Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tập đọc cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.79 KB, 51 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ NHUNG
NGUYỄN THỊ NHUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN
MỘT
SỐ TẬP
BIỆNĐỌC
PHÁP
RÈN
LUYỆN

NĂNG
CHO
HỌC
SINH LỚ
KĨ NĂNG TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5

KHÓA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
ĐẠI
HỌC
KHÓA
LUẬN
TỐT


NGHIỆP
ĐẠI
HỌC
Chuyên
ngành:
Phƣơng
pháp
dạydạy
họchọc
Tiếng
Việt
Chuyên
ngành:
Phƣơng
pháp
Tiếng
Việt

HÀ NỘI, 2016
HÀ NỘI, 2016


TRƢỜNG
ĐẠI
HỌC

PHẠM

NỘI
TRƢỜNG

ĐẠI
HỌC

PHẠM

NỘI
22
KHOA
GIÁO
DỤC
TIỂU
HỌC
KHOA
GIÁO
DỤC
TIỂU
HỌC

NGUYỄN THỊ NHUNG
NGUYỄN THỊ NHUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN
KĨ NĂNG TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5
KĨ NĂNG TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
ThS. Lê Bá Miên
ThS. Lê Bá Miên

HÀ NỘI, 2016
HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong q trình tìm hiểu nghiên cứu khóa luận này, chúng tơi gặp rất
nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. Nhưng dưới sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Lê
Bá Miên, chúng tôi đã từng bước tiến hành và hồn thành khóa luận với đề
tài: “ Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tập đọc cho học sinh lớp 5”. Chúng
tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy!
Qua đây, chúng tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô trong
khoa Giáo dục Tiểu học, các thầy cô trong khoa Ngữ văn, và các thầy cô
trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng các thầy cô, tập thể lớp 5A1,
5A2, 5A3, 5A4, 5A5 trường tiểu học Tích Sơn - thành phố Vình Yên - tỉnh
Vĩnh Phúc, đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng tơi hồn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên

Nguyễn Thị Nhung


LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
số liệu, căn cứ, kết quả có trong khóa luận là trung thực. Đề tài này chƣa đƣợc
cơng bố trong bất kì cơng trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên

Nguyễn Thị Nhung


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

HS

: học sinh

GV

: giáo viên

SGK

: sách giáo khoa

NXB

: nhà xuất bản

TV

: Tiếng Việt


T

: tập


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài .................................................. 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
7. Cấu trúc đề tài ......................................................................................... 5
NỘI DUNG ............................................................................................................... 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ................................................................................... 7
1.1. Khái niệm đọc ...................................................................................... 7
1.1.1. Quan niệm đọc ............................................................................... 7
1.1.2. Cấp độ đọc ..................................................................................... 8
1.2. Cơ sở ngôn ngữ của việc đọc ................................................................ 9
1.2.1. Cơ chế của đọc ............................................................................... 9
1.2.2. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc ..................................... 11
1.3. Vị trí và nhiệm vụ phân mơn Tập đọc ở lớp 5..................................... 15
1.3.1. Vị trí phân môn Tập đọc ............................................................... 15
1.3.2. Nhiệm vụ phân môn Tập đọc ........................................................ 16
1.3.3. Ý nghĩa của dạy Tập đọc .............................................................. 17
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỌC Ở LỚP 5. 18
2.1. Nội dung chƣơng trình và phân bố thời lƣợng .................................... 18
2.2. Quy trình dạy tập đọc ......................................................................... 19

2.3. Thực trạng của dạy và học Tập đọc ở lớp 5 ........................................ 21


2.3.1. Thực trạng việc dạy ...................................................................... 21
2.3.2. Thực trạng việc học ...................................................................... 23
Chƣơng 3. CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG TẬP ĐỌC CHO HỌC SINH
LỚP 5 ....................................................................................................................... 26
3.1. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng ......................................................... 26
3.1.1. Kĩ năng tìm hiểu văn bản đọc ....................................................... 26
3.1.2. Kĩ năng đọc chính xác các bộ phận của âm tiết ............................ 29
3.1.3. Kĩ năng ngắt nhịp trong khi đọc ................................................... 33
3.1.4. Kĩ năng đọc trôi chảy ................................................................... 36
3.1.5. Kĩ năng đọc đúng ngữ điệu ........................................................... 37
3.1.6. Kĩ năng thể hiện văn hóa đọc ....................................................... 38
3.2. Một số biện pháp bổ trợ hoạt động học ............................................... 40
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 44


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mơn Tiếng Việt ở trƣờng phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, tƣơng ứng là bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc
- viết. Tập đọc là một phân mơn của chƣơng trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Đây là một phân mơn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chƣơng trình vì nó
đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc - một kỹ
năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên - bậc Tiểu học.
Chúng ta đang sống trong những giai đoạn đầu của thế kỉ XXI, công
cuộc đổi mới đang diễn ra sôi động trên mọi lĩnh vực, công nghệ thông tin
đang ăn sâu vào đời sống con ngƣời. Thực tế đó đƣa ra cho ta một câu hỏi:

