ví như những tiếng kèn
tiễn đưa người lính về nơi bất tử. Không một giọt nước mắt, không một lời tiễn biệt nhưng
bằng những câu thơ chất chứa nỗi đau xót và niềm thương tiếc vô hạn là tấm lòng, sự trân
trọng, là ném tâm hương mà nhà thơ thắp lên để tưởng nhớ những đồng đội của mình.
Nhận
Đoạn thơ thể hiện hình tượng người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn
xét

nhưng rất chân thực, độc đáo, ấn tượng. Ngôn ngữ thơ trang trọng, có màu sắc cổ kính; kết
chung
hợp nhuần nhuyễn lớp từ Hán –Việt và thuần Việt; sử dụng thành công biện pháp tu từ hoán
nghệ
dụ, đối lập, nói giảm. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha, đau đớn, trang nghiêm và mạnh mẽ trong
thuật
tiếng gầm của thiên nhiên khi tiễn đưa người lính về với hồn thiêng sông núi.
Kết bài
Tóm lại, chỉ có tám câu nhưng Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài sừng sững, bất
tử về anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp với hai nét đẹp thống nhất và tương
phản, đầy bi tráng. Bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ tài hoa và xúc cảm mãnh liệt về đồng đội
của Quang Dũng đã làm nên sức sống của hình tượng nghệ thuật rung động người đọc. Qua
đoạn thơ, chân dung người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai phong lẫm liệt, vừa lãng mạn hào
hoa và sự hi sinh vẻ vang của họ cho Tổ quốc.

BÀI VIỆT BẮC
TỐ HỮU
Hướng dẫn phân tích
Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn

6


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
* Phần Làm văn:

A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Tố Hữu và bài “Việt Bắc”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ
thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu chiến khu Việt Bắc, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục, kết cấu bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
- Bốn câu thơ đầu :
+ Là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại.
+ Nghĩa tình của kẻ ở người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ “ mình” , “ ta” thân
thiết.
.- Bốn câu thơ sau :
+ Là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi “ bâng khuâng”, “ bồn chồn” cùng cử chỉ
“cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh vật và con
người Việt Bắc .
+ Đại từ “ai” phiếm chỉ nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi, thân thương .
+ Hình ảnh “áo chàm” – nghệ thuật hoán dụ có giá trị khắc hoạ bản sắc trang phục của đồng bào
Việt Bắc, nhưng cũng chính là để nói rằng ngày tiễn đưa cán bộ kháng chiến về xuôi cả nhân dân Việt Bắc
đưa tiễn.
+ Hình ảnh “ cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thật cảm động.
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ. Liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa đoạn
thơ.
B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
ĐỀ 1

Mở bài
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc,
truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt
Bắc”. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình bịn rịn quyến luyến của người ở
lại đối với người ra đi:
"Mình về mình có nhớ ta
……………
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay"
Thân
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các
bài
cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (Thủ đô kháng chiến) về thủ đô
- Khái Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng
quát
tác "Việt Bắc".
"Việt Bắc" được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần. Phần đầu bài
thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt
Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó
giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết
thúc bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Bài thơ có kết cấu đối đáp.
Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm trạng trong buổi chia tay đầy lưu
luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như câu chuyện
tình yêu đôi lứa. Nhà thơ hoá thân vào hai nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của
mình, cũng là của những người tham gia kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu thuộc phần
một của bài thơ.

7



Nêu ý
Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc
chính
với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật
thơ Tố Hữu.
Phân
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
tích
"Mình về mình có nhớ ta
bốn
..................................................
dòng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"
thơ
Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi
đầu
về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. Có nhớ thời gian gắn bó đã “mười lăm năm” và
tình cảm là “thiết tha mặn nồng ”hay không. Trong câu hỏi, cụm từ “mười lăm năm” là chỉ
thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn ( 1940) đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc
thắng lợi (1954). Đó là khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ cách mạng. Các từ “thiết tha
mặn nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết, sâu nặng. Từ đó thấy được: ở
câu hỏi này, người ở lại đã nhắn nhủ với người về xuôi hãy nhớ Việt Bắc và cách mạng có
thời gian gắn bó lâu dài, có tình cảm tha thiết, sâu nặng.
Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây” thì có nhớ
đến “núi” ở Việt Bắc không, nhìn “sông ”thì có nhớ nguồn nước ở Việt Bắc không. Trong
câu hỏi, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ đến câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”
quen thuộc. Như vậy, trong câu hỏi này, một cách khéo léo, người ở lại như muốn nói với
người về, cũng là lời khẳng định của nhà thơ: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng.
Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ địa
cách mạng, là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc, dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dẫn tới sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở lại đánh chiếm
nước ta. Hà Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ kháng chiến. Việt Bắc là
“An toàn khu”, đã che chở, bảo vệ các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong suốt
thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao của thời đại .Việt Bắc đúng là cội nguồn, là cái
nôi của cách mạng. Vì vậy , kết thúc phần đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết “Mười
lăm năm ấy ai quên – Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà”.
Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về
không gian nguồn cội, nghĩa tình; qua đó thể hiễn tâm trạng người ở lại: lưu luyến , bâng
khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng người về xuôi về nghĩa tình cách mạng.
Phân
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
tích
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
bốn
..................................................
dòng
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
thơ sau
Ở hai câu trên, người về không trả lời câu hỏi của người ở lại mà đưa ra câu hỏi nhưng
là để bộc lộ tâm trạng. Từ “ai” phiếm chỉ, nhưng ở đây là chỉ người Việt Bắc. Có thể hiểu hai
câu thơ này là: nghe lời hỏi “tha thiết” của người Việt Bắc, người về xuôi thấy “bâng
khuâng” trong dạ, “bồn chồn” bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm trạng của người
cán bộ: nhớ, buồn vì phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn bó suốt “mười lăm năm” với bao
“đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp, không yên trong lòng vì sắp được
trở về quê hương sau thời gian dài xa cách.
Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai câu thơ đã
gợi ra hình ảnh người Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong buổi “phân li”, cầm tay nhau mà
không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi lưu luyến không muốn rời xa. Đó là tâm trạng

xúc động không nói nên lời. Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng”. Người về còn xúc động vì phải rời xa nơi có “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Nhận
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc
xét
chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của
chung
lứa đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần

8


Kết bài

nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân
xưng mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại
diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh
hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân,
đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình
cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi
của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Việt Bắc” nói chung, đúng là một
bản tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

ĐỀ 2:Phân tích 12 câu thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.

