Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEM MON MY THUAT: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 43 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ

Mục lục
1


Nội dung

Trang

Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng ,phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Dự kiến đóng ghóp của đề tài
Phần II: Nồi dung và kết quả
CHƯƠNG I : cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
CHƯƠNG II : Thực trạng của việc dạy và học phân môn ve
6 – 11

tranh
CHƯƠNG III : Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng

11 - 26

phân môn ve tranh


Phần III: Kết luận và đề nghị

31

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2


- Trong quá trình phát triển lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam từ xa xưa cho đến nay ở
bất kỳ giai đoạn nào tinh thần hiếu học và sự chăm chỉ, cần mẫn của người Việt Nam
vẫn phát huy được vai trò to lớn. Đặc biệt ttrong giai đoạn đất nước ta hiện nay đã và
đang có bước chuyển mình mạnh me trên nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ, kinh
tế chính trị, văn hoá, giáo dục … Đảng và nhà nước ta hiện nay đã và đang có những
chính sách tích cực nhằm phát huy những thế mạnh sẵn có và mở cửa để các nước tiên
tiến trên thế giới đầu tư khoa học kỹ thuật nhằm xây dung và phát triển đất nước trên
mọi phương diện. Đặc biệt trong đó là chú trọng đưa các chương trình đổi mới, các giải
pháp để nâng cao chất lượng dạy và học dần dần thay thế hệ thống giáo dục lạc hậu,
kém hiệu quả.
Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tại hội nghị lần
thứ IV, ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đề ra.
“ Giáo dục phải phấn đấu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo
dục những con người của tương lai, những con người của trí tuệ, sáng tạo, giầu tính
nhân văn. Có khả năng thích ứng với điều kiện xã hội đang biến đổi. Có như vậy giáo
dục mới thực sự trở thành nhân tố phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ đổi mới”.
Để thực hiện việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp thời đại và xu thế phát triển
chung của thế giới cũng như việc đẩy mạnh và nâng cao công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi mỗi chũng ta phải tự trau rồi những kiến thức khoa học
cho mình góp phần nhỏ bé cho công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Càng đòi hỏi
mỗi chúng ta càng phải học tập và tiếp cận nền khoa học hiện đại, tiên tiến trên thế giới

để có thể làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay nhằm xây dung đất nước Việt
Nam giàu đẹp, văn minh sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Như sinh thời Bác
Hồ đã dặn và mong đợi ở thế hệ trẻ sau này. Chính vì vậy việc học tập, nghiên cứu tìm
ra những giải pháp khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao trình độ là một vấn đề hết
sức cần thiết đối với mọi người, mọi ngành trong xã hội. Đặc biệt trong ngành giáo dục
3


thì đề tài nghiên cứu khoa học là vấn đề được nhiều người quan tâm. Nó là quá trình
nghiên cứu và nhận thức hiện thực khách quan, là quá trình tìm hiểu thực tế giáo dục để
tìm ra những mặt còn hạn chế cần khắc phục để nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp
với mỗi thời kỳ.
Trong quá trình dạy học mỗi người giáo viên đều rút ra những kinh nghiệm riêng cho
bản thân mình, đồng thời luôn tìm ra những sáng kiến mới, những giải pháp giúp cho
quá trình giảng dạy đạt kết quả cao hơn. Mỗi chúng ta không nên tự hài lòng hay thoả
mãn với những gì mình đã có mà luôn phải học hỏi, trau rồi những kiến thức rút ra
những kinh nghiệm quý, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao trình độ áp dụng
những phương pháp dạy học phù hợp nâng cao chất lượng dạy học.
Như chúng ta đều biết, dạy học là một nghề trong những nghề khó bởi vì sản phẩm
của nó là con người. Con người vốn diễn biến tâm lý rất phức tạp. Quá trình dạy học là
quá trình truyền tải, phản ánh và tiếp thu tri thức. Một đất nước phát triển cần có những
nguồn lức phát triển. Chính vì vậy đào tạo thế hệ trẻ được đặt lên hàng đầu và đào tạo
một cách toàn diện về các mặt: Đức, Trí, Thể, Mĩ các mặt đó phải được phát triển song
song, trong đó giáo dục thẩm mĩ là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Như đã nêu ở trên dạy học là khó thì dạy học nghệ thuật nói chung và dạy học mĩ
thuật nói riêng càng khó hơn, càng phải mang tính nghệ thuật cao hơn. Song không phải
là không dạy được vì dạy mĩ thuật là người dạy đem lại cho người học thấy được niềm
vui trong cuộc sống, người học nhận thấy cái đẹp có ở xung quanh mình thông qua các
tác phẩm nghệ thuật, thông qua cảnh vật thiên nhiên, đất nước, con người… từ đó các
em biết thưởng thức cái đẹp trong cuộc sống, biết trân trọng cái đẹp và tạo ra cái đẹp

phục vụ cho mình và cho xã hội.
Là một người giáo viên dạy môn Mĩ thuật ở bậc THCS, tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm
thế nào để tìm ra những giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học phân môn ve trang trí
( 6+ 7) ở trường Trung học cơ sở.
4


Trong những năm học vừa qua khi đứng trên mục giảng, được tiếp xúc trao đổi cùng
học sinh và thông qua những tiết dạy thể nghiệm, tôi thấy với phân môn ve trang trí và
đặc biệt là khối ( 6 + 7) các em rất yêu thích môn học. Qua các giờ các em được quan
sát , tìm hiểu về các họa tiết và ứng dụng vào trang trí các đồ vật đơn giản mà các em
tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên khả năng sáng tạo và những kỹ năng ve
của các em còn nhiều hạn chế. Tranh ve của các em chỉ biết liệt kê, kể lại những sự vật,
hiện tượng mà mình nhìn thấy mà chưa có sự lựa chọn, chắt lọc và sắp xếp các mảng
hình, họa tiết, mầu sắc cho hài hoà, phù hợp.
Chính vì vậy trong quá trình dạy học tôi đã nghiên cứu tìm hiểu phân môn ve trang trí
khối ( 6 + 7) bậc trung học cơ sở làm thế nào để khắc phục được những hạn chế của
giáo viên và học sinh trong giờ học, tạo không khí thoải mái, tự nhiên, nhẹ nhàng và
hứng thú. Để hiểu và gần gũi từ đó các em yêu thích môn học hơn và chất lượng giờ
học cũng cao hơn.
2.Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học phân môn ve
trang trí khối ( 6+7) bậc trung học cơ sở.
Thông qua quá trình giảng dạy thực tiễn để tìm ra những mặt còn hạn chế, tồn tại ảnh
hưởng đến chất lượng học từ đó rút ra những giải pháp để khắc phục những hạn chế, tồn
tại để nâng cao chất lượng dạy học.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn ve trang trí khối ( 6 + 7) bậc trung
học cơ sở.
3.1.1. Vài nét về trường phổ thông cơ sở Đông Sơn.