“Cuộc sống sẽ ra sao nếu con ngƣời khơng biết đọc? Cuộc sống cịn gì thú vị
nếu nhƣ những áng thơ hay, bất hủ không ai biết đến, không thông tin trên
báo, trên những trang web khơng một ai có thể đọc?...”. Đó sẽ là cả một thế
giới thiếu thơng tin, thiếu hiểu biết. Có ý kiến cho rằng con ngƣời có ba chìa
khóa vàng để mở ra tri thức, tình cảm của nhân loại, đó là: chữ cái, chữ số và
nốt nhạc. Nhƣ vậy, biết đọc tức là ta đã nắm giữ đƣợc chìa khóa để mở cánh
cửa của kho tàng văn hóa, văn minh của dân tộc và có cơng cụ để học suốt
đời. Biết đọc nghĩa là biết giao tiếp với ngƣời khác không bị giới hạn bởi
không gian và thời gian.
Những kinh nghiệm của đời sống văn hóa, tƣ tƣởng, tình cảm của các thế
hệ trƣớc và của cả những ngƣời đƣơng thời, phần lớn đƣợc ghi lại bằng chữ viết.
Nếu khơng biết đọc thì con ngƣời khơng thể tiếp thu nền văn minh của lồi
ngƣời, khơng thể sống một cuộc sống bình thƣờng. Đó chính là học, học nữa,
học mãi, đọc để tự học, học suốt đời. Vì vậy, dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng.
Biết đọc, con ngƣời sẽ có khả năng chế ngự một phƣơng tiện văn hóa cơ
bản giúp họ giao tiếp đƣợc với thế giới bên ngƣời khác; thông hiểu tƣ tƣởng,

1


tình cảm của ngƣời khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chƣơng, các em
không chỉ đƣợc thức tỉnh về nhận thức mà cịn rung động tình cảm, nảy nở
những ƣớc mơ tốt đẹp, đƣợc khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo
cũng nhƣ đƣợc bồi dƣỡng tâm hồn. Năng lực đọc của học sinh đƣợc tạo nên
từ bốn kỹ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lƣợng của “ đọc”: đọc
đúng, đọc trôi chảy, đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Hơn nữa, việc
dạy đọc đƣợc chú trọng ngay từ cấp tiểu học. Trong môn học Tiếng Việt,
phân môn Tập đọc chiếm số tiết, thời lƣợng nhiều nhất trong các phân mơn.
Đây là phân mơn có vị trí đặc biệt trong chƣơng trình vì nó đảm nhiệm việc
hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng

hàng đầu của học sinh ở cấp học đầu tiên trong trƣờng phổ thông.
Mặt khác, khi viết một tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm vào đó tâm tƣ,
tình cảm, suy nghĩ, những quan điểm, tƣ tƣởng của mình. Những điều đó ẩn
chứa trong ngơn từ văn bản. mỗi tác phẩm đều bộc lộ tài hoa của con ngƣời,
nhân cách của nhà văn. Muốn tác phẩm đến với bạn đọc và sống mãi với bạn
đọc là một điều khó. Những gì mà tác giả gửi gắm có đƣợc cảm nhận một
cách đầy đủ hay khơng, đó lại là do cách đọc, cách hiểu của ngƣời cảm nhận
nó. Chính vì thế cần dạy cho học sinh cách đọc, cách hiểu tác phẩm một cách
trọn vẹn.
Trong khi đó, ở trƣờng tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 5, việc dạy đọc,
bên cạnh những thành cơng, cịn nhiều hạn chế. Học sinh chƣa đọc đƣợc nhƣ
chúng ta mong muốn. Kết quả học đọc của các em chƣa đáp ứng đƣợc yêu
cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các em chƣa nắm chắc đƣợc công cụ
hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tƣ tƣởng tình cảm của ngƣời khác chứa đựng
trong văn bản đƣợc đọc. Giáo viên tiểu học vẫn cịn lúng túng tronh khi dạy
Tập đọc. Có những giáo viên đọc khơng đúng chính âm, đọc khơng hay, hiểu

2


không đúng những điều đƣợc đọc từ cấp độ từ đến cấp độ câu, đoạn và toàn
văn bản, …
Trong tƣơng lai khơng xa, chúng tơi sẽ là những gióa viên tiểu học,
chúng tơi có những trăn trở khi dạy một bài Tập đọc: làm thế nào để các em
đọc nhanh hơn, hay hơn, làm thế nào để các em hiểu đƣợc văn bản đã đọc,
cần đọc bài Tập đọc với giọng nhƣ thế nào? Làm sao để có những gì đọc đƣợc
tác động vào chính cuộc sống của các em? … Hơn thế, việc dạy đọc trải dài
từ lớp 1 đến lớp 12 và đi cùng chúng ta suốt cuộc đời.
Chính vì vậy, đọc là kĩ năng quan trọng trong việc dạy học ở trƣờng tiểu
học. Và chúng tôi chọn đề tài này để đi sâu nghiên cứu và tìm ra: “Một số

biện pháp rèn luyện kĩ năng tập đọc cho học sinh lớp 5”.
2. Lịch sử vấn đề
Đọc và viết là hai kĩ năng dạy học sinh biết xử lí văn bản. Kĩ năng đọc
khơng chỉ tiếp nhận thơng tin mà đọc còn bộc lộ khả năng hiểu của ngƣời đọc.
Điều này đã đƣợc đề cập trong cuốn “Tìm vẻ đẹp bài văn ở tiểu học”,
(2005), NXB Giáo dục, của hai tác giả Nguyễn Trí và Nguyễn Trọng Hồn.
Theo GS.TS Lê Phƣơng Nga trong cuốn “Dạy tập đọc cho học sinh
tiểu học”, (2003), NXB Giáo dục, đã xem xét việc dạy học chính là cách dạy
tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, chính là q trình nhận thức.
Trong cuốn “Thế giới quanh ta” số chuyên đề Tập đọc tháng 9 năm
2002, bài Hỏi - đáp về dạy Tập đọc ở tiểu học đã coi Tập đọc là phân môn
thực hành, năng lực đọc đƣợc tạo nên từ bốn kĩ năng là đọc đúng, đọc nhanh,
đọc có ý thức và đọc hay.
Trong bài “Hình thành năng lực đọc cho học sinh trong dạy học ngữ
văn” của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn (Vụ Giáo dục Trung học Bộ Giáo dục
và Đào tạo) đƣa ra những quan điểm trái ngƣợc nhau của những nhà nghiên
cứu nƣớc ngoài về việc đọc. Walcutt.C.C xem đọc dƣới góc độ ngơn ngữ cịn
Tinker M.A coi đọc là một sản phẩm của tƣ duy.