* Phần Làm Văn:
A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Tố Hữu và bài “Việt Bắc”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ
thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu chiến khu Việt Bắc, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục, kết cấu bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
a/ Bốn câu đầu : người Việt Bắc hỏi người về xuôi ( trích thơ)
- 2 câu đầu : Hình ảnh tả thực Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù gợi cảnh núi rừng đầy
hoang sơ khắc nghiệt, đồng thời ẩn dụ cuộc sống cực khổ.
- 2 câu tiếp: Hình ảnh cơm chấm muối mối thù nặng ẩn dụ cuộc sống thiếu thốn nhưng nhiệm vụ
nặng nề.
b/ Bốn câu tiếp : người Việt Bắc tiếp tục hỏi người cán bộ ( trích thơ)
- 2 câu đầu : Hình ảnh rừng núi hoán dụ chỉ người Việt Bắc, ai chỉ người cán bộ.
- 2 câu tiếp: Hình ảnh Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son vừa ẩn dụ, vừa tương phản thể hiện dù
cuộc sống nghèo nhưng tấm lòng vẫn thuỷ chung với cách mạng

c/ Bốn câu cuối : vẫn là câu hỏi của người Việt bắc ( trích thơ)
- 2 câu đầu : hỏi để gợi nhớ tháng ngày kháng Nhật, lúc Việt Minh còn hoạt động ở Việt Bắc.
- 2 câu tiếp: hỏi người cán bộ có nhớ mình?, gợi nhớ các địa danh đi vào lịch sử. Việt Bắc là cội
nguồn của cách mạng.
d/ Cả đoạn thơ : thể hiện hình thức nghệ thuật thơ ca truyền thống một cách nhuần nhuyễn:
+ Thể thơ lục bát vừa giàu chất tự sự, vừa giàu nhạc điệu ngọt ngào đằm thắm của ca dao .
+ Lối ngắt nhịp đều đặn 2/4; 4/4, trầm bổng ngân nga của thơ ca dao lục bát như nhịp ru em êm ái
+ Nghệ thuật đối, phát huy tác dụng rất lớn trong việc tô đậm cảnh và người:
+ Cách xưng hô “mình – ta” trong ca dao
+ Nghệ thuật ẩn dụ làm tăng thêm khả năng liên tưởng của hình ảnh :
+ Phép trùng điệp vừa tạo vẻ đẹp nhịp nhàng về âm thanh, vừa gợi những cảm xúc sâu xa
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ tuật đoạn thơ. Liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa đoạn thơ.
B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở bài
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại,
là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua

9


Thân
bài :
Phần
khái
quát
Ý
chính
toàn
đoạn

thơ
Phân
tích 4
câu thơ
mở đầu

Điển hình nhất là tập thơ “Việt Bắc”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp,
trong đó bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc
hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân cách mạng được thể
hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất trong đoạn thơ sau là
những câu hỏi của người ở lại, gợi lên những kỉ niệm ở Việt Bắc trong những năm tháng
đã qua, gợi nhớ những kỉ niệm thời kháng chiến:
"Mình đi, có nhớ những ngày
……………
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa “
- Khái quát ( như đề 1)
- Đoạn thơ gồm 12 câu đầu thuộc phần một của bài thơ.

Trong bài thơ, sau những lời ướm hỏi ngọt ngào trong khúc dạo đầu ở đoạn trên, mười hai
dòng thơ tiếp theo làm thành sáu câu hỏi tiếp tục là lời của người ở lại gợi nhắc về những
kỉ niệm, những ân tình – mỗi câu hỏi gợi một cái gì thật tiêu biểu, thật ấn tượng về Việt
Bắc. Bao kỉ niệm của một thời gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đầy ân tình được thể hiện chân
thực qua đoạn thơ gợi nhiều cảm xúc cho người đọc.
Ở bốn câu thơ đầu, người Việt Bắc hỏi người về xuôi :
Mình đi, có nhớ những ngày
.................................................
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Hình ảnh thơ giàu sức gợi. “Mưa nguồn suối lũ” là cảnh mưa trắng nguồn, lũ ngập đầy
suối, tả thực về thiên nhiên khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc. Các hình ảnh ấy cũng là ẩn dụ,
diễn tả cuộc sống ở chiến khu cách mạng nhiều gian nan cực khổ; “miếng cơm chấm muối” là

phản ánh cảnh sinh hoạt kham khổ, khó khăn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Điều này
từng thấy trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Khi
Khôi Huyện quân không một đội...”. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ
chống thực dân cướp nước, đè nặng trên vai dân tộc ta. Mối thù đối với quân xâm lược đè nặng
đôi vai, luôn nhắc nhở nuôi dưỡng ý chí chiến đấu để giải phóng đất nước.
Ở bốn câu thơ tiếp, người Việt Bắc tiếp tục hỏi người cán bộ :
Mình về, rừng núi nhớ ai
Phân
............................................
tích 4
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
câu thơ
Những câu hỏi trên gợi cảm giác cô đơn lòng người ở lại khi chia tay. Rừng núi là hình
tiếp
ảnh hoán dụ, chỉ người Việt Bắc. Ai là từ phiếm chỉ, đặt trong văn cảnh, ai là người cán bộ.
Đây là câu hỏi tu từ.“Rừng núi, trám bùi, măng mai” được nhân hóa cùng với hình ảnh “trám
rụng – măng già” không ai thu hái gợi nhiều bơ vơ, man mác buồn thương. Tác giả mượn cái
thừa để nói cái thiếu vắng nhằm biểu đạt kín đáo, sâu sắc cái tình của Việt Bắc với cách mạng,
với cán bộ về xuôi làm cho nỗi nhớ như thắt vào lòng kẻ ở lại. Trám bùi, măng mai là nguồn
lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc, từng làm thức ăn lót dạ thay ngô, sắn, cơm để nuôi bộ
đội đánh giặc trong những năm kháng chiến gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho
mối tình Việt Bắc sâu nặng, ân nghĩa.
Vẫn tiếp tục là những câu hỏi tu từ gợi nhớ, người Việt Bắc hỏi người cán bộ: khi về
xuôi rồi thì có nhớ những nhà ở Việt Bắc trong cảnh hắt hiu lau xám nhưng lại đậm đà lòng
son không? Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đặc sắc. Những nhà là tất cả
các đồng bào dân tộc Việt Bắc. Hắt hiu lau xám là cảnh hoang vu, hoang vắng của núi rừng,
biểu tượng cho sự nghèo đói, thiếu thốn vật chất. Tương phản với hắt hiu lau xám là đậm đà
lòng son, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng son sắt, thuỷ chung.

10



Phân
tích 4
câu thơ
cuối

Nhận
xét
chung

Kết bài

Ở bốn câu thơ cuối vẫn là câu hỏi của người Việt Bắc :
Mình về, có nhớ núi non
..........................................
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ khi về xuôi rồi còn nhớ tới”núi non” ở
Việt Bắc không? Có nhớ thời kháng Nhật, lúc Việt Minh còn hoạt động ở Việt Bắc hay không?
Câu thơ có liệt kê hình ảnh và sự kiện để nhắc người cán bộ về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có
mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc cách mạng đánh Pháp đuổi Nhật. Việt Bắc là căn cứ quan
trọng của cách mạng giải phóng dân tộc thời kì trước 1945.
Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ “ Mình đi, mình có nhớ mình” hay
không, có nhớ cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái hay không? Cách hỏi ở câu lục có thể hiểu
từ “mình ” thứ nhất và thứ hai là chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba chỉ người Việt
Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai nhưng đã
thành một. Trong câu hỏi, người Việt Bắc còn kể tên hai địa danh Tân Trào và Hồng Thái, hai
địa danh gắn bó với hai sự kiện quan trọng trước Cách mạng tháng Tám để khẳng định Việt
Bắc chính là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn cách mạng.
Về nghệ thuật, nổi bật trong đoạn thơ là khúc hát ân tình thiết tha, xúc động của người

Việt Bắc dành cho người cán bộ kháng chiến sắp lúc về xuôi. Điệp khúc: Mình đi, có nhớ…
Mình về có nhớ… là những câu hỏi tu từ, là tiếng lòng tha thiết cất lên không chỉ là nhắn nhủ
mà còn là hoài niệm, gợi nhớ, gợi ra cuộc chia tay không phải là vĩnh viễn, chia tay mà vẫn gắn
bó bên nhau.Giọng điệu tha thiết, ngọt ngào tiêu biểu cho giọng điệu thơ Tố Hữu những tình
cảm cách mạng được cất lên thật trữ tình, dễ đi vào lòng người.
Tóm lại, qua hàng loạt lời hỏi của người Việt Bắc, đoạn thơ đã tái hiện một thời kháng
chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng
chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân
tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh
quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến. Qua năm tháng với bao biến động
của cuộc sống, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng vẫn rung cảm lòng người.