3.1.2. Quan điểm nhận thức, vai trò môn mĩ thuật ttrong nhà trường.
3.1.2.1. Quan điểm của Ban giám hiệu.
3.1.2.2. Quan điểm của cán bộ giáo viên.
5


3.1.2.3. Quan điểm nhận thức của phụ huynh học sinh.
3.1.3. Thực trạng việc dạy và học phân môn ve tranh ở khối 6+ 7 trường phổ thông
cơ sở Đông Sơn.
3.1.3.1. Thực trạng việc dạy học của giáo viên.
3.1.3.2. Thực trạng việc học của học sinh.
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao chất lương phân môn ve tranh khối ( 6 + 7) bậc
trung học cơ sở trườngphổ thông cơ sở Đông Sơn.
3.2.1. Tìm hiểu đặc điểm dạy và học phân môn ve trang trí khối ( 6 + 7) bậc trung
học cơ sở.
3.2.1.1. Nội dung chương trình phân môn ve trang trí khối ( 6 + 7) bậc trung học cơ
sở.
3.2.1.2. Đặc điểm dạy và học phân môn ve tranh khối ( 6 + 7) bậc trung học cơ sở
3.2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh.
3.2.2.1. Đặc điểm sinh lý.
3.2.2.2. Đặc điểm tâm lý.
3.2.2.3. Đặc điểm ngôn ngữ họa tiết trang trí.
3.2.3. Đề xuất một số giải pháp.
3.2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên thiết kế bài giảng phù hợp với nội dung bài học.
3.2.3.2. Giải pháp 2: Chuẩn bị thiết bị và đồ dùng dạy học.
3.2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức các hình thức dạy học phù hợp, áp dụng công nghệ
thông tin vào bài giảng.
3.2.3.4. Giải pháp 4: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.
3.2.3.5. Giải pháp 5: Tổ chức học sinh tự nhận xét đánh giá.
3.3. Vận dụng vào dạy thực nghiệm.

3.3.1. Mục đích của việc dạy thực nghiệm.
3.3.2. Phương pháp dạy thực nghiệm.
6


3.3.3. Tổ chức dạy thực nghiệm.
3.3.4. Thời điểm dạy thực nghiệm.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: phân môn ve trang trí học sinh khối trung học cơ sở,
trường phổ thông cơ sở Đông Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: học sinh khối 6+7.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp.
5.3. Phương pháp nghiên cứu điều tra phỏng vấn thăm dò.
5.4. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
5.5. Phương pháp nghiên cứu so sánh đối chiếu.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài.
6.1. Đóng góp cho bản thân, cho đồng nghiệp.
Với việc chọn đề tài nghiên cứu tôi mong được đóng góp chút kinh nghiệm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học cho môn mĩ thuật ở trường trung học cơ sở, để phát huy
tính tích cực độc lập suy nghĩ của học sinh giúp học sinh tự tin vào khả năng tìm tòi tư
duy sáng tạo.
Mặt khác se là cơ sở cho đồng nghiệp của tôi trong huyện vận dụng vào từng bài trong
phân môn ve trang trí.
PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Luật giáo dục số 38/200 5/ QH 11 điều 28 quy định:’’ phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với

đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
7


theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm
đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh’’.
Nếu như việc dạy toán, văn, anh…ở trường không nhằm mục đích đào tạo các em
trở thành những nhà chuyên môn thì việc dạy học mỹ thuật cũng không nhằm đào tạo
các em trở thành những họa sĩ vì môn mĩ thuật thuộc về năng khiếu mà không phải tất
cả các em học sinh đều có năng khiếu về mĩ thuật mà nhằm giáo dục khả năng cảm thụ,
thẩm mĩ của các em tạo điều kiện cho các em làm quen tiếp xúc với cái đẹp thưởng thức
và tạo ra cái đẹp vận dụng nó vào cuộc sống của các em sau này.
2. Cơ sở thực tiễn:
Từ thực tế giảng dạy mĩ thuật tôi thấy các em học sinh rất yêu thích môn nghệ thuật
đặc biệt là môn mĩ thuật vì qua đó các em được tiếp xúc với các tác phẩm nổi tiếng của
các họa sĩ trong cũng như ngoài nước của các em thiếu nhi việt nam cũng như quốc tế,
đặc biệt các em rất yêu thích phân môn ve trang trí các em quan sát và trang trí những
đồ vật hàng ngày mà các em tiếp xúc như cái khăn hình vuông, hình chữ nhật… lọ hoa,
bình gốm hay đến bìa sách, tờ lịch treo tường ngày tết. Các em sử dụng chính những
họa tiết đơn giản cách điệu từ hoa, lá, động vật hay côn trùng vào chính bài ve trở lên
sinh động và phong phú.
Bên cạnh việc giảng dạy cho học sinh tiếp thu những kiến thức cơ bản tôi thấy còn
gặp rất nhiều hạn chế: Một số bộ phận giáo viên cũng như học sinh vẫn coi nhẹ môn mĩ
thuật và cho rằng đó là môn phụ nên chưa thực sự quan tâm, chú ý. Đồ dùng học sinh
còn thiếu thốn ít đầu tư, mặt khác nhiều giáo viên mỹ thuật chưa thực sự có phương
pháp dạy học thích hợp để giúp học sinh thấy được cái hay cái đẹp của môn học nói
chung và của phân môn ve trang trí nói riêng. Bên cạnh đó cơ sở vật chất của nhà
trường còn rất nhiều thiêu thốn chưa có phòng học chức năng, phòng đồ dùng chưa có
đầy đủ, những trang thiết bị cần thiết phục vụ cho môn học, bàn ghế thô sơ tài liệu liên
quan đến môn học còn hạn chế. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn chuẩn