3


Cùng quan niệm về đọc, trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ phƣơng pháp
dạy học tiếng Nga”, (1988), Viện sĩ M.R.Lơrôp lại nghiên cứu việc đọc, khái
niệm đọc từ góc độ ngôn ngữ và ông cũng cho rằng đọc là quá trình giải mã
chữ - nghĩa. Nhƣ vậy, theo ơng việc dạy đọc là kết hợp của hai quá trình đọc
thành tiếng và đọc hiểu.
Nguyễn Minh Thuyết đề cập vấn đề này trong cuốn “Hỏi - đáp về dạy
học Tiếng Việt 5”, (2007), NXB Giáo dục dƣới hai mức độ của đọc là đọc
thơng và đọc hiểu.

Theo “Tạp chí Ngơn ngữ”, số 11 năm 2000, khái quát về giáo dục Ngữ
văn nƣớc ngoài, giới giáo dục Ngữ Văn một số nƣớc Âu - Mỹ cho rằng dạy
đọc là một quá trình tâm lí gồm nhiều khâu, từ cảm nhận văn tự, lí giải ý
nghĩa, đến liên tƣởng, tƣởng tƣợng…
Trong “SGK Ngữ văn 6”, tập một, NXB Giáo dục, xem xét việc đọc
dƣới ba cấp độ: đọc - suy ngẫm - liên tƣởng.
Việc nghiên cứu các phƣơng pháp rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh
tiểu học khơng cịn là vấn đề mới mẻ, nó đã đƣợc đề cập một cách khái quát
hay cụ thể trong các bài báo, trên các tạp chí Ngơn ngữ và đời sống, các cuốn
sách và cả trong các cơng trình nghiên cứu khoa học. Mỗi quan niệm, mỗi
cơng trình nghiên cứu đều đi sâu vào một khía cạnh nhất định. Tuy nhiên, cho
đến thời điểm này chƣa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến biện
pháp cụ thể rèn luyện kĩ năng tập đọc cho học sinh lớp 5. Vì vậy, chúng tơi
mạnh dạn đƣa ra đề tài này nhằm tìm ra phƣơng pháp cụ thể để rèn luyện kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 5.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm các biện pháp để rèn luyện cho học sinh lớp 5 kĩ năng
đọc, nâng cao hiệu quả đọc trong nhà trƣờng.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5.
- Việc đọc các bài Tập đọc, đoạn trích trong giáo khoa tiểu học nói chung
và sách giáo khoa lớp 5 nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Cơ sở lí luận của việc đọc
- Tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học Tập đọc ở lớp 5

- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng đọc trong phân môn
tập đọc ở lớp 5.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc đề tài này, chúng tơi đã sử dụng hai nhóm phƣơng
pháp sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu các khái niệm lý thuyết có liên quan đế đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- phƣơng pháp chung: quy nạp, diễn dịch
- Phƣơng pháp cụ thể:
+ Khảo sát thực tiễn
+ Quan sát, phỏng vấn, thống kê
+ Phƣơng pháp thống kê phân loại
+ Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
+ Phƣơng pháp hệ thống
7. Cấu trúc đề tài
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung

5


Chƣơng 1. Cơ sở lí luận của việc đọc
Chƣơng 2. Thực trạng của việc dạy và học Tập đọc của học sinh lớp 5
Chƣơng 3. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
Phần 3: Kết luận

6



NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm đọc
1.1.1. Quan niệm đọc
Suốt thời gian học tập từ nhỏ đến lớn, học sinh sử dụng hoạt động đọc
nhiều nhất. Các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa, đọc truyện,
đọc bài tập… Khi lớn lên, học tập và hoạt động trong mỗi ngành nghề lại có
hoạt động đọc khác nhau. Có ngƣời nhìn vào tấm phim để đọc (bác sĩ nhìn
vào tấm phim chụp X quang để đọc), có ngƣời lại nhìn vào các hình vẽ,
những con số để đọc đó là các kiến trúc sƣ, những kế toán, đọc trên bảng vẽ
kĩ thuật và các số liệu thống kê. Đó cũng là hoạt động đọc. Nhƣng trong đề tài
này, chúng tôi đề cập đến đọc chữ, đọc văn bản, xem xét đọc trong phân môn
Tập đọc.
Về khái niệm đọc đã có nhiều quan niệm, định nghĩa về đọc. Theo từ
điển Tiếng Việt: “ Đọc là hành động nhìn vào chữ hoạc kí hiệu, dấu hiệu để
hiểu nội dung” [17;520]. Nhƣ vậy, theo định nghĩa này đọc đƣợc hiểu theo
nghĩa rộng, bao hàm cả đọc chữ, đọc số liệu, bản vẽ …..
Tiến sĩ Nguyễn Trí cho rằng: “ Đọc cũng là một quá trình vừa tạo cảm
xúc, vừa thể hiện tình cảm của mình với nhân vật, với bức tranh cuộc sống
hoặc với nội dung được nêu trong bài văn” [13, 7]. Quá trình đọc gắn liền với
những biểu hiện cảm xúc của ngƣời đọc. Đọc là suy ngẫm để thấy đƣợc cái
hay trong ngôn từ.
Trong cuốn “ Sổ tay thuật ngữ phƣơng pháp dạy học tiếng nga”(1998),
Viện sĩ M.R.Lơrôp đã định nghĩa: “ Đọc là một dạng hoạt động ngơn ngữ, lá
q trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói có âm thanh và thơng hiểu nó
(ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức

7



chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng có âm thanh (Ứng với đọc thầm)”
[8,8]. Đây là một định nghĩa rất phù hợp dạy tập đọc ở tiểu học. Định nghĩa
này thể hiện một quan niệm đầy đủ về đọc, xem đó là q trình giải mã hai
bậc: Chữ viết -> âm thanh và chữ viết(âm thanh) -> định nghĩa.
Cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng nói trong bài “Dạy văn là một q trình
tồn diện” đã nhắc đến nhƣ sau: “Phải làm sao có sách và hướng dẫn học
sinh đọc, phải đọc rất nhiều, đọc gấp mấy mươi lần những điều ông thầy
giảng dạy ở lớp … và chốt lại u cầu đạt được là phải gợi ý suy nghĩ,tìm
tịi,rèn luyện óc thơng minh,sáng tạo. Phải làm cho học sinh thấy được trong
bài văn người ta nói gì, và đó là cái hay phải thấy” [1;17]. Ơng cho rằng đọc
chính là hoạt động tƣ duy, đọc để thấy đƣợc cái hay, cái đẹp trong văn.
Sau khi xem xét các định nghĩa, quan niệm khac nhau về đọc, chúng tôi
nhận thấy các định nghĩa thƣờng nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của đọc.
Đọc không chỉ là “đánh vần”, phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ
viết, cũng khơng chỉ là q trình nhận thức để có khả năng thơng hiểu những
gì đƣợc đọc. Đọc chính lá sự tổng hợp của hai q trình đó. Nhƣ vậy, hoạt
động đọc phải xem xét đồng thời hai mặt ngôn ngữ và tƣ duy. Định nghĩa của
viện sĩ M.R.Lơrôp đã xem việc học ở cả hai khía cạnh đó. Do vậy, chúng tôi
chọn và sử dụng định nghĩa này để làm cơ sở thực hiện đề tài.
Và do đó, đọc chính là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình
thức âm thanh để ngƣời đọc, ngƣời nghe hiểu đƣợc những điều mà tác giả nói
qua chữ viết.
1.1.2. Cấp độ đọc
Thế nào là học sinh “biết đọc”? Đó là vấn đề cần quan tâm và cần làm
sáng rõ. “Biết đọc” đƣợc hiểu theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học,
biết đánh vần “mờ- e - me - nặng - mẹ”, ngập ngừng đọc từng tiếng một, thế
cũng gọi là biết đọc. Đọc, thâu tóm đƣợc tƣ tƣởng của một cuốn sách trong


8


vài ba trang cũng là biết đọc. Chọn trong biển sách báo của nhân loại những
gì mình cần, trong một ngày nắm đƣợc tinh thần hàng chục cuốn sách cũng
gọi là biết đọc.
Nhƣ vậy, quan niệm về ngƣời “biết đọc” khơng phải là cái nhất thành bất
biến, nó khơng cố định, tùy thuộc vào trình độ của mỗi ngƣời. Nhƣng để đạt
đƣợc đến mức “biết đọc” thì ngƣời đọc phải đọc thông văn bản và nắm đƣợc
nôi dung, ý nghĩa từ những con chữ.
1.2. Cơ sở ngôn ngữ của việc đọc
1.2.1. Cơ chế của đọc
Cơ chế của việc đọc là cơ sở của việc dạy đọc vì nó sẽ giúp chúng ta xác
định mục đích, nội dung của q trình đọc, cũng nhƣ xác định mục đích, nội
dung của quá trình dạy học đọc.
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông
tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác, sử dụng bộ mã chữ âm dựa vào cơ quan phát âm để phát ra một cách trung thành những dịng văn
tự ghi lại lời nói âm thanh. Trong quá trình đọc con ngƣời tƣ duy để nhận
thức, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý
tƣởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu đƣợc nội dung
những gì đƣợc đọc.
Nhƣ vậy, đọc bao gồm nhiều yếu tố nhƣ tiếp nhận bằng mắt, hoạt động
của cơ quan phát âm, cơ quan thính giác và sự thơng hiểu những gì đƣợc đọc.
Nhiệm vụ của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những
mặt riêng lẻ này của q trình đọc. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên
bao nhiêu thì ciệc đọc càng hồn thiện, càng chính xác và biểu cảm bấy nhiêu.
Kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp, địi hỏi một q trình tập luyện lâu
dài. Theo T.G.Egơrơp việc hình thành kĩ năng này chia làm ba giai đoạn:
phân tích, tổng hợp và giai đoạn tự động hóa. Giai đoạn dạy học vần (lớp 1) là