Đề 3 . Anh ( chị ) hãy phân tích 10 câu thơ sau đây trích trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu :
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Nhớ gì như nhớ người yêu
( Ngữ văn 12, tập một, tr 110-111, NXBGD Việt Nam, năm 2010 )

A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Tố Hữu và bài “Việt Bắc”. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ
thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)

II/ Thân bài :
1/ Khái quát về đoạn thơ :
- Giới thiệu chiến khu Việt Bắc, hoàn cảnh viết bài thơ
- Tóm tắt nội dung, nêu bố cục, kết cấu bài thơ, vị trí đoạn thơ.
- Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ
a/ Bốn câu thơ đầu, người cán bộ bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với Việt Bắc
- Sử dụng hai từ ”ta”, ”mình”, đảo vị trí tạo ấn tượng về sự quấn quýt giữa cán bộ và nhân dân
- Từ ”lòng ta”kết hợp với từ trái nghĩa ”sau-trước” để chỉ thời gian và từ láy ”mặn mà”, ”đinh
ninh” diễn tả tỉnh cảm sâu nặng thủy chung.
- Câu thơ thứ ba là lời đáp hô ứng với câu thơ ”mình đi mình có nhớ mình”
- Câu thơ thứ tư dùng so sánh theo cách nói ca dao diễn tả tình cảm trong sáng, không thể kể hết.
b/ Sáu câu thơ sau là nỗi nhớ của người về- nhớ thiên nhiên, cảnh vật ở Việt Bắc:

11


-.Nỗi nhớ những cảnh vật đơn sơ ở Việt Bắc : một nỗi nhớ khó diễn tả, nhưng rất tha thiết sâu
nặng như nhớ người yêu :
c/Phân tích giá trị nghệ thuật :
+ Đoạn thơ được tác giả vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát. Âm điệu ngọt ngào, đằm thắm .
+ Cách lựa chọn hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống thường nhật có tác dụng khắc sâu nỗi nhớ .
+ Từ ngữ đoạn thơ có sức gợi cảm mạnh mẽ, nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc câu .
III/ Kết bài :
- Kết luận chung theo yêu cầu đề bài
- Nêu ý nghĩa của đoạn thơ
- Nêu cảm nghĩ
B. Bài văn tham khảo: ( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở

Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại,
bài
là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim
nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số
đó, tập thơ “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc”
là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng
chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà
tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ thể hiện sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ
đô kháng chiến” với bao lưu luyến nhớ thương. Nỗi nhớ ấy được cất lên thật cảm động:
“ dẫn chứng thơ 10 dòng thơ”
Thân
- Khái quát ( như đề 1)
bài :
- Đoạn thơ gồm 10 câu thuộc phần một của bài thơ.
Phần
khái
quát
Ý
Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ
chính niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc
toàn
toàn bài, nỗi nhớ trào dâng được thể hiện sâu sắc và cảm động về tình cảm của người cán bộ
đoạn
kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu
thơ
càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên,
cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
Phân
Bốn câu thơ đầu, người cán bộ bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với Việt Bắc:
tích

Ta với mình, mình với ta
bốn
................................................
câu
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
thơ
Với phép điệp từ ta và mình xoắn xuýt, hoà quyện vào nhau tạo nên tình cảm thuỷ chung,
đầu
sâu nặng và bền chặt : đi đâu rồi ta cũng gặp mình, mình đi đâu rồi cũng về với ta. Người cán
bộ kháng chiến đã nói một lời thề son sắt, thuỷ chung đối với những ân tình của người người
dân Việt Bắc: Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Lời thề của con người kháng chiến ân tình
sâu nặng đều là những lời thề thuỷ chung ghi lòng tạc dạ. Nhớ mình là nhớ người dân Việt Bắc.
Cho nên, chữ mình cuối cùng này có thể thấy cả hình ảnh của đồng bào Việt Bắc, cả hình ảnh
của những người cán bộ miền xuôi đã lên đây và gắn bó với mảnh đất này.
Phân
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
tích 6
Đây không phải là nỗi nhớ con người mà là nỗi nhớ thiên nhiên nhưng lại thiết tha, say đắm
câu
như nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa. Vì vậy, nhà thơ dùng hình ảnh diễn đạt trữ tình, ý nhị, sâu
thơ
sắc “như nhớ người yêu” thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Với cách so sánh mới lạ
tiếp
sáng tạo này đã cho người đọc thấy hết được tình cảm của người ra đi, nhớ Việt Bắc như nỗi
nhớ trong tình yêu: thường trực, sâu sắc, mãnh liệt.
Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc, hiện hữu cùng bước đi thời gian: trăng lên –
nắng chiều – sớm – khuya, trải ra với các không gian: bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng
nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê… gợi những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ

12



Nhận
xét

Kết
bài

nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt. Chữ “nhớ từng” là cách điểm lại một cách tỉ mỉ, không bỏ
sót chi tiết nào, hình ảnh nào…Câu thơ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương gợi hai bức
tranh ở hai khoảnh khắc khác nhau nhưng cả hai đều đẹp một cách lãng mạn và thơ mộng. Với
người cán bộ kháng chiến thì trăng đẹp nhất là lúc lên đến đầu núi và cảnh nương đẹp nhất là
khi nắng chiều soi vào. Nhớ Việt Bắc là nhớ những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp
lửa nhà sàn rực hồng trong đêm lạnh để sớm khuya đón đợi người thương đi về. Chỉ những
người đã từng sống ở Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi
nhớ da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối,
những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng
sông suối mang cái tên thân thuộc- tất cả là khoảng thời gian và không gian lung linh kỉ niệm.
Bức tranh Việt Bắc hiện ra qua hoài niệm khi thì mơ màng, vời vợi, khi lại rõ nét với
đường nét, màu sắc, ánh sáng. Mỗi cảnh là một nét nhớ, nét thương về con người Việt Bắc.
Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hoài niệm có ba mảng
thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con người,
cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình.
Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ gì… nhớ từng…trùng
điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những hình
ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng
chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố
Hữu: trữ tình-chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc.
Tóm lại, đoạn thơ đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng,
nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước.

Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó
là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và
kháng chiến.