8


bị tốt các khâu trong thu thập tài liệu phục vụ cho môn học thêm phong phú đa dạng để
kích thích, động viên học sinh thường xuyên kịp thời, nên tôi đã gặt hái được một số
thành quả đáng kể, phần lớn học sinh say xưa với môn học hiểu được cái hay cái đẹp
trong môn học góp phần hình hành ở các em khả năng cảm thụ thẩm mĩ chính vì những
lý do trên mà tôi viết sang kiến kinh nghiệm” Một số giả pháp để nâng cao chất lượng
dạy và học phân môn ve trang trí khối 6+7 ở trường trung học cơ sở”.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANG
TRÍ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn vẽ trang trí ở bậc trung học cơ sở
1.1. Vài nét về khối cấp 2 trường:
Trường phổ thông cơ sở riêng khối cấp 2 có 6 lớp học.
Số phòng học kiên cố gồm có 6 phòng.
Tổng số học sinh khối 6,7 là 98 em, trong đó 36 em là người dân tộc thiểu số.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 33 đồng chí trong đó khối tiểu học có 13 đồng
chí, khối cấp 2 có 15 đồng chí.
Là một trường được coi là khó khăn nhất của huyện Yên Thế cả về cơ sở vật chất, địa
hình, con người … Nhưng thầy và trò nhà trường vẫn cố gắng vượt lên trên tất cả, và
nhiều năm liền nhà trường đều đạt danh hiệu cơ quan văn hóa cấp huyện.
1.2. Quan điểm nhận thức, vai trò môn mĩ thuật ttrong nhà trường.
1.2.1. Quan điểm của Ban giám hiệu:
Thực hiện mục tiêu chung của Đảng và nhà nước ta là đào tạo thế hệ trẻ trở thành chủ
nhân tương lai của đất nước, phải phát triển một cách toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mĩ …
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan niệm rằng: bất cứ một mặt nào, một môn học nào
đều hết sức quan trọng trong mục tiêu chung của nhà trường. Các môn học phải được
đào tạo bám sát mục tiêu kiến thức, kỹ năng, giáo dục mà chương trình của bộ Giáo dục
đã biên soạn. Các môn học, tiết học phải bám sát bảo đảm về thời lượng, nội dung và
9



không được xem nhẹ bất cứ môn học nào với các môn học mang tính nghệ thuật lại
càng cần chú trọng và khuyến khích để các em phát huy hết khả năng vốn có, từ đó phát
hiện ra những em có năng khiếu đặc biệt để quan tâm bồi dưỡng nhằm giúp các em có
cơ hội trở thành những con người tài năng của đất nước.
1.2.2. Quan điểm của cán bộ giáo viên:
Trong tất cả đội ngũ giáo viên, kể cả những giáo viên dạy văn hoá, 100% cán bộ giáo
viên đều có những nhận thức đúng đắn, toàn diện về môn học mĩ thuật.
Đây là một môn học khó, xong rất thoải mái vì sau những giờ học các môn văn hoá
như Toán, Vật lý, Ngữ văn … căng thẳng thì các em lại được học môn mĩ thuật nên
giúp các em bớt căng thẳng, ức chế, mệt mỏi vì nghệ thuật luôn đem lại cho con người
sự thoải mái, thích thú và niềm say mê trong cuộc sống. Đây cũng là môn học có thể bổ
trợ kiến thức cho nhiều môn học khác.
Chính vì vậy việc dạy và học mĩ thuật cần phải được quan tâm, đầu tư một cách thích
đáng.
1.2.3. Quan điểm nhận thức của phụ huynh học sinh:
Mĩ thuật là một môn học mang đầy ý nghĩa “ học mà chơi, chơi mà học”. Trong giờ
học mĩ thuật các em được thả mình trong nhịp điệu của cuộc sống, trong thiên nhiên các
em ve lên giấy bằng cách nhìn, cách nghĩ của mình về thiên nhiên, các hoạt động của
con người diễn ra hàng ngày dưới sự gợi ý, giúp đỡ của giáo viên. Ngoài ra các em còn
được thưởng thức một số tác phẩm nghệ thuật của các hoạ sĩ, của thiếu nhi trong nước
và thế giới. Các tác phẩm điêu khắc, tượng, các hoạ tiết về vốn cổ dân tộc … qua đó các
em hiểu biết thêm về nghệ thuật, yêu quý nghệ thuật từ đó biết chân trọng, giữ gìn các
giá trị nghệ thuật nói chung và nghệ thuật dân tộc nói riêng.
Chính vì vậy đối với các em được học mĩ thuật là niềm vui, là sự thích thú và thoải
mái. Và sự thích thú đó đã trở thành những ước mơ, những hoài bão của các em. Có
nhiều em bọc bạch tâm sự “ Sau này em muốn trở thành thày giáo dạy mĩ thuật” , có em
10



mơ ước “ Em mơ mình se trở thành hoạ sĩ nổi tiếng để ve nhiều tranh về gia đình và
làng quê em còn có em mong muốn xây dựng được những xưởng gốm để thỏa chí sáng
tạo” …
Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng và nhà nước đời sống của
nhân dân ngày được cải thiện, trình độ nhận thức được nâng lên, sự quan tâm của nhân
dân đến việc học tập của con em được trú trọng. Hầu hết các bậc phụ huynh học sinh
đều tán thành và mong muốn các con em họ phải được học ở một môi trường có đủ điều
kiện để đào tạo toàn diện. Trong đó giáo dục thẩm mĩ là hết sức quan trọng.
1.3. Thực trạng việc dạy và học phân môn vẽ trang trí ở trường trung học cơ sở nói
chung và khối ( 6 + 7) nói riªng.
1.3.1. Thực trạng việc dạy của giáo viên:
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng bao gồm nhiều yếu tố như: đội ngũ giáo viên,
trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, thiết kế bài dạy và đồ dùng dạy học.
Trường phổ thông cơ sở Đông Sơn có đầy đủ giáo viên đứng lớp, trong đó giáo viên
dạy mĩ thuật gồm 02 đồng chí trong đó một đồng chí phụ trách dạy khối tiểu học. Do
vậy các khối lớp đều có giáo viên chuyên mĩ thuật trực tiếp giảng dạy 1 tiết / 1 lớp/ 1
tuần. Thực hiện đúng theo phân phối chương trình quy định của Bộ giáo dục.
Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều lúng túng. Do vậy ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng dạy và học.
Với môn mĩ thuật trong trường trung học học gồm 4 phân môn:
- Phân môn ve tranh
- Phân môn ve tranh trí
- Phân môn ve theo mẫu
- Phân môn thường thức mĩ thuật
11


Trong 4 phân môn trên thì phân môn ve trang trí là phân môn đòi hỏi học sinh ngoài