9


sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì
đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận bằng thị giác và phát âm hầu
nhƣ trùng với nhận thức ý nghĩa. Bƣớc sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc
tổng hợp. Trong những năm cuối cấp, học sinh đọc ngày càng tự động hóa,
nghĩa là ngƣời đọc ngày càng ít quan tâm đến chính q trình đọc mà chú ý
đến việc chiếm lĩnh văn bản.
Việc đọc có ý thức bài đọc nhằm vào sự nhận thức. Chỉ có thể xem là
đứa trẻ biết đọc khi nó đọc và hiểu đƣợc điều mình đọc. Đọc là hiểu đƣợc
nghĩa của chữ viết. Nếu trẻ không hiểu những từ ta đƣa cho chúng đọc, chúng
sẽ khơng có hứng thú học tập và khơng có khả năng thành cơng. Việc đọc
khơng thể tách rời khỏi việc chiếm lĩnh một công cụ ngôn ngữ. Mục đích này
chỉ có thể đạt đƣợc thơng qua con đƣờng luyện giao tiếp có ý thức. Một
phƣơng tiện luyện tập quan trọng và cũng là mục tiêu phải đạt tới trong sự
chiếm lĩnh ngơn ngữ chính là việc đọc, cả đọc thành tiếng và đọc thầm.
Dựa vào hình thức âm thanh có thể chia việc đọc thành bốn cấp độ: đọc
to - đọc thành tiếng; đọc nhỏ - giảm dần âm thanh; đọc nhẩm - chỉ mấp máy
môi theo con chữ; đọc thầm - đọc bằng mắt. Sự tri giác văn bản bằng mắt đi
kèm với hoạt động của cơ quan phát âm và các cơ quan thính giác. Điều này
thể hiện rõ nhất khi đọc thành tiếng. Lúc này cả ba kênh thông tin đều hoạt
động đồng thời: mắt nhìn, miệng đọc và tai nghe văn bản đã đƣợc đọc lên.
Nhƣ vậy, ở cấp độ nào thì các công cụ để thực hiện đọc (thị giác, cơ
quan phát âm, tƣ duy để nhận thức và thính giác) đều tham gia hoạt động. Tùy
thuộc vào cấp độ đọc nào yêu cầu mà từng công cụ, yếu tố phát huy thế mạnh,
chiếm ƣu thế.
Dựa vào mức độ, phẩm chất, trình độ của đọc chia việc đọc thành bốn
loại: đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm và đọc nghệ thuật. Đọc đúng là đọc
theo văn bản không thêm, không bớt, đọc đúng theo các cấp độ của ngôn ngữ


10


trong văn bản từ đợn vị nhỏ đến lớn. Đọc hiểu xác định bằng nội dung chứa
trong văn bản, hiểu nội dung trong văn bản nhƣ thế nào sẽ đọc đƣợc nhƣ vậy
để thể hiện cảm hiểu của ngƣời đọc đối với văn bản. Đọc diễn cảm là biết đọc
nhấn vào những từ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ “chìa
khóa”) để làm nổi lên ý chính; biết điều chỉnh giọng đọc, ngữ điệu đọc để
hiểu và biểu đạt nội dung, ngƣời đọc phải làm chủ giọng đọc của mình. Đọc
nghệ thuật là cấp độ đọc cao nhất. Đó là khả năng nhập vai, hóa thân vào
nhân vật trong quá trình đọc.
Việc nghiên cứu cơ chế của đọc giúp chúng ta trải qua đƣợc nhiều hoạt
động đọc theo chuỗi tuyến tính, nhờ đó có thể hình dung đƣợc trật tự các việc
cần làm để tổ chức q trình học đọc cho học sinh. Từ đó, có thể dạy tốt các
bài Tập đọc cho học sinh.
1.2.2. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
1.2.2.1. Chính âm
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngơn ngữ có giá trị và hiệu
lực về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu học.
Hiện nay, trong trƣờng học chƣa có văn bản quy định về chuẩn chính âm.
Điều này làm cho việc xác định nội dung đọc thành tiếng ở tiểu học gặp nhiều
khó khăn, khơng tránh khỏi những lúng túng khi xác định nội dung đọc đúng,
đọc diễn cảm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết nhƣ thế nào những nét khác biệt trên
bình diện ngữ âm giữa các phƣơng ngữ, một hiện tƣợng khách quan có liên
quan trực tiếp đến việc xác định chuẩn chính âm. Trong bốn thập kỉ nay, giới
Việt ngữ học có nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực ngữ âm TV, trong
đó có ý kến cho rằng nên lấy phƣơng ngữ Bắc Bộ (chuẩn là Thủ đô Hà Nội)
lám cơ sở để xác định chuẩn mực ngữ âm TV đồng thời bổ sung một ngữ âm