Đề 4: Phân tích 12 câu thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2012)

* Phần Làm văn:
Bài văn tham khảo:( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu biểu
để phân tích)
Mở
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
bài
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc,
truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt
Bắc”. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi:

"Ta đi ta nhớ những ngày
……………
Chày đêm nện cối đều đều suối xa"
Thân
- Khái quát ( như đề 1)
bài :
- Đoạn thơ gồm 12 câu thuộc phần một của bài thơ.
Phần
khái
quát
Ý
Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ
chính niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc
toàn
toàn bài, nỗi nhớ trào dâng trong lòng người ra đi được thể hiện sâu sắc và cảm động giữa
đoạn
cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu
thơ
càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên

13


nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.
Hai
Ở hai câu thơ đầu, người cán bộ về xuôi khẳng định:
hai
Ta đi ta nhớ những ngày
dòng
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

đầu
Người về nhớ những tháng ngày ở Việt Bắc, có ”mình đây ta đó” với những ”đắng cay
ngọt bùi”. Từ ”đây-đó”chỉ vị trí liền kề, cụm từ ”đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ gian khổ và
niềm vui. Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người cách mạng,
cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ niểm vui.
Phân
Hai câu tiếp là hình ảnh chân thực về đời sống kháng chiến gian nan, cực khổ:
tích 2
Thương nhau chia củ sắn lùi
dòng
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
thơ
Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp
tiếp
với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi"
giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn",
"bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh
đậm đà tình giai cấp. Người Việt Bắc luôn chia sẻ khó khăn, thiếu thốn cùng người cách mạng:
một củ sắn chia nhau bên bếp lửa đêm đông, một bát cơm sẻ nửa và một chiếc chăn sui đắp
chung. Đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia. Tất cả những khoảnh khắc ấy cứ sáng mãi
trong lòng người ra đi, sống trong tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn một thời không thể xoá nhoà.
Phân
Hai câu tiếp theo là hình ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống
tích 2 kháng chiến:
dòng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.
thơ
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
tiếp
Hình ảnh chọn lọc: “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo

chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang cán
bộ cách mạng. Đó còn là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến
không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi. Hình ảnh mẹ Việt Bắc rất giống như hình
ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”:
“Mẹ thương Akay, mẹ thương bộ đội” (Nguyễn Khoa Điềm).
Phân
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống, sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào
tích 6 quên:
dòng
Nhớ sao lớp học i tờ
thơ
....................................
cuối
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Điệp từ “nhớ” điệp trùng thể hiện nỗi nhớ dạt dào. Có lẽ chẳng bao giờ còn có cảnh lớp
học i tờ về đêm giữa đồng khuya như thế. Chỉ có trong những năm kháng chiến gian khổ mới có
những cảnh sinh hoạt văn hoá trong hoàn cảnh thiếu thốn mà vui tươi đến thế. Cách mạng,
kháng chiến đã đem đến cho người dân không chỉ tự do mà còn đem đến cho đồng bào cái chữ.
Đem đến ánh sáng của tri thức đến với họ.
Nhớ Việt Bắc còn là nhớ những âm thanh rất đặc trưng của miền rừng núi: tiếng mõ gọi
trâu về trong rừng chiều, tiếng chày giã gạo đêm đêm ngoài suối xa. Cùng hàng loạt những hình
ảnh, âm thanh thân quen: tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, tiếng suối xa… âm thanh
thiên nhiên gợi hồn núi rừng Việt Bắc - âm thanh cuộc sống bình dị, ấm áp mà vui tươi. Đoạn
thơ đối ý, nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn
rất gian khổ, khó khăn :
"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"
Trong gian khổ thiếu thốn, những con người kháng chiến vẫn cất cao lời ca tiếng hát lạc
quan yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng. Nhớ cuộc sống sinh hoạt đời thường ở chiến
khu Việt Bắc, những con người kháng chiến còn nhớ cả nhịp sống thân quen, bình dị của một
cuộc sống bận rộn sớm khuya vất vả, nhớ cả những âm thanh rất đặc trưng mà chỉ ở núi rừng

chiến khu mới có .
Nhận
Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hoài niệm có ba
xét
mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ

14


Kết
bài

con người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan
chứa nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao…
nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm
thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ,
chính là tình cảm sâu nặng của người cách mạng với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, đoạn thơ diễn tả tình cảm sâu nặng, thuỷ chung
của người cán bộ kháng chiến với con người Việt Bắc. Đồng thời, đoạn thơ diễn tả sâu sắc nỗi
nhớ của người cán bộ cách mạng khi phải rời xa Việt Bắc. Qua nỗi nhớ của người cán bộ, thấy
hiện lên hình ảnh của thiên nhiên Việt Bắc có cảnh vật phong phú, có vẻ đẹp thơ mộng, người
Việt Bắc gắn bó, sẻ chia những khó khăn thiếu thốn với cách mạng. Qua đó, tác giả ca ngợi
thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, con người Việt Bắc có phẩm chất cao quý và cũng thấy được tình
cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

ĐỀ 5: Phân tích 10 câu thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT lần 2 năm 2008)

* Phần Làm văn:
A/Đáp án chấm của Bộ GD&ĐT năm 2008:
a) Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận văn học (phân tích đoạn thơ trữ tình); kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu
loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về Tố Hữu và bài thơViệt Bắc, thí sinh biết phân tích những chi tiết nghệ thuật
để làm rõ nỗi nhớ cảnh và người dân Việt Bắc; có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng
cần nêu được các ý chính sau:
- Nội dung:
+ Cảnh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của nhà thơ được tái hiện ở cả bốn mùa với màu sắc và vẻ
đẹp khác nhau: mùa đông tươi tắn; mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống; mùa hè rực rỡ, sôi
động; mùa thu lãng mạn, yên ả, thanh bình.
+ Người Việt Bắc trong nỗi nhớ của nhà thơ hiện lên thật đẹp, cần cù, chăm chỉ và rất đỗi ân tình,
luôn là chủ thể của bức tranh thiên nhiên.
+ Cảnh và người hoà quyện, gắn bó nhau. Con người làm cho cảnh trở nên gần gũi, sinh động, có
hồn. Nhờ cảnh, vẻ đẹp con người được tôn vinh.
- Nghệ thuật: Hình ảnh đẹp; âm điệu ngọt ngào, tha thiết; cách xưng hô gần gũi, quen thuộc; phép
điệp ngữ, liệt kê…
- Đánh giá:
+ Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ sâu nặng về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong cuộc kháng chiến

gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
+ Là đoạn thơ hay nhất trong bài Việt Bắc, thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
B. Bài văn tham khảo:( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)

15


Mở
bài

Thân
bài :
Phần
khái
quát

Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc,
truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt
Bắc” mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
"Ta về mình có nhớ ta
……………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
- Khái quát ( như đề 1)
- Đoạn thơ gồm 10 câu thuộc phần một của bài thơ.

Mở đầu đoạn thơ là câu lục bát giới thiệu, mang cảm xúc chung cho toàn đoạn, là
lời người cán bộ kháng chiến về xuôi hỏi người ở lại :
Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Ta là người ra đi và mình là người ở lại. Và câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” là cái cớ để
bày tỏ tấm lòng của người ra về. Người ra về lòng vẫn nhớ, nhớ “hoa và người”. Điệp từ “Ta
về” và “nhớ”tăng thêm nhạc điệu êm ái, hợp vời nỗi nhớ thương và nhấn mạnh tình cảm tha
thiết giữa người đi- kẻ ở. “Hoa ” là thiên nhiên đẹp tươi sáng và “người” là con người Việt
Bắc. Thiên nhiên hòa điệu với con người, trở thành hai bộ phận không thể tách rời nhau.
Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng
Việt Bắc trùng điệp.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người
nơi đây. Nhà thơ dùng dòng lục để miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một
bức tranh thiên thiên với những nét đẹp riêng biệt; Còn dòng bát dùng cho thể hiện hình ảnh con
người Việt Bắc. Chỉ riêng đoạn thơ này, ta thấy thấm đậm tính dân gian. Hai câu thơ đầu là mùa
đông vì sáu câu sau có xuất hiện ba mùa xuân, hạ, thu. Mặt khác, Tố Hữu viết bài “Việt Bắc”
vào tháng 10 năm 1954, lúc ấy ở Việt Bắc nói riêng, miền Bắc nói chung đang là mùa đông.
Nhà thơ đã từ hiện tại để hồi tưởng về quá khứ.
2 câu
Đầu tiên là bức tả cảnh, khơi gợi tình cảm yêu mến về mùa đông Việt Bắc :
thơ
”Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
:Cảnh
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
mùa
Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta
đông
còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt
ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân cầu sông Hồng ngược xuôi
lên căn cứ cách mạng Việt Bắc cũng vào mùa đông.
Bức tranh mùa đông Việt Bắc được miêu tả bằng màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Giữa
màu xanh biếc đó là màu đỏ rực của hoa chuối như những bó đuốc thắp lên sáng rực và cả màu
vàng của nắng. Chính vì thế, mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo mà có phần ấm áp, tuôn trào