việc lĩnh hội kiến thức cơ bản thông qua rèn luyện kỹ năng thực hành cần có khả năng
tư duy, sáng tạo, trí tưởng tượng và khả năng sử dụng hình ảnh, mầu sắc và cách sắp
xếp hài hoà phù hợp mang tính thẩm mĩ cao.
Chính vì vậy mà với phân môn ve trang trí và đặc biệt là khối ( 6 + 7) có một số giáo
viên rất ngại khi dạy phân môn này vì ngoài việc thiết kế bài dạy cho phù hợp, sử dụng
kết hợp các phương pháp linh hoạt hiệu quả thì giáo viên cũng cần phải có khả năng và
kiến thức thực hành tốt, đồng thời phải có tư duy sáng tạo thì mới phát huy được hết
khả năng trang trí của các em.
Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú với tiết học ve trang trí, làm sao để học sinh
không cảm thấy lúng túng, bế tắc, nhàm chán? Đó chính là sự chuẩn bị, nghiên cứu chu
đáo của giáo viên, là sự vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, là sự sử dụng đồ
dùng dạy học một cách hợp lý và hiệu quả, và đồ dùng dạy học phải mang tính khoa
học, thẩm mỹ cao.
Môn học mĩ thuật là môn học của thị giác, đặc biệt là môn ve trang trí học sinh cảm
nhận cái đẹp về mầu sắc và các họa tiết thông qua con mắt thẩm mĩ của mình. Chính vì
vậy với các đồ dùng dạy học mang tính thẩm mĩ, rõ ràng về hình ảnh, mầu sắc và cách
sắp xếp là hết sức quan trọng. Qua đồ dùng dạy học giáo viên có thể phân tích, gợi ý,
giúp đỡ các em hiểu nội dung đề tài, các hình ảnh chính, phụ và đặc biệt là cách sắp xếp
cũng như sử dụng mầu sắc cho phù hợp để khi thực hành các em không bị lúng túng ve
sai nội dung đề tài hoặc sử dụng hình ảnh một cách dời dạc, sử dụng mầu sắc một cách
tuỳ tiện, thiếu trọng tâm.
Môn học mỹ thuật lấy giáo dục thẩm mỹ làm mục tiêu, với những bài ve trang trí học
sinh phải cảm nhận vẻ đẹp trong tranh ve một cách dần dần và lâu dài. vì với trình độ
hiểu biết của các em thì cảm nhận cái hay, cái đẹp của một bức tranh từ một góc nhìn
12


rất riêng do vậy khi nhận xét bài ve của các em giáo viên cũng cần quan tâm tới tâm
sinh lý và đặc biệt là tình cảm cũng như thái độ của các em.
1.3.2. Thực trạng việc học của học sinh

Học sinh trung học cơ sở nói chung và học sinh khối ( 6+ 7) nói riêng đều rất say mê
và hứng thú với môn học mang đầy ý nghĩa này. Trong giờ học ve trang trí các em được
thoải mái, được bày tỏ tình cảm, suy nghĩ của mình trước thiên nhiên, cuộc sống bằng
những họa tiết, mầu sắc và trí tưởng tượng cũng như khả năng sáng tạo.
Như chúng ta đều biết. Để đem lại hiệu quả trong hoạt động dạy và học phải phụ
thuộc vào nhiều yếu tố và các điều kiện như: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu, đội
ngũ giáo viên, phương pháp dạy và học …
Trường phổ thông cơ sở Đông Sơn là một trường nằm xa trung tâm của huyện Yên
Thế, điều kiện kinh tế của địa phương gặp rất nhiều khó khăn. khu chính cách trung tâm
huyện khoảng 19km, khu lẻ cách khu chính khoảng 2km. Do vậy đường xá đi lại rất
khó khăn, nhận thức của nhân dân còn nhiều hạn chế. Xong với quan điểm nhận thức
đúng đắn và sự đồng thuận cao của thày và trò nhà trường đã khắc phục mọi khó khăn
để nâng cao chất lượng dạy và học.
Đội ngũ giáo viên được đào tạo trình độ bài bản, chính quy và luôn có tinh thần tự
học, tự rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ bằng những giờ dạy thực
nghiệm cũng như thực tế giảng dạy trên lớp. Họ luôn tìm tòi những giải pháp , phương
pháp để khắc phục những hạn chế trong dạy học tạo cho học sinh sự hứng thú, thoải
mái trong học tập. Sự chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng như nghiên cứu cũng như thiết kế
bài dạy luôn bám sát mục tiêu, nội dung bài dạy cùng với sự lựa chọn, kết hợp các
phương pháp dạy học một cách linh hoạt phù hợp với từng tiết dạy tạo điều kiện cho
học sinh được tham gia vào mọi hoạt động để các em chủ động trong hoạt động học tập,
qua đó các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn và sáng tạo hơn. Chính vì vậy các em rất thích
thú với môn học mĩ thuật, đặc biệt là phân môn ve trang trí.
13


Bên cạnh những mặt tích cực trên thực trang việc dạy học phân môn ve trang trí ở
trường phổ thông cơ sở Đông Sơn cũng còn nhiều hạn chế. Sự nhận thức cũng như quan
điểm của một số người còn cho rằng đây là môn học phụ, không quan trọng do vậy
chưa chú trọng, quan tâm tới chất lượng dạy học.

Tuy xã hội phát triển mạnh, đời sống ngày càng nâng lên. Xong điều kiện cuộc sống
vẫn còn nhiều khó khăn, đại đa số con em đều là con em nông thôn, kinh tế thuần nông
vì vậy việc đầu tư cho con em đi học và mua đồ dùng cho các em còn nhiều hạn chế.
Hơn nữa nhận thức của họ về môn học mĩ thuật chưa đúng đắn dẫn đến thiếu sự đầu tư,
quan tâm đúng đắn do vậy ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dạy học.
Đối với cán bộ giáo viên thì chủ nghĩa bình quân, dạy học mang tính hình thức vẫn
còn tồn tại. Trình độ năng lực còn hạn chế, chưa thực sự đầu tư nghiên cứu tài liệu, tự
học tự rèn tìm ra những nhược điểm cần khắc phục và chưa xây dung được kế hoạch,
mục tiêu cũng như kết quả của môn học cần đạt được.
Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn thiếu do vậy những tiết dạy chay không có đồ
dũng vẫn sảy ra, các phòng học dành riêng cho môn học chưa có. Đó là những yếu tố
cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả dạy và học.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
VÀ HỌC PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ Ở KHỐI 6 + 7 BẬC TRUNG HỌC CƠ
SỞ.
Dạy mĩ thuật trong nhà trường không phải là đào tạo học sinh trở thành hoạ sĩ mà
giúp các em biết cảm nhận cái đẹp của cuộc sống, của những tác phẩm nghệ thuật và
biết cách tạo ra cái đẹp cho bản thân mình, cho cuộc sống. Để truyền tải những kiến
thức đến học sinh thì giáo viên cần sử dụng và lựa chọn các phương pháp dạy học phù
hợp đồng thời tìm ra nhược điểm qua đó tìm ra giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
dạy học.
14