tích cực của các phƣơng ngữ khác. Đây là quan điểm đƣợc nhiều ngƣời tán

11


thành. Hiện nay trong trƣờng học, một cách tự nhiên, hệ thống ngữ âm đƣợc
phản ánh trên chữ viết đƣợc coi là hệ thống ngữ âm chuẩn mực của TV hiện
tại. Đó là cách phát âm lấy phƣơng ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là tiếng Hà Nội) bổ
sung ba phụ âm đầu của miền Trung, những âm đƣợc biểu hiện trên chữ viết
bằng các con chữ tr, s, r và hai vần ƣơu, ƣu. Đây là cách phát âm có sự khu
biệt âm vị học tối đa của chữ viết để khắc phục những âm đã bị mất đi hoặc bị
biến dạng của tiếng địa phƣơng.
Phát âm đúng chuẩn chữ viết sẽ mang lại nhiều lợi ích: trƣớc hết nó giúp
học sinh viết đúng chính tả, sau đó cịn giúp học sinh phát âm rõ ràng hơn khi
học ngoại ngữ. Song chúng ta không nên đẩy hết gánh nặng của chính tả sang
cho ngữ âm. Vì phát âm sai nên viết sai chính tả nhƣng điều đó khơng có
nghĩa là để viết đúng lại chỉ có cách là luyện phát âm. Còn phải khắc phục
điều này bằng cách dạy ý thức chính tả cho học sinh từ rất sớm. Học sinh
càng biết cách phát âm nhiều âm khác nhau càng có lợi. Nhƣng đặt thành vấn
đề có tính ngun tắc bắt buộc thì lại khơng đƣợc vì cấp tiểu học chỉ có thể
đặt ra vấn đề luyện các kĩ năng cơ bản không thể thiếu đƣợc mà chƣa luyện
đƣợc tất cả các kĩ năng cần có.
Thực ra khơng thể lúc nào cũng bắt học sinh phát âm đúng theo chuẩn
phát âm đƣợc. Điều này không cần thiết. Nếu làm nhƣ vậy sẽ gây ra biết bao
nhiêu khó khăn đối với việc trau dồi cách phát âm chuẩn mực trong nhà
trƣờng. Vì vậy, để luyện đọc đúng cho học sinh, chúng ta phải đặt vấn đề
chấp nhận hai chuẩn chính âm. Vậy những trƣờng hợp nào cần xem là học
sinh mắc lỗi phát âm phải sửa chữa và những trƣờng hợp nào cần chấp nhận
chuẩn chính âm thứ hai?
Dựa vào tâm lí của ngƣời bản ngữ, chúng ta có thể chia các trƣờng hợp

phát âm lệch chuẩn thành hai nhóm: nhóm lỗi phát âm và nhóm biến thể
phƣơng ngữ. Chúng ta chỉ luyện cho các trƣờng hợp đƣợc xem là mắc lỗi phát

12


âm cịn đặt vấn đề chấp nhận chuẩn chính âm cho các trƣợng hợp đƣợc xem là
biến thể phƣơng ngữ. Hiện nay, chỉ coi là lịch chuẩn khi phát âm lẫn l/n hay
khơng trịn vành rõ chữ kiểu “Cn cùa bia bía” (Con cị be bé) của một số
ngƣời miền Bắc. Những cách phát âm này làm cản trở hoặc làm giảm hiệu
quả giao tiếp, ít ra là ở những cặp ngƣời nghe - ngƣời nói nhất định.
Chúng ta nhận thấy cảm giác về phát âm hay hay không hay cũng là
đánh giá tính hiệu quả của giao tiếp về mặt phát âm có thể mang tính chủ
quan, tùy theo ngữ cảm của ngƣời nghe. Tuy nhiên, không bắt lỗi đối với
trƣờng hợp phát âm không phân biệt tr/ch, r/d/gi, s/x chấp nhận chuẩn chính
âm thứ hai. Cũng nhƣ vậy, trong q trình học sinh đọc diễn cảm giáo viên
khơng nhất thiết yêu cầu học sinh phải đọc đúng ba âm quặt lƣỡi và hai vần
ưu, ươu.
Nhƣ vậy, luyện chính âm giúp học sinh có một giọng đọc trau chuốt hơn,
chuẩn hơn, hay hơn và có thể chấp nhận nhiều chuẩn chính âm. Học sinh
thuộc phƣơng ngữ Bắc Bộ sẽ không bắt buộc phải phân biệt các cặp phụ âm
đầu tr/ch, r/d/gi, s/x .
1.2.2.2. Trọng âm và ngữ điệu đọc
1.2.2.2.1. Trọng âm
Trọng âm là độ vang và độ mạnh khi phát ra âm tiết. Dựa vào sự phát âm
một tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đƣờng nét thanh điểu rõ
hay không rõ, ngƣời ta chia các tiếng trong chuỗi lời nói thành tiếng có trọng
âm và khơng có trọng âm. Trọng âm mạnh rơi vào các từ truyền đạt thơng tin
mới hoặc có tầm quan trọng trong câu. Trọng âm yếu đi với những từ khơng
có hoặc ít có ít thơng tin mới.

Từ ghép chính phụ chỉ có một trọng âm cịn từ ghép đẳng lập hay hai từ
đơn có quan hệ song song trong câu thì đều mang trọng âm. Ở ngữ đoạn danh
từ, trọng âm mạnh thƣờng rơi vào định ngữ, thực từ mới có trọng âm. Loại từ
và hƣ từ mang trọng âm yếu.