sức sống. Điều này còn được biểu hiện qua hình ảnh con người lên núi lao động Đèo cao nắng
ánh dao gài thắt lưng. Đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng, làm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt
lưng. Trên tầm cao của núi đèo, ánh nắng mặt trời chiếu vào những con dao ấy tạo nên sự phản
quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thôi nhưng ta có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ
hào hùng của con người lao động làm chủ thiên nhiên.
2 câu
Tiếp theo dòng hồi nhớ là bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc :
thơ :
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Cảnh
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
mùa
Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự
xuân
vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi là màu xanh bạt ngàn
điểm hoa chuối đỏ, giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu
trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác thơ
mộng, bâng khuâng. Màu trắng của hoa mơ gợi cái thanh thoát, đem lại cho lòng người sự nhẹ
Hai
dòng
đầu

16


nhàng, êm dịu. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên
khi Bác về nước:
" Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về ... Im lặng, con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Mùa xuân được miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân của Việt Bắc. Và gắn
với khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh người lao động rất đẹp :
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Chữ “chuốt” là trau chuốt, làm bóng lên, đẹp lên. Chữ “từng” đã gợi tả được đức tính cần mẫn,
tỉ mĩ và chịu khó. Có khéo tay mới chuốt từng sợi giang mỏng và bóng để đan thành những
chiếc nón xinh xắn, vật phẩm đặc trưng của người Việt Bắc. Con người cần cù, tài hoa ấy thật
đáng yêu, đáng nhớ.
2 câu
Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, nhường chỗ cho mùa hè đến :
thơ :
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Cảnh
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
mùa
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc cả thị giác lẫn thính giác. Mùa hè được cảm nhận

bằng âm thanh quen thuộc “ve kêu” và bằng hình ảnh rất riêng của núi rừng Việt Bắc "rừng
phách đổ vàng". Phách là một loại cây thân gỗ, nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Chữ “đổ” trong
câu thơ là một “nhãn tự”, diễn tả sự rộng khắp, dàn đều của màu sắc. Thật tráng lệ, hiện lên
trước mắt người đọc là hình ảnh rừng phách đang ngả sang màu vàng rực rỡ, lung linh trong
nắng hè, cùng với âm thanh rộn rã của tiếng “ve ngân”suốt đêm ngày.
Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì có thêm bóng dáng của một
cô gái “hái măng một mình”. Từ “hái” phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của
cô gái Việt Bắc. Cách hiệp vần lưng “gái- hái” và lặp phụ âm “m” liên tiếp của các từ “măngmột-mình” tạo cho câu thơ mang tính nhạc hấp dẫn. Người Việt Bắc là cô gái trẻ trung xinh
tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu, rừng tre nứa trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có
“một mình”nhưng chẳng hề cô đơn. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ giờ lại khắc thêm vào hình ảnh
người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi lạc quan làm việc lại càng có hồn, có sức sống. Rõ ràng thiên
nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau. Con người đang làm chủ thiên

nhiên, làm chủ cuộc đời.
2 câu
Kết thúc đoạn thơ là cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu và thơ mộng:
thơ :
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Cảnh
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
mùa
Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng
thu
chiến khu. Chỉ một chữ “rọi”, câu thơ đã gợi ra được hình ảnh rừng cây, núi đá, khe suối, bản
làng...Việt Bắc như đang phơi trải, tắm mình dưới vầng trăng trong ngần trên bầu trời xanh ngát.
Trong khu rừng thấm đẫm ánh trăng, bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng
người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ chung, tình nghĩa của con người Việt
Bắc, cũng chính là tấm lòng của người về xuôi với chiến khu. Thế nên ánh trăng dường như
cũng ngời sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa hơn.
Nhận
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Tám câu thơ đã
xét
trở thành bộ tranh “tứ bình”về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh
với những mảng màu và nét vẽ tài hoa. Đó là bức tranh bốn mùa trong một năm, mỗi mùa lại
mang một sắc thái riêng biệt. Bức tranh gồm cả thiên nhiên và con người, nhưng có lẽ độc đáo
hơn là cả những câu thơ viết về thiên nhiên Việt Bắc. Ở những câu thơ này, bằng nghệ thuật
phối sắc tài tình trong miêu tả, nhà thơ đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống.
Trong cả đoạn thơ, điệp từ “nhớ” với cách kết hợp biến hoá: “nhớ ta- ta nhớ- nhớ người
đan nón – nhớ cô em gái- nhớ ai”, cùng vần thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào đã diễn tả nỗi nhớ
vơi đầy dào dạt, tạo nên cảm xúc bồi hồi, xao xuyến của người cán bộ khi phải rời xa Việt Bắc.
Kết
Tóm lại, chỉ bằng đoạn thơ ngắn, tác giả đã khắc hoạ được rõ nét hình ảnh thiên nhiên,
bài

con người Việt Bắc.Không những vậy, nhà thơ còn diễn tả thật sâu sắc tình cảm “thiết tha mặn

17


nồng” của người cán bộ miền xuôi với chiến khu cách mạng. Điêu luyện trong miêu tả, tinh tế
trong sử dụng từ ngữ, lựa chọn hình ảnh là đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ này. Đoạn thơ là một
tuyệt tác. Tố Hữu không chỉ ca ngợi thiên nhiên, con người Việt Bắc mà còn viết lên những vần
thơ đẹp nhất, hay nhất về con người Việt Nam thuỷ chung son sắc.
Đề 6 : Phân tích 10 câu thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
.........................................
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà...
( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2009-Giáo dục thường xuyên)

* Phần Làm văn:
A/Đáp án chấm của Bộ GD&ĐT năm 2009
a. Yêu cầu về kĩ năng: Biết làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; kết cấu chặt chẽ, diễn đạt
lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở những hiểu biết về Tố Hữu và bài thơViệt Bắc (chủ yếu phần
trích trong sách Ngữ văn 12, Tập một), thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rõ nội
dung và nghệ thuật của đoạn thơ với các ý chính sau:
– Nêu vấn đề cần nghị luận
– Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến:
+ Về thiên nhiên và con người Việt Bắc
+ Về những địa danh của Việt Bắc gắn liền với chiến công vang dội của quân dân ta trong kháng
chiến chống Pháp.
– Niềm tự hào của tác giả về Việt Bắc anh dũng, kiên cường.
– Thể thơ lục bát, âm điệu tha thiết, sâu lắng. Hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, các phép tu từ: nhân hoá,
liệt kê, điệp từ

– Đánh giá chung về đoạn thơ.
B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở bài
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc,
truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt
Bắc”. Đoạn thơ sau là nỗi nhớ về một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng:
Nhớ khi giặc đánh giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà...

Thân
bài :
Phần
khái
quát
Phân
tích 4
câu thơ
mở đầu

- Khái quát ( như đề 1)

- Đoạn thơ gồm 10 câu thuộc phần một của bài thơ.