Xuất phát từ thực tế tôi mạnh dạn tìm hiểu và đưa ra một số giải pháp để nâng cao
chất lượng học phân môn ve trang trí khối ( 6 + 7) ở bậc trung học cơ sở.
2.1. Tìm hiểu đặc điểm dạy và học phân môn vẽ trang trí ở trường trung học cơ sở.
Chương trình mĩ thuật ở trường trung học cơ sở gồm có 4 phân môn, được cấu trúc
theo chương trình đồng tâm khép kín, từ dễ đến khó. Với phân môn ve trang trí ở lớp 6,
7, thì yêu cầu, mục tiêu của các em là bước đầu là làm quen với ve trang trí, các em chỉ

cần ve được những bức trang trí theo hình dạng đơn giản theo cách nghĩ và cách nhìn
của các em. Tranh ve của các em phải biết áp dụng những họa tiết đơn giản đã được
cách điệu màu sắc hồn nhiên tươi sáng theo ý thích của các em.
2.1.1. Nội dung chương trình phân môn vẽ trang trí khối 6+7 trung học cơ sở.
2.1.1.1. Nội dung chương trình phân môn vẽ trang trí lớp 6:
Thời lượng gồm 9 tiết, các dạng bài tập gắn liền với những bài trang trí cơ bản dạng
hình vuông hình tròn và hình chữ nhật và áp dụng những họa tiết đơn giản bên cạnh đó
còn có một số bài trang trí ứng dụng vào những đồ vật trong cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày của các em như trang trí chiếc khăn để đặt lọ hoa.
2.1.1.2. Nội dung chương trình phân môn vẽ trang trí lớp7 :
Thời lượng gồm 8 tiết với các nội dung : tạo dáng và trang trí lọ hoa, trang trí đồ vật
có dạng hình chữ nhật, chữ trang trí, trang trí bìa lịch treo tường và cái đĩa tròn bên
cạnh đó để phát huy tính tích cực sáng tạo của các em học sinh còn có dạng bài trang trí
tự do.
2.1.1.4. Nội dung chương trình phân môn vẽ trang trí lớp 6:
Thời lượng thì cũng không có gì khác lớp tiểu học. các bài ve trang trí được bố trí giải
đều trong năm, học xen ke với các phân môn ve tranh, ve theo mẫu và thường thức mĩ
thuật. Các nội dung đề tài thì cũng không khác gì lớp tiểu học nhưng về yêu cầu kiến
thức kỹ năng thì yêu cầu cao hơn nhiều. Nội dung trang trí ứng dụng vào các đồ vật có
dạng hình cơ bản… Môn học mĩ thuật nói chung và phân môn mĩ thuật nói riêng là
15


môn học của thị giác, học sinh cảm nhận cái đẹp về hình thể và mầu sắc thông qua con
mắt của mình, đây là phân môn lấy giáo dục thẩm mĩ làm mục tiêu. Với những bài ve
trang trí học sinh phải cảm nhận cảm xúc trước cái đẹp từ cái đơn giản nhất, từ họa tiết ,
bố cục, màu sắc chủ đề, ý tưởng … do vậy gợi cảm hứng ngay từ lúc đầu của bài học là
rất quan trọng, nó quyết định sự thành công của cả giờ học, vì ve trang trí là phân môn
mang tính cảm xúc nhiều hơn là kỹ thuật.
Phân môn ve trang trí với các đề tài phong phú, đa dạng gây cho học sinh nhiều hứng

thú. Đây là phân môn giúp học sinh có thể diễn tả được nội dung, chủ đề thông qua
cách sắp xếp các hình ảnh chính, phụ và cách sử dụng màu sắc làm nổi bật chủ đề của
tranh.
Đây là phân môn mang tính đặc thù riêng. Để dạy tốt phân môn này chính là biết sử
dụng linh hoạt các phương pháp và các hình thức dạy học phù hợp sao cho đạt hiệu quả
cao nhất.
Với các phân môn ve theo mẫu không đòi hỏi bắt buộc học sinh phải ve đúng hoàn
toàn về hình, tỉ lệ màu sắc nhưng qua đó cũng rèn cho học sinh kỹ năng quan sát và làm
việc một cách khoa học. Từ tổng hoá đến chi tiết, từ đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra
còn rèn cho học sinh biết được sự sắp xếp bố cục cân đối, hợp lý trong khuân khổ giấy.
Với phân môn ve trang trí ngoài những yêu cầu trên qua bài ve tranh về các đề tài
học sinh được thoải mái sử dụng các họa tiết và cách tạo hình, màu sắc, tư duy và sáng
tạo theo cách nhìn, cách nghĩ của mình sao cho hài hoà, phù hợp với nội dung của đề
tài.
Phân môn ve tranh trí cũng cung cấp cho học sinh kiến thức về cách sắp xếp các hoạ
tiết và nguyên tắc ve mầu. Qua đó học sinh hiểu được vẻ đẹp của các hoạ tiết, vẻ đẹp
của sự cân đối, sự đa dạng của màu sắc và hiểu được ý nghĩa của sự trang trí trong cuộc
sống.
16


Dạy phân môn ve trang trí, vấn đề hết sức quan trọng là ngoài sử dụng kết hợp linh
hoạt các phương pháp. giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu cũng như nội dung đề tài
để thiết kế bài dạy cũng như đồ dùng dạy học phù hợp đảm bảo các yếu tố cần thiết, lôi
cuốn học sinh hấp dẫn tạo không khí thoải mái tự tin để làm bài không gò ép, khuôn
mẫu nhằm phát huy hết khả năng của các em khuyến khích những em có khả năng tư
duy sáng tạo. Muốn đạt được mục tiêu bài dạy giáo viên cần gợi ý để học sinh hiểu
được nội dung chủ đề từ đó các em tìm những họa tiết , lựa chọn những màu sắc hài
hoà, sắp xếp các họa tiết phù hợp làm rõ nội dung chủ đề, tránh ve theo lối dàn trải
chung chung, liệt kê sự việc hoặc ve sai đề tài.

Khi học sinh thực hành, giáo viên cũng cần quan tâm đến tong đối tượng để góp ý,
giúp đỡ các em hoàn thành bài ve một cách tốt nhất. Khi đánh giá lấy động viên là
chính, tránh chê bai bài ve của các em mà luôn tìm ra những ưu điểm để khuyến khích
từ đó tạo cho các em sự tự tin để hoàn thành bài tập. Và đặc biệt trong quá trình dạy
học, tạo sự gần gũi với các em từ đó tạo điều kiện để các em được tham gia vào mọi
hoạt động trong tiết dạy. tiết học ve tranh là tiết học hết sức cần có sự tư duy, sáng tạo.
Xong qua mỗi bài học các em thể được lối ve tư duy sáng tạo tính tỉ mỉ cẩn thận hiện
tình cảm của mình bằng những họa tiết và độ nông sâu của màu sắc trong bài ve cần tạo
điều kiện cho các em thể hiện bài ve theo cách nhìn, cách nghĩ của mình tránh sự sao
chép, bắt trước. Muốn làm được điều đó, ngoài những vấn đề vừa được nêu trên thì giáo
viên cũng cần hiểu được tong đối tượng học sinh của mình từ đó có những điều chỉnh
sao cho phù hợp cả về phương pháp cũng như hình thức dạy học.
2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh:
Đặc điểm chung của bộ môn mĩ thuật là môn học thị giác và sản phẩm của học sinh là
sự thể hiện tính sáng tạo “ cái riêng”, “cái tôi” thông qua cảm xúc của các em. Là môn
học trong những họa tiết đường nét, hình mảng và màu sắc. Với học sinh khối 6,7 thì
khả năng tư duy của các em là tư duy cụ thể mang tính hình thức dựa vào đặc điểm bên
17