13


Trọng âm khơng có tác dụng phân biệt các tiếng về mặt nghĩa mà chỉ có
tác dụng phân cắt các ngữ đoạn và góp phần xác định ý nghĩa ngữ
pháp. Trong câu, mỗi ngữ đoạn (mỗi chỗ ngắt nghỉ) đƣợc kết thúc là một
trọng âm, trừ khi ngữ đoạn kết thúc bằng một ngữ thế từ.
Ví dụ: khi đọc câu thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
(Cảnh khuya - Hồ Chí Minh)
Nếu ngắt ở trƣớc từ trong nghĩa là trọng âm rơi vào từ suối sẽ hiểu nghĩa
câu thơ này là nhấn mạnh độ trong của tiếng suối. Còn nếu ngắt ở trƣớc từ
như trọng âm của câu sẽ rơi vào từ trong nhấn mạnh sự so sánh tiếng suối
trong với tiếng hát xa.
Sự kết thúc mỗi ngữ đoạn bằng một trọng âm là căn cứ quan trọng để
xác định chỗ ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ, cũng là căn cứ để xác định
những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
1.2.2.2.2. Giọng điệu
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng nói, giọng đọc. Theo nghĩa rộng, ngữ điệu là sự thống
nhất của một tổ hợp các phƣơng tiện siêu đoạn có quan hệ tƣơng tác lẫn nhau
đƣợc sử dụng ở bình diện câu nhƣ cao độ (độ cao thấp của âm thanh), cƣờng
độ(độ lớn, nhỏ, mạnh, yếu của âm thanh), tốc độ(độ nhanh, chậm, ngắt, nghỉ),
trƣờng độ(độ dài ngắn của âm thanh) và âm sắc. Những yếu tố này không tồn
tại một cách cô lập mà thống nhất thành một tổ hợp phản ánh đúng thái độ,

tình cảm, cảm xúc của tác giả khi mô tả mới tạo thành ngữ điệu. Ngữ điệu
chính là sự hịa đồng về âm hƣởng của bài đọc.
Luyện đọc thành tiếng không dừng lại ở việc luyện chính âm mà cần
phải luyện đọc đúng ngữ điệu. Để tạo ra ngữ điệu, học sinh phải làm chủ các
thông số âm thanh của giọng tạo ra cƣờng độ bằng cách điều khiển đọc to,

14


nhỏ, nhấn giọng, lơi giọng, tạo ra tốc độ bằng cách điều khiển độ nhanh chậm,
và chỗ ngắt nghỉ của lời, tạo ra cao độ bằng cách nâng giọng, hạ giọng, tạo ra
trƣờng độ bằng cách kéo dài giọng (ngân) hay không kéo dài.
Suy cho cùng muốn đọc đƣợc hay, diễn cảm thì ngƣời đọc cần chú ý đến
trọng âm, ngữ điệu đọc đồng thời cần phát âm đúng chuẩn chính tả - đọc đúng
chính âm của tiếng.
1.3. Vị trí và nhiệm vụ phân môn Tập đọc ở lớp 5
1.3.1. Vị trí phân mơn Tập đọc
Tập đọc cùng với Học vần và Tập viết là nhóm bài học khởi đầu giúp
cho học sinh chiếm lĩnh đƣợc công cụ mới - chữ viết; có đƣợc một năng lực
mới - đọc thơng, viết thạo. Từ đó, mở cánh cửa bƣớc vào thế giới của những
ngƣời biết đọc, biết viết để có điều kiện tiến lên nắm lấy kho tàng tri thức và
văn hóa của lồi ngƣời. Đối với học sinh tiểu học, nhờ biết đọc mà các em có
điều kiện học các mơn khác trong chƣơng trình.
Có một điều cần phân biệt ở đây là phân môn Tập đọc, Tập viết chứ
không phải là phân môn Đọc hay phân môn Viết. Tại sao lại nhƣ vậy? Đọc và
Viết là hai trong bốn kĩ năng mà giáo viên cần rèn cho học sinh. Học sinh khi
mới bƣớc chân vào cổng trƣờng chƣa có hoặc có nhƣng chƣa thành thạo các
kĩ năng đó mà phải học, phải tập luyện để có kĩ năng thành thục. Quá trình
rèn luyện để hình thành kĩ năng này kéo dài suốt những năm tháng học phổ
thông. Tuy nhiên, do mục tiêu của môn TV cấp Tiểu học “Đứa trẻ khi kết

thúc năm năm học trong nhà trường tiểu học hiện đại là đứa trẻ đã có những
cơ sở ban đầu cho việc phát triển toàn diện về nhân cách và tình cảm, trí tuệ,
thể chất: có những tri thức và kĩ năng cơ bản để học tập tiếp hoặc đi ngay
vào cuộc sống và thích ứng với cuộc sống; biết sử dụng có hiệu quả tiếng mẹ
đẻ khi đọc, viết, nghe, nói phục vụ mục đích giao tiếp và thu nhận kiến thức
thông tin” [1;9]. Hết lớp 5, học sinh phải có kĩ năng đọc thành thạo. Lên các
cấp trên việc rèn luyện kĩ năng đọc khơng cịn là một phân môn riêng lẻ, trọng

15


tâm mỗi bài đọc khơng cịn là rèn kĩ năng đọc mà là rèn kĩ năng cảm thụ, hiểu
biết của các em. Bởi vậy, từ lớp 6 trở lên không cịn gọi là phân mơn tập đọc
mà trở thành mơn ngữ văn. Bản chất của nó chính là q trình đọc hiểu.
Có thể nói, đọc là kĩ năng quan trọng cần phải rèn luyện cho học sinh.
Phân môn Tập đọc rèn luyện và phát triển năng lực đó. Bởi vậy, Tập đọc có
vai trị rất lớn trong q trình hình thành nhân cách cho học sinh tiểu học.
1.3.2. Nhiệm vụ phân môn Tập đọc
Tập đọc đƣợc bắt đầu từ cuối học kì 2 của lớp 1. Kĩ năng đọc có ở học
sinh, rèn cho học sinh từ đầu lớp 1 nhƣng dƣới dạng luyện đọc những từ khóa,
câu, đoạn ngắn đơn giản, trong các bài văn. Đến kì 2 thì Tập đọc đƣợc dạy
riêng là một phân môn, mỗi bài đọc là những bài văn, thơ ngắn có nội dung dễ
hiểu, dễ đọc, chứa đựng những âm, vần đã học. Bắt đầu sang lớp 2 học sinh
đƣợc học 4 tiết tập đọc trên một tuần chiếm 40% số tiết học TV, ở lớp 3 học
sinh học 3 tiết Tập đọc trên tuần chiếm 33,33% tổng số tiết học Tiếng Việt.
Sang đến lớp 4, lớp 5 học sinh chỉ còn học 2 tiets trên một tuần chiếm 25%
tổng số tiết học môn Tiếng Việt, phân môn tập đọc chiếm thời lƣợng khá cao
so với các phân môn khác. Lớp 2, 3 tập trung phát triển kĩ năng đọc nên tập
đọc chiếm tỉ lệ cao hơn; lớp 4, 5 học sinh đã đọc thành thạo, kĩ năng đọc đƣợc
hình thành, ở giai đoạn này tập trung phát triển khả năng cảm hiểu cho các