Bốn câu thơ đầu, người cán bộ nhớ về thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc :
Nhớ khi giặc đánh giặc lùng
..............................................
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ của giai đoạn cầm cự, phòng ngự, bộ đội

18


Phân
tích 2
câu thơ
tiếp

Phân
tích 4
câu thơ
cuối

Nhận
xét
chung
Kết bài

phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch. Trước giờ khắc quyết định
của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với
cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình
người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn

quân.
Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần như tạo thành
thế hiểm của lũy thép vây bọc quân thù. Nhớ về lúc kháng chiến, khi giặc đánh giặc lùng, cũng
là khi quân ta đang khó khăn xoay sở tình thế, ta biết địch mạnh hơn ta rất nhiều, nhưng trên
trận địa quen thuộc nói là thua địch cũng không phải là dễ. Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây,
bằng phép nhân hóa, rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá để rồi trên dưới một lòng cùng con
người đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời thể hiện tình cảm giữa con người kháng chiến và
thiên nhiên núi rừng Việt Bắc rất tha thiết, bao la.
Ở cặp lục bát thứ hai ta sẽ thấy rõ hơn công việc của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm nhận hai công việc. Như một người mẹ che chở cho con
mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước. Rừng trở nên kiên quyết đến dữ
dằn cùng với việc vây quân thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế hiên
ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ thù khiếp sợ và bất lực. Quả thật
Việt Bắc đã trở thành “Địa linh nhân kiệt” kể từ đó. Qua đó càng làm sáng tỏ thêm nhận định:
Việt Bắc là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
Chiến khu Việt Bắc với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa hùng tráng vừa thơ mộng ở cặp
lục bát tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên, đất trời Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến.
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiến cho khung cảnh chiến đấu
trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn. Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con
người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của lòng mình. Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông
bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển
của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn. Cùng với cum từ “Đất trời ta cả”
khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản “Mênh mông bốn mặt” và
“chiến khu một lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng,
đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu của
mình nhằm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội,
hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang:

“Ai về ai có nhớ không ?
........................................................
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm vui to lớn trước chiến
thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời: “Ta về ta nhớ” vừa là câu trả lời, đồng thời
cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ. Bằng phép liệt kê các địa
danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã
diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô phố Ràng: Trận sông Lô đánh
tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng : Cao Bằng
và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung. Đó là những chiến
công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Với điệp từ nhớ cùng với thể thơ lục bát âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng, diễn tả
nối nhớ vơi đầy dào dạt trong kí ức của nhà thơ. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc
mạnh mẽ mãnh liệt trong niềm vui, khiến độc giả như đang hòa mình vào niềm vui lớn của dân
tộc, niềm vui trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn tự do.
Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã mang lại
cho đọc giả không khí nóng hổi từ những cuộc kháng chiến đỉnh điểm của dân tộc ta trong thời
kì kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù

19


phú, dữ dội nhưng cũng rất lãng mạng và “bao la”, khắc họa được hình ảnh người cán bộ về
xuôi có tình cảm sâu nặng gắn bó với thiên nhiên, với cách mạng. Đồng thời thể hiện niềm tin
vào chiến thắng cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều: Việt Bắc chính là cái
nôi, nuôi dưỡng cách mạng.

Đề 7: Anh ( chị ) hãy phân tích 12 câu thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu :
“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan .
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay .

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên .
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng .”

( Ngữ văn 12, tập một, tr. 112-113, NXBGD Việt Nam, năm 2010 )
( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2004)

* Phần Làm văn:
A/Đáp án chấm của Bộ GD&ĐT năm 2004
1. Yêu cầu về kĩ năng :
Biết cách phân tích một đoạn thơ trữ tình, biết làm một bài nghị luận văn học, kết cấu chặt chẽ, bố
cục rõ ràng, diễn đạt tốt, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ và ngữ pháp. Chữ viết cẩn thận.
2. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở vận dụng được những hiểu biết về tác gia Tố Hữu (nhất là về phong
cách nghệ thuật của ông) và bài thơ Việt Bắc (như hoàn cảnh ra đời, giá trị bao trùm về nội dung và nghệ
thuật, vị trí đoạn thơ nêu ở đề bài,…), thí sinh phát hiện, phân tích các thủ pháp nghệ thuật để thấy giá trị
nội dung của đoạn thơ này.
2.1 Về nghệ thuật :
- Sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát;
- Giọng thơ sôi nổi, hào hùng;
- Chọn lựa những hình ảnh, từ ngữ có sức gợi cảm;

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ (điệp, so sánh, cường điệu, liệt kê,…).
2.2 Về nội dung :
- Nhớ cảnh tượng hào hùng, sôi động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến toàn dân ở chiến khu Việt
Bắc. Cảnh tượng đó được nhà thơ đặc tả sinh động qua hình ảnh các con đường Việt Bắc trong những đêm
kháng chiến, nổi bật là sức mạnh và niềm lạc quan của những lực lượng kháng chiến (8 dòng thơ đầu);
- Nhớ về những niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền của đất nước (4 dòng thơ cuối).
* Đoạn thơ thể hiện cảm hứng ngợi ca Việt Bắc, ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt của
nhân dân ta.
B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
bài
ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim
nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số
đó, tập thơ “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc”
là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng
chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân cách mạng được thể hiện bằng hình thức nghệ
thuật đậm đà tính dân tộc. Nổi bật nhất là đoạn thơ hồi ức về bức tranh Việt Bắc ra trận:
“Những đường Việt Bắc của ta
…………………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

20


Thân
bài :
Phần
khái

quát
Ý
chung

Hai
dòng
đầu

Hai
dòng
3-4

Hai
dòng
5-6

- Khái quát ( như đề 1)
- Đoạn thơ gồm 12 câu thuộc phần một của bài thơ.

Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ là khúc ca ân tình, mà còn là bản tổng kết bằng thơ
mười lăm năm cách mạng. Bên cạnh những đoạn thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những
khúc ca tràn đầy khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức
tranh Việt Bắc ra trận. Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc
vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động
tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách
mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức
sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng
ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, chỉ vài nét phác hoạ khung cảnh hùng tráng, Tố Hữu đã
cho thấy hào khí ngất trời của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do. Họ
vừa mới xuất quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay.

Hai câu đầu đoạn là nét tả khái quát. Tác giả nói về những đường Việt Bắc ra trận,
những nẻo đường hành quân, những nẻo đường chiến dịch nhưng là để nói lên khí thế dũng
mãnh của người ra trận :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Những nhịp điệu “đêm đêm”, những điệp thanh “rầm rập” cùng với biện pháp so
sánh “như là đất rung” đã cho ta thấy mặt đất như đang chuyển động dưới bàn chân những
người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
Đây là hình ảnh hào hùng, là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân
nghĩa bốn nghìn năm của dân tộc mà không thế lực nào có thể ngăn cản được.
Chưa hết, hình ảnh bộ đội ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng
mạn:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hiện thực ở chi tiết những đoàn quân nối tiếp nhau, ở những chiếc mũ nan giản dị. Hào
hùng ở sự trùng điệp được nhân lên “điệp điệp trùng trùng”thật đông đảo, người người lớp
lớp như sóng cuộn và lãng mạn ở hình ảnh “ánh sao đầu súng”, ánh sao đêm phản chiếu vào
nòng súng thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao của lý tưởng chiến đấu. Đây là tứ thơ
vừa hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ.
Trên những con đường Việt Bắc trong đêm ra quân, ta không chỉ bắt gặp hình ảnh
những anh bộ đội cụ Hồ bước đi hùng tráng trong đêm mà còn có cả hình ảnh những đoàn
dân công ra trận đi tải lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Trong chiến tranh, nhân dân ta lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa
đêm Việt Bắc ra quân, cạnh những đoàn quân đi, ta còn thấy hình ảnh "dân công đỏ đuốc
từng đoàn". Họ cũng như những người lính, hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. Giữa cái
cảnh hào hùng ấy, hình ảnh "muôn tàn lửa bay "gợi cho ta một vẻ đẹp rất lãng mạn. Những
tàn lửa bay ra từ những bó đuốc rơi xuống mặt đất thực sự đã làm cho con đường ra trận thêm
lung linh, huyền ảo. Ta có cảm giác con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ.