ngoài, tưởng tượng còn tản mạn, hình ảnh tưởng tượng đơn giản, hay thay đổi. Trí nhớ
trực quan phát triển hơn trí nhớ lôgíc. Đối tượng gây cảm xúc cho các em thường là sự
vật hiện tượng cụ thể nên xúc cảm, tình cảm của các em gắn liền với đặc điểm trực
quan, hình ảnh cụ thể. Thường khi ve các em hay thể hiện theo cách ve liệt kê sự việc
và ít quan tâm đến xa gần khi sử dụng màu các em cũng sử dụng màu nguyên chất và
diễn tả sự vật theo lối tư thực theo cách nghĩ, cách nhìn của mình.
2.2.1. Đặc điểm sinh lý của học sinh trung học cơ sở:
Cuộc sống hàng ngày xung quanh chúng ta có rất nhiều thuận lợi tạo điều kiện cho
mỗi cá nhân học tập và phát triển khả năng của mình theo sở trường và điều kiện của
riêng mình để khám phá và miêu tả được những hiện tượng diễn ra trong cuộc sống của

con người hay những sự vật, hiện tượng có trong thiên nhiên như để ghi cháp lại quá
trình lịch sử hay ghi lại cảm xúc của mình trong cuộc sống như là những giai điệu,
những âm thanh, những cảnh vật thiên nhiên… để rồi họ được thả lòng mình say đắm
với những đam mê trong các bản nhạc trong lời ca, trong những câu tục ngữ, ca dao,
câu hò vè hay thả hồn trong cảnh sắc thiên nhiên thông qua những bức tranh, những tác
phẩm hội hoạ … Thật đúng như vậy, ở mỗi một thể loại đều đem đến cho con người sự
cảm nhận vẻ đẹp của nghệ thuật bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều con đường khác
nhau, nhiều mục đích khác nhau và nhiều đối tượng khác nhau. Họ có tâm lý, sinh lý và
hoàn cảnh sống cũng khác nhau để cảm nhận về sáng tạo nghệ thuật.
Nhìn lại lịch sử phát triển của con người. Thời nguyên thuỷ con người ngoài việc làm
thế nào để sinh tồn thì con người thời kỳ này đã biết quan tâm và hướng tới cái đẹp
trong mĩ thuật. Họ đã biết khắc, ve trên hang động bằng những đồ dùng trong sinh hoạt,
những đường nét, những hình ảnh tái hiện lại cuộc sống săn bắn, hái lượm hay những
hình ảnh nhảy múa có trong lễ hội được các nhà khảo cổ tìm ra qua các công trình khảo
cổ ở trong nước cũng như trên thế giới.
18


Những tác phẩm đó không chỉ chứng minh cho nghệ thuật nói chung và mĩ thuật nói
riêng mà nó là di sản quý giá cho kho tàng văn hoá của mỗi dân tộc trên thế giới.
Trong xã hội hiện đại ngày nay con người đã và đang có nhiều công trình mĩ thuật vĩ
đại, nhiều phát minh khoa học để khám phá thiên nhiên nhằm phục vụ lợi ích cho con
người thì việc cảm nhận cái đẹp, yêu cái đẹp, tạo ra cái đẹp và trân trọng cái đẹp để
phục vụ cho con người ngày một nâng cao.
Do vậy, Đảng và nhà nước đã nhận ra rằng, để phát triển đất nước thì trước tiên phải
phát triển giáo dục nước nhà. Điều này đã được chứng minh qua các thời kỳ đại hội của
Đảng.
“ Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mĩ và nghề nghiệp. Trung thành với tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu

cầu và bảo vệ Tổ quốc”.
Hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục thẩm mĩ đối với thế hệ trẻ, những chủ
nhân tương lai của đất nước do vậy bộ môn mĩ thuật đã trở thành một trong mười hai
môn học bắt buộc trong chương trình của học sinh THCS.
Trong những năm gần đây, với tư cách là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ
môn giáo dục ở trường trung học . Tôi được trực tiếp tiếp xúc và làm việc với các em
học sinh, qua tìm hiểu và đánh giá khả năng nhận thức thẩm mĩ của các em về các phân
môn trong bộ môn mĩ thuật nói chung. Nhìn nhận một cách khách quan ở lứa tuổi này
các em đều rất thích thú với các phân môn như:, thường thức mĩ thuật, , ve tranh, ve
theo mẫu… trong đó phân môn ve trang trí các em học sinh rất hứng thú và say mê các
em được tự do thể hiện các tác phẩm của mình bằng tình cảm và niềm vui, sự hứng khởi
để ve và trang trí những hình dạng cơ bản thô cứng trở lên sinh động đẹp mắt hay
những dồ vật trong gia đình có hình dáng lạ mắt trang trí hấp dẫn...hình ảnh nghộ
nghĩnh, màu sắc tươi tắn… mà không bị gò bó với bất kỳ một quy tắc nào. Các em thoải
19


mái sáng tạo và tưởng tượng tư duy thể hiện theo cách nhìn, cách nghĩ của mình chính
vì vậy sản phẩm của các em hết sức tự nhiên mà người lớn không có được, đó cũng là
sự hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ, hiếu động thể hiện tình cảm tâm lí. Sinh lí của các
em.
Các tác phẩm của các em mặc dù không thể hiện tính chuyên nghiệp, tuy nhiên các
tác phẩm đó lại thể hiện rất đa dạng về bố cục, màu sắc cũng như nội dung. Đây cũng là
điều kiện thuận lợi để sau này các em phát triển năng khiếu thẩm mĩ của mình. Tuy
nhiên qua quá trình điều tra cho thấy, trẻ em Việt Nam rất thích ve và ve rất đẹp trong
giai đoạn đầu, sau đó khả năng và năng khiếu thẩm mĩ của các em ngày một mai một đi
theo năm tháng. Nguyên nhân cũng có nhiều xong phần lớn là do các yếu tố về điều
kiện môi trường, văn hoá, xã hội tác động đến. Mặt khác là do sự quan tâm đầu tư đến
giáo dục thẩm mĩ còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức, nặt khác do một số quan
niệm của một số bộ phạn xã hội và gia đình còn nhìn nhận thiếu khách quan và cho rằng