em. Đồng thời, cần phát triển ở các em những kĩ năng khác nhƣ kĩ năng dùng
từ, giao tiếp. Do đó, mà thời lƣợng cho mơn Tập đọc giảm đi và thời lƣợng
cho phân môn “Luyện từ và câu” tăng lên.
Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc đƣợc tạo nên từ bốn kĩ
năng bộ phận là: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay. Bốn kĩ năng
này đƣợc hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm,
chúng đƣợc rèn luyện dồng thời và hỗ trợ lẫn nhau, sự hồn thiện tích cực kĩ
năng này sẽ có tác động tích cực đến kĩ năng khác. Vì vậy, trong dạy học

16


không thể xem nhẹ kĩ năng nào và cũng không thể tách rời chúng.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc đối với học sinh lớp 5 là giáo dục lòng
ham đọc sách của học sinh, hình thành phƣơng pháp và thói quen làm việc với
sách cho học sinh. Nói cách khác, thông qua việc dạy đọc phải làm cho học
sinh thích đọc và thấy đƣợc những khả năng đọc là có ích cho các em trong cả
cuộc đời.
Nhiệm vụ thứ ba là làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến
thức văn học cho học sinh. Trong mỗi tiết học Tập đọc, mỗi bài học đếu có
những từ mới, SGK đã giải thích cộng với sự giảng giải của giáo viên học
sinh hiểu thêm ý nghĩa của các từ và biết cách sử dụng chúng. Bên cạnh đó,
qua mỗi bài học nội dung bài học phong phú hấp dẫn cung cấp thêm vốn hiểu
biết cho các em. Việc dạy học sẽ giúp các em hiểu biết hơn, giáo dục các em
lòng yêu cái thiện, cái đẹp… dạy đọc khơng chỉ giáo dục tƣ tƣởng, đạo đức
mà cịn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Nhƣ vậy, dạy đọc có nhiệm vụ giáo dƣỡng, giáo dục và phát triển cho
học sinh tồn cấp nói chung và cho học sinh lớp 5 nói riêng.
1.3.3. Ý nghĩa của dạy Tập đọc

Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên của mỗi ngƣời đi học. Đầu
tiên trẻ phải học đọc sau đó đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh đƣợc
một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập, nó là cơng cụ giúp các em
học các môn khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập, đọc tạo điều kiện
cho học sinh khả năng tự học và tinh thần học, học nữa, học mãi.
Tập đọc với tƣ cách là một phân môn của TV ở tiểu học có nhiệm vụ đáo
ứng yêu cầu hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.

17


Chƣơng 2

THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỌC Ở LỚP 5
Chúng tôi xin đƣa ra nội dung chƣơng trình phân mơn tập đọc ở tiểu học
và quy trình chung khi giảng dạy một bài tập đọc để có thể đối chiếu với thực
trạng dạy và học của học sinh lớp 5.
2.1. Nội dung chƣơng trình và phân bố thời lƣợng
Mỗi tuần hai tiết tập đọc
+ Số lƣợng bài: Có 60 bài Tập đọc, trong đó có 31 bài là văn xuôi, 17
bài là thơ và 9 bài không phải là văn bản nghệ thuật.
+ Kĩ năng cần rèn luyện: Luyện cách đọc phù hợp với các loại văn bản
khác nhau; tập đọc một màn kịch hay một vở kịch ngắn có giọng đọc phù hợp
với nhân vật và tình huống kịch; tập đọc diễn cảm bài văn, thơ; tìm ý chính,
tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút ra đại ý của bài; nhận biết các mối quan hệ giữa
các thông tin trong bài văn; tập nhận xét về nhân vật và ngơn ngữ trong các
bài đọc có giá trị văn chƣơng; đọc hiểu các kí hiệu, các dạng viết tắt thông
thƣờng, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bản đồ, bảng biểu… ; học thuộc lòng
một số bài văn vần trong SGK.
 Cấu trúc bài Tập đọc

Một bài Tập đọc thƣờng có ba phần:
- Phần 1: Văn bản đọc
Nội dung văn bản đọc là một đoạn truyện, một bài văn miêu tả, một bài
thơ, văn chính luận, hay một vở kịch.
- Phần 2: Chú giải
Đây là phần giải nghĩa những từ mới những từ khó hiểu đối với học sinh.
- Phần 3: Hƣớng dẫn tìm hiểu bài
Nội dung này gồm những câu hỏi xoay quanh nội dung bài đọc nhằm
giúp học sinh tái hiện những chi tiết của bài hay phát hiện ra ý nghĩa, nội
dung của bài đọc.

18


×