Không chỉ sử dụng các hình ảnh, các từ láy, cách nói cường điệu trong câu thơ "bước
chân nát đá” đã diễn tả sức mạnh của lòng quyết tâm từ hàng vạn con người. Họ sẵn sàng đạp
bằng mọi chông gai để đi đến chiến thắng. Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông đã lấy
ý tưởng từ câu ca dao:
“Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng ".
Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm ca ngợi sức mạnh

21


Hai
dòng
7-8

Bốn
dòng
cuối

Nhận
xét

Kết
bài

của con người Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. Ý thơ mang tầm vóc sử thi.
Hai câu thơ cuối của đoạn thơ là hình ảnh của những đoàn xe cơ giới, xe tăng, xe tải
chở lính, chở lương thực vũ khí ào ào ra trận:
"Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"

Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn. Bỏ đằng sau cái nghĩa thực của
cuộc hành quân xuyên rừng vượt núi, xuyên qua đêm tối sương dày thăm thẳm thì nghĩa bóng
về hình ảnh ngày mai lại thật lạc quan phơi phới "đèn pha bật sáng như ngày mai lên". Nghệ
thuật so sánh lại được nhà thơ sử dụng thật thành công. Hình ảnh đèn pha bật sáng được ví
như mặt trời mọc "như ngày mai lên ". Như vậy, ngày mai đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ
có đèn pha bật sáng, nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tưởng cao đẹp : chiến đấu vì
nhân dân, vì đất nước. Câu thơ vừa thể hiện được cái dư vị của cảnh hành quân hoành tráng,
đầy hào khí chiến đấu, chiến thắng, vừa thể hiện một niềm tin, lạc quan phơi phới: tin vào
tương lai tươi sáng của dân tộc.
Và niềm tin ấy đã được khẳng định. Những câu còn lại là niềm vui của tác giả, của nhân
dân Việt Bắc trước tin thắng trận trên khắp mọi miền đất nước dồn dập bay về:
Tin vui chiến thắng trăm miền
...............................................
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Hàng loạt các địa danh được liệt kê: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An
Khê,... trước đó là: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,… mỗi địa danh ghi dấu một
chiến công của dân tộc. Cách gọi tên các địa danh đã diễn tả được tình yêu núi sông và niềm
tự hào trào dâng trong lòng tác giả khi nghĩ về những chiến công oanh liệt trên khắp mọi miền
đất nước. Cùng với những địa danh ấy là điệp từ “vui” được lặp nhiều lần kèm với các giới từ
“tin vui chiến thắng…vui về…vui từ…vui lên…” gợi tả chiến thắng giòn giã, dồn dập, như
tiếng reo mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam.
Như vậy, với bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, chỉ với 12 dòng lục bát, Tố Hữu đã
dựng nên bức tranh Việt Bắc ra trận thật đẹp. Bức tranh không chỉ làm sống dậy những tháng
năm hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên căn cứ địa thần thánh, mà còn
mang đến cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Có thể gọi đây là bức tranh
thành công về Việt Bắc ra quân. Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng sục sôi của Việt
Bắc kháng chiến.
Tóm lại, chỉ mười hai câu thơ, với sự điêu luyện trong cách dùng từ, lựa chọ nhình ảnh và
nhiều phép tu từ, tác giả đã diễn tả thành công khí thế kháng chiến ở Việt Bắc, cũng như niềm
vui chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua đó, đoạn thơ bộc

lộ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dan tộc. Đoạn thơ có
âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại, là đoạn thơ tiêu biểu
cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

BÀI ĐẤT NƯỚC
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đề 1: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”.

* Phần Làm văn:

22


Dàn bài gợi ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Nguyễn Khoa Điềm dẫn vào trường ca “Mặt đường khát vọng” và đoạn
trích “Đất Nước”. Nêu vấn đề : đoạn trích có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn
thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về chương “Đất Nước”, đoạn thơ :
-Nêu hoàn cảnh sáng tác, nội dung trường ca “Mặt đường khát vọng” …
-Nêu kết cấu trường ca “Mặt đường khát vọng”, vị trí, nội dung, bố cục đoạn trích “Đất Nước”, vị

trí đoạn thơ ở đề bài.
-Nêu cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ.
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
a/ Ba câu thơ đầu : ( trích thơ)
- Câu 1 : cách nói giản dị, khẳng định đất nước có từ lâu
- Câu 2-3 : Vận dụng sáng tạo truyện cổ tích diễn tả đất nước có từ xa xưa, từ thời cua Hùng, chứng
minh bằng tư liệu.
b/ Câu thơ bốn: Hình ảnh “Dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi truyền thống Thánh Gióng
như nhận định : Đất nước phát triển luôn gắn với quá trình chống giặc ngoại xâm. Dẫn chứng lịch sử để
khẳng định.
c/ Bốn câu thơ tiếp :
- Trong quá trình phát triển, đất nước hình thành phong tục...
- Vận dụng chất liệu ca dao, thành ngữ diễn tả đời sống tình cảm, con người có sự thuỷ chung.
- Vận dụng thành ngữ, liệt kê: khái quát được cuộc sống của người dân nước Việt xưa đầy vất vả,
đắng cay.
d/ Câu thơ cuối : kết hợp với câu thơ đầu tạo nên kết cấu chặt chẽ, là lời khẳng định về đất nước.
e/ Cả đoạn thơ : Qua các chất liệu diễn tả, điệp từ “Đất Nước”gợi ra đất nước gần gũi, thân thuộc;
Gợi ra hình ảnh đất nước bình dị, gần gũi, gắn bó thân quen; góp phần làm sáng tỏ tư tưởng ”Đất nước
của nhân dân”.
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ, liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý nghĩa
đoạn thơ.
C/ Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ tiêu
biểu để phân tích)
Mở
Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc
bài
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn nén xúc cảm,
mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất nước, tiêu biểu là trường
ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích Đất Nước.Chín câu thơ đầu của đọan thơ :

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………………………
Đất Nước có từ ngày đó”.
là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước qua
những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
Thân
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành năm 1971, tại chiến trường
bài:
Bình Trị Thiên. Bản trường ca đã thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp
Phần
thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân
khái
đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc
quát
chiến đấu của toàn dân tộc.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu chương V
bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều
góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có hai phần. Đoạn thơ
trên là những câu đầu trong đoạn trích “Đất Nước”.
Phân
Trước hết, ở ba câu thơ đầu của đọan thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của
tích
đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, ở câu thứ nhất, nhà thơ đã viết :