bộ môn mĩ thuật là môn phụ nên không chú trọng mà chỉ cần tốt các môn học khác như
Toán, văn… là được. Họ chỉ nhìn nhận việc học tập của con em mình bằng những lợi
ích trước mắt mà không nhận thấy bộ phận mĩ thuật hay bất kì môn học nào khác đều
có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng ngoài giáo dục toàn diện thì chúng còn bổ trợ
cho nhau để các em học tập tốt hơn. Do vậy trong tất cả các môn học thì chúng ta cần
quan tâm và đầu tư một cách toàn diện, thoả đáng vì đó chính là kiến thức quan trọng
nuôi dưỡng tinh thần, tình cảm và lòng nhân ái của con người, hướng con người đến cái
đẹp toàn mĩ.
Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy rằng ở học sinh THCS, hầu hết các phân môn,
trong đó điển hình là môn ve trang trí đa số các em ít làm theo trình tự mà giáo viên đã
hướng dẫn mà các em thích ve ngay theo ý của mình do vậy dẫn đến tranh ve của các
em còn rời rạc, thiếu trọng tâm. ở một số em bài ve thể hiện sự sống động, thú vị và
chân thật vô cùng. Đây cũng chính là tâm lý của các em. Các em thích tự do, không
20


muốn bị gò ép, bị bắt buộc vào khuôn phép, nhất là các môn học phát huy tính sáng tạo
khả năng tư duy độc lập và phát triển khả năng tưởng tượng của học sinh, đặc biệt là
phân môn ve trang trí.
2.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình của học sinh trung học cơ sở:
ở học sinh trung học cơ sở nói chung các em chưa ý thức được tầm quan trọng của các
môn học nhưng chắc chắn là các em thích ve, thích xem tranh, thích cái đẹp. Đó là một
thuận lợi cho việc dạy học ở đối tượng này, đối tượng có nhu cầu thẩm mĩ.
Đặc trưng của mĩ thuật là tạo ra cái đẹp. Cái đẹp nhiều hình ve không sao chép, không
khuôn mẫu, luôn có cái mới, cái lạ và sắp xếp về hình ve, về màu sắc. Cái đẹp phù hợp
với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận của mỗi học sinh. Trẻ em có cách nhìn, cách
cảm, cách nghĩ riêng phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi không giống như của người
lớn. Vì vậy học sinh trung học cơ sở nói chung và học sinh khối ( 6 + 7 ) nói riêng có
cách ve, cách biểu cảm có ngôn ngữ tạo hình riêng của mình.
Dạy học mĩ thuật ở trung học cơ sở chất lượng chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế vì

vậy kết quả dạy học mĩ thuật của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn nhất là cách nhận
xét, đánh giá kết quả học tập của học sinh thiếu khách quan, chưa động viên được tinh
thần học tập của các em. Do vậy khi đánh giá nhận xét bài ve của các em giáo viên cần
có những cách nhìn, cách đánh giá một cách phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi.
2. 2.3. Các phương pháp dạy học phân môn vẽ tranh hiện nay giáo viên đang thực
hiện:
Từ những đặc điểm trên, phương pháp dạy học phân môn ve trang trí cần lưu ý vận
dung phương pháp dạy học chung một cách linh hoạt, mềm dẻo vì tư tưởng của phương
pháp dạy học mĩ thuật chung và dạy ve trang trí riêng là phát huy tính độc lập, tích cực
suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của học sinh. Dạy học là quá trình hoạt động của giáo viên và
học sinh, giáo viên dạy cung cấp kiến thức, học sinh học tiếp thu kiến thức, giáo viên
dạy tốt, học sinh học tốt và ngược lại. Nhưng làm thế nào để dạy tốt, học tốt. Cuối cùng
21


của dạy học là kiến thức của thầy giáo phải vào học sinh một cách nhẹ nhàng, thoải
mái, đầy đủ và phong phú. Từ những kiến thức tiếp thu được học sinh còn có khả năng
mở rộng, phát triển và vận dụng một cách linh hoạt để giải quyết các bài tập, cũng như
trong sinh hoạt thường ngày, trong những công việc cụ thể sau này. Vì vậy việc chủ
động lĩnh hội kiến thức phải thuộc về học sinh, nhất là học sinh tiểu học, lứa tuổi mà ý
thức học tập chưa được xác định đầy đủ, đúng đắn. Các em học nhưng phải vui mà học,
khi vui thì học se là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Khi học như chơi thì việc học
se trở thành nhẹ nhàng, thoải mái. Học là một trong những nhu cầu của trẻ, xong làm
sao cho học sinh thích học mới là vấn đề căn bản của dạy học mà giáo viên cần lưu ý.
Suy cho cùng học sinh phải tích cực học tập thì dạy học mới có hiệu quả. Đến đây
chúng ta se thấy vai trò chủ đạo se thuộc về giáo viên và vai trò chủ động thuộc về học
sinh. Khi tính tích cực học tập của học sinh được thể hiện thì các em se chú ý lắng nghe,
hăng hái trả lời những câu hỏi của giáo viên, nêu lên những thắc mắc về những vấn đề
mình chưa rõ, chưa hiểu và chịu khó suy nghĩ, tìm tòi để tìm ra cái mới, cái lạ cho bài
ve bằng sự thích thú, bằng khả năng và sự cảm thụ của mình. Đây chính là yêu cầu của

dạy học phân môn ve trang trí ở bậc THCS. Là mầm mống của sáng tạo, là một trong
những phẩm chất cần có của người lao động trong xã hội tương lai.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy dạy phân môn ve trang trí ở THCS vẫn có tình trạng
giáo viên thông báo kiến thức một cách chung chung, chưa chú ý đến yếu tố thẩm mĩ
của bài học, chưa quan tâm móc lối đến những gì liên quan để mở rộng tầm hiểu biết
cho học sinh.
Học ve trang trí của học sinh chưa thực sự thoải mái, các em ve thường gò bó, công
thức, đôi khi dập khuôn, sự suy nghĩ tìm tòi chưa cao, hiện tượng bắt trước, lặp lại từ
các họa tiết, màu sắc, cách tìm chủ đề cho đề tài còn vẫn chung chung, đơn điệu là phổ
biến. Trái lại học sinh khối 6,7 thích học ve trang trí, thích ve. Phải chăng tính tích cực
22


học tập của học sinh chưa được đánh thức, vì thế sự suy nghĩ, tìm tòi của các em chưa
được khởi động
Để phát huy tính học tập, tích cực suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo của học sinh và giáo viên
cần lưu ý:
Tạo không khí hứng khởi cho giờ học, thu hút sự chú ý gây tâm thế chờ đón, hồi hộp
cho học sinh, không nên đi ngay vào nội dung mà có thể bắt đầu là câu hỏi hay một mẩu
chuyện nhỏ có liên quan đến nội dung bài học. Cần đặt câu hỏi trước cho học sinh có
liên quan về nội dung bài học như: Ve thế nào? ve hình ở chỗ nào? …
Gợi ý ở mỗi bài, mỗi chủ đề để học sinh tự tìm ra cách ve, cách sửa chữ hay điều
chỉnh. Cung cấp thêm tư liệu xung quanh nội dung bài học giúp học sinh hiểu biết hơn
dù là những chi tiết nhỏ. Qua hình ảnh, qua hình tượng ở lời văn của giáo viên học sinh
hiểu biết thêm và ve khi đã hiểu biết thì bao giờ cũng đem lại hiệu quả cao.
Phương pháp này xuất phát từ mục đích của việc dạy – học. Học sinh phải là người
chủ động lĩnh hội kiến thức. Đối với phân môn ve trang trí thì học sinh phải hiểu được
và thích thú mới biến cái chung thành cái riêng của mình được.
Thực tế giáo viên hiện nay sử dụng và vận dụng các phương pháp đặc trưng của dạy
học phân môn ve trang trí ở THCS như: Phương pháp trực quan. dạy học mĩ thuật nói

chung và dạy phân môn ve tranh nói riêng là dạy học bằng trực quan, kiến thức của mĩ
thuật là bố cục, đường nét, hình dáng, họa tiết, màu sắc, đậm nhạt hiện diện ở trên đồ
dùng dạy học một cách rõ ràng, học sinh cần được nhìn, được ngắm và hưởng thụ.
Đồ dùng dạy học phân môn ve trang trí cần đặc biệt chú ý vì nó là nội dung bài dạy:
Chuẩn bị đồ dùng dạy học theo yêu cầu của bài dạy ngoài ra giáo viên có thể tự làm và
sưu tầm thêm theo cách suy nghĩ của mình. Muốn vậy giáo viên cần nghiên cứu kỹ
chương trình, bài dạy để có kế hoạch chuẩn bị trước. đồ dùng dạy học cần có tính thẩm
mĩ, đẹp về hình dáng, trình bày rõ ràng, sáng sủa, có trọng tâm cho tổng bài dạy, có
23


kích thước to vừa phải để học sinh nhìn rõ phát huy năng lực quan sát khả năng sáng
tạo, nâng cao khả năng cảm thụ.
Sử dụng đồ dùng hợp lý se mang lại hiệu quả cao, ngượi lại se làm cho kiến thức của
học sinh không có trọng tâm. Khi sử dụng đồ dùng dạy học cần chú ý: Trình bày khoa
học theo trình tự nội dung, treo đặt nơi rễ nhìn. Giới thiệu hay cất đồ dùng phải hợp lý.
Lời giới thiệu nội dung các câu hỏi gợi ý học sinh suy nghĩ về câu hỏi của giáo viên
phải ăn ý với cùng sự xuất hiện của đồ dùng để nhận thức của học sinh thành mạch liên
tục không được gián đoạn. Giáo viên cần chỉ vào nơi cần thiết của đồ dùng để nhấn
mạnh nội dung của bài hoặc nhấn mạnh về họa tiết về màu sắc hay bố cục của bài ve.
Không chỉ giới thiệu chung chung bằng lời. ở đây muốn nói đến sự cần thiết phải kết
hợp giữa lời giảng giải, phân tích với việc chỉ ra ở đồ dùng dạy học để theo dõi học sinh
tập chung vào những điểm chính, không bị cách chi tiết lôi cuốn. Khi học sinh làm bài
giáo viên cần lưu ý cất tất cả các biểu bảng, xoá hình minh hoạ. Học sinh nhớ lại những
gì đã nhìn, đã nghe và suy nghĩ tìm tòi ve theo ý của mình.
Phương pháp luyện tập: Đối với các bài dạy ở phân môn ve trang trí thì luyện tập
chiếm hầu hết thời gian học. Học sinh làm bài tập ở lớp và ở nhà . Khi ve bài các em
nhớ lại những gì đã nghe, đã thấy và suy nghĩ làm theo ý mình. Qua bài tập nhận thức
của học sinh được bộc lộ rõ ràng nhất về đường nét, hình ve, đạm nhạt, màu sắc, bố cục,
cái được, cái chưa được, đẹp hay xấu hiện ra rất cụ thể ở bài ve của học sinh. Nhiệm vụ

của giáo viên lúc này là theo dõi, quán xuyến chung, điều chỉnh bổ xung những gì mà
đa số học sinh chưa rõ và còn lúng túng. Giáo viên cần giúp đỡ học sinh kém, động viên
khích lệ học sinh khá và chỉ ra những thiếu sót ở bài ve để học sinh quan sát, nhận xét
và tự sửa chữa. Nhắc lại hoặc gợi ý để học sinh nhớ lại những gì đã học, tìm ra những
thiếu sót ở bài ve để học sinh tự điều chỉnh cho phù hợp với tương quan chung cho từng
trường hợp cụ thể. Gợi ý cách sửa, cách điều chỉnh cho học sinh, giáo viên không làm
24


thay nhưng với học sinh kém thì gợi ý cụ thể rõ ràng hơn. Tuỳ tong bài cụ thể giáo viên
bổ xung thêm kiến thức mở rộng tầm hiểu biết của học sinh.
Phương pháp luyện tập là phương pháp được vận dụng thường xuyên trong suốt quá
trình dạy học mĩ thuật nói chung và phân môn ve tranh nói riêng. Là phương pháp làm
việc tay đôi giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên là người phát hiện những sai sót và
những chỗ chưa hợp lý và chỉ ra cách khắc phục. là người chỉ ra, người tổ chức. Học
sinh là người quan sát, nhận xét, nhận ra những chỗ sai hoặc còn thiếu và tìm ra phương
án điều chỉnh theo ý mình – người lính tác chiến.
Giáo viên và học sinh làm tốt nhiệm vụ của mình ở giai đoạn này, giai đoạn học sinh
làm bài tập nhất định hiệu quả, bài ve và nhận thức của học sinh sữ được nâng lên rõ rệt
bởi dạy học mĩ thuật nói chung là việc dạy học trên thực trạng của mỗi bài ve. Học sinh
phải tự làm mới tìm thấy cái hay, cái dở. Giáo viên trực tiếp tham gia mới biết cần dạy
những gì và dạy thế nào. Phải chăng đây mới là thực dạy, thực học. Ngoài những
phương pháp đặc trưng vừa nêu trên hiện nay giáo viên còn sử dụng một số phương
pháp dạy học khác như:
Phương pháp gợi mở
Phương pháp làm việc theo nhóm
Phương pháp trò chơi
Phương pháp tích hợp.
Điều đặc biệt quan trọng là giáo viên cần sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp
và hình thức dạy học sao cho phù hợp, hiệu quả với từng bài để đạt được kết quả tốt

nhất.
2.3. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học và phân môn vẽ trang trí
khối ( 6 + 7):
2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên thiết kế bài giảng phù hợp với nội dung bài học:
25


×