23


ba câu
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,
thơ

Câu thơ giản dị như một lời nói thường. Nhà thơ khẳng định: Đất Nước có từ trước khi
đầu
ta “lớn lên”, có từ lâu lắm rồi.
Ở hai câu tiếp, nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hai từ “có trong” và “bắt đầu” là nói về sự hình thành đất nước. Ở câu thơ thứ nhất, từ
“có trong” kết hợp cụm từ “ngày xửa ngày xưa”, cụm từ quen thuộc, mở đầu những truyện cổ
tích, gợi ra ý niệm đất nước có từ rất xa xưa. Đất nước có trước cả sự ra đời của truyện cổ tích
nên đất nước mới xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích “mẹ thường hay kể”.
Trong câu thơ thứ hai, tác giả dùng từ “bắt đầu” kết hợp với hình ảnh “miếng trầu bây
giờ bà ăn” để nói về sự “bắt đầu” của đất nước. Vậy “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn” cũng có nghĩa là khi có tục ăn trầu thì cũng là khi hình thành nên đất nước. Vậy tục
ăn trầu có từ lúc nào? Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhớ truyện cổ tích “Sự tích trầu cau”, một câu
chuyện cổ tích mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc về tình người, cũng là để giải thích tục ăn trầu,
một phong tục đẹp, mang đậm bản sắc văn hoá của người Việt xưa và cả hôm nay.Theo câu
chuyện này, tục ăn trầu có từ thời các vua Hùng. Như vậy, “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu
bây giờ bà ăn” cũng có nghĩa là đất nước có từ thời các vua Hùng.. Quả đúng như vậy, theo
truyền thuyết, chính các vua Hùng, những người con của lạc Long Quân và Âu Cơ đã dựng nên
nước Văn Lang, nước Việt cổ xưa. Trong thực tế đời sống, nhiều bằng chứng đã thể hiện điều
này: Khi thăm một đơn vị bộ đội ở khu vực Đền Hùng tỉnh Phú Thọ, Bác Hồ đã căn dặn các
chiến sĩ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Còn trong dân gian, từ lâu nhân dân ta đã truyền nhau: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ
Tổ mùng mười tháng ba”.( Ca dao). Và nữa, hiện nay, ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch là ngày
Quốc Tổ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thật tinh tế và sâu sắc khi sử dụng chất liệu này để diễn
tả việc ra đời của Đất Nước.
Câu
Câu thơ thứ tư, tác giả diễn tả về quá trình phát triển của đất nước:
thơ
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

thứ tư
Tác giả đã vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian trong hình ảnh “dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ, hình ảnh thơ gợi nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng đánh
giặc Ân, truyền thuyết diễn tả sinh động, sâu sắc về truyền thống quật khởi chống xâm lược của
dân tộc ta từ thuở xưa. Khi đất nước bị kẻ thù xâm lược, đến cả một đứa trẻ lên ba cũng xung
trận giữ nước.Nhưng điều sâu sắc hơn có lẽ là, nhà thơ đã khái quát được sự “lớn lên” của đất
nước luôn gắn liền với quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, đó là một trang
sử vinh quang nhưng cũng đầy máu và nước mắt của biết bao thế hệ con dân nước Việt đã ngã
xuống.
Quả thực như vậy, từ buổi bình minh của lịch sử cho đến khi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
viết bản trường ca này, đất nước vẫn còn đang chìm trong khói lửa chiến tranh, vẫn còn bị chia
cắt, miền Nam còn đang bị dày xéo dưới gót giầy của bọn Mĩ xâm lược. Chúng ta vô cùng tự
hào và biết ơn những thế hệ cha anh đã hi sinh vì Đất Nước.
Năm
Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa
câu
tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động
thơ
cần cù vất vả của nhân dân nhưng giàu tình nghĩa:
còn lại
“Tóc mẹ bới sau đầu
................................................
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.
Tóc mẹ thì “bới sau đầu”, rồi dựng nhà nên mới có “cái kèo, cái cột”. Đó là những
phong tục trong sinh hoạt của người Việt xưa. Những điểm độc đáo trong những câu thơ này là
nhà thơ đã vận dụng tài tình chất liệu dân gian trong diễn tả sự việc. Sử dụng câu ngạn ngữ
“gừng cay muối mặn” và liên tưởng từ câu ca dao “Tay nâng chén muối đĩa gừng/Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”, cùng với câu thành ngữ “một nắng hai sương”, nhà thơ đã khái
quát được cuộc sống của người dân nước Việt xưa: nền Văn minh lúa nước với cuộc sống đầy
vất vả, đắng cay. Nhưng từ trong gian nan, cay đắng đã tạo nên một tình nghĩa gắn bó thuỷ


24


Mở
rộng
Nghệ
thuật

Nhận
xét

Kết
bài

chung, chặt bền, sâu nặng. Như vậy, quá trình phát triển đất nước gắn liền với sự hình thành nên
các phong tục, gắn liền với quá trình lao động vất vả nhưng đầy tình nghĩa của con người.
Khép lại đoạn thơ là lời khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó”. Liên kết với câu thơ
mở đầu, câu thơ này đã tạo nên một kết cấu chặt chẽ; cùng với những chất liệu đầy sức thuyết
phục, tác giả đã khẳng định : Đất Nước có từ lâu đời, một bề dày lịch sử, một truyền thống văn
hiến đáng tự hào.
Suốt chín câu thơ, chúng ta thấy ấn tượng nổi bật nhất là hình tượng người phụ nữ: người
mẹ kể chuyện, người bà ăn trầu, búi tóc của mẹ, ngay cả hành động“nâng đĩa muối chén gừng”
và hành động “xay giã dần sàng” cũng thấp thoáng hình ảnh người phụ nữ. Hơn đâu hết, nước
Việt Nam biểu tượng “Mẹ Việt Nam anh hùng” là chính xác.
Về nghệ thuật, ở đoạn thơ này, mỗi câu đều bị chi phối bởi chủ đề Đất Nước và cả
khổ thơ đều bị chi phối cho chủ đề Đất Nước. Do đó đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là
những câu trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ”. Đặc biệt câu thơ cuối “Đất Nước có từ
ngày đó” đóng khép đoạn thơ là điệp khúc lặp lại ý mở đầu: “Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi”
khiến ta liên tưởng đến dòng thời gian hun hút mà Đất Nước hiện diện. Cùng với các trạng từ:

“bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng cũng đã khẳng định quá trình hình
thành và phát triển lâu đời của Đất Nước. Câu thơ cuối cũng là câu chuyển tiếp từ đoạn đầu văn
hóa sang đoạn thơ tiếp theo cảm nhận Đất Nước về không gian và thời gian.
Nhìn chung, đoạn thơ đầu chín câu với 85 chữ nhưng không hề có một từ ngữ Hán Việt
nào, ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm, thân mật, đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà
thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Cùng với mức độ đậm đặc của các chất liệu được
lấy từ ca dao, cổ tích, từ truyền thuyết,… đã tạo cho đoạn thơ một âm hưởng đầy quyến rũ và cất
lên “tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu Đất Nước và tự hào về Đất Nước.
Tóm lại, chín câu thơ đầu trong đoạn trích “Đất Nước” đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của
tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử,
địa lý, văn hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của
Nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình-chính trị sâu lắng, tha
thiết. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, của ca dao thần thoại của Nguyễn Khoa Điềm đã
đóng góp thêm một thành công cho thơ về đề tài Đất Nước, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân
dân, về Đất Nước trong thời kì chống Mỹ. Các chất liệu của văn hóa dân gian được sử dụng
nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.

ĐỀ 2: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

* Phần Làm văn:
A/Dàn bài gợi ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Nguyễn Khoa Điềm dẫn vào trường ca “Mặt đường khát vọng” và đoạn
trích “Đất Nước”. Nêu vấn đề : đoạn trích có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn
thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :

25


×