Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Quan niệm giáo dục của khổng tử và một số ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp giáo dục ở việt nam hiện nay9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.05 KB, 68 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một trong những vấn đề quan trọng của các quốc gia trên
thế giới hiện nay. Bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thời kì công nghệ thông tin, giáo dục càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ
hết.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dù bất kể trong điều kiện như thế nào
thì nền giáo dục nước ta vẫn được quan tâm, đầu tư. Ngay sau khi cách mạng
tháng 8 – 1945 thành công, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký ngay sắc lệnh thành
lập “ Bình dân học vụ”, kêu gọi tất cả mọi người dân tham gia học tập để xoá
nạn mù chữ. Người xác định trong ba thứ giặc, giặc đói, giặc ngoại xâm thì
giặc dốt là nguy hiểm nhất, nếu không diệt được giặc dốt thì nguy cơ mất
nước ngày càng cao.
Ngày nay đất nước bước vào thời bình, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
ra sức xây dựng Việt Nam thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển, chính
trị ổn định, quốc phòng an ninh vững mạnh, đưa đất nước thoát khỏi cảnh
nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng bước vào hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Ở Việt Nam hiện nay, vì thế giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phải đào
tạo ra những con người có tri thức, có trình độ, năng lực, có tài đức, vừa
“hồng”, vừa “chuyên”, đảm đương trách nhiệm, gánh vác công việc của đất
nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” [x;y], đó là những con
người có tri thức và tầm hiểu biết cao, có lòng nhiệt huyết, sức sáng tạo lớn.
Do đó, đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo trong điều kiện đất nước bước
vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế có vị trí vô cùng
quan trọng. Đồng chí Đỗ Mười đã từng nhấn mạnh: “Muốn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thành công cần phát triển giáo dục mạnh, phát huy nguồn lực con
người, yếu tố của phát triển nhanh, bền vững” ” [x;y]. Đây cũng chính là
động lực, mục tiêu, sách lược của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua
và trong những năm sắp tới.



1


Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta có nhiều thay đổi
lớn lao, thu được nhiều thành tựu mới: đời sống nhân dân nâng cao có nhiều
cải thiện, nền kinh tế phát triển nhanh, đói nghèo cơ bản được đẩy lùi…
Nhưng bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường đã len lỏi tác động không
nhỏ vào đời sống của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Những giá trị đạo đức
truyền thống đang có nguy cơ mất dần, đạo đức lối sống xuống cấp nhanh:
sống ẩu, thoái hoá biến chất về đạo đức của một số cán bộ, đảng viên, tham
nhũng, lãng phí của công.., tăng nhanh.
Trước tình hình trên, Đảng, Nhà nước ta, bên cạnh giáo dục thế giới quan,
nhân sinh quan cộng sản của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, cũng đề cao, tăng cường giáo dục đạo đức truyền thống cho
nhân dân, nhất là học sinh, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đát nước,
nhằm phấn dấu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, bền vững,
sánh vai các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong mỏi..
Xác định được tầm quan trọng giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã tích
cực đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, kế thừa phát triển những tư
tưởng giáo dục tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử - một nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại, và của cả nhân loại.
Trải bao thăng trầm của lịch sử, mặc dù có lúc bị lãng quên, không được
coi trọng ngay tại đất nước, quê hương Khổng Tử, nhưng do giá trị xuyên thời
đại của tư tưởng giáo dục tiến bộ, mà tư tưởng Khổng Tử đã đến với mọi
quốc gia, dân tộc, nhất là các nước ở phương Đông như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapo, Việt Nam... Những giá trị tiến bộ, tích cực trong tư tưởng
giáo dục Khổng Tử được nhân loại kế thừa, phát triển trong những điều kiện
mới.

Tồn tại, phát triển hơn 2000 năm, những tư tưởng của Khổng Tử đã ảnh
hưởng mạnh mẽ trong đời sống của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong giáo
dục, thì tư tưởng giáo dục Khổng Tử đã góp phần không nhỏ cho việc hình
thành, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Thấy được giá trị của tư tưởng đó, nên em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Quan niệm giáo dục của Khổng Tử và một số ảnh hưởng của nó trong sự
nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2


Do sự hiểu biết còn hạn chế, và có nhiều thiếu sót trong quá trình làm bài,
em kính mong thầy cô góp ý, chỉ bảo để em hoàn thành tốt đề tài. Em xin
chân thành cảm ơn!
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà chính trị lớn nên sách
vở bàn về ông rất nhiều, từ xưa đến nay ông luôn là đề tài nghiên cứu, tìm
hiểu của rất nhiều tác giả, vì trong tư tưởng của ông chứa nhiều tư tưởng tiến
bộ, có thể vận dụng tốt trong xã hội ngày nay.
Đó là nguồn tài liệu, kho tàng vô giá của nhân loại. Việc nghiên cứu để giữ
gìn, bảo tồn những giá trị tư tưởng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta
ngày nay đối với ông.
Những tác phẩm đã bàn đến Khổng Tử mà em được tiếp cận:
- “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, NXB Văn học tái bản năm 2003;
- “Quan niệm của Nho giáo về giáo dục” của Hồ Trọng Hoài và Nguyễn
Thị Nga, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- “Khổng Tử” của Lý Tường Hải, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002.
- “Luận Ngữ” của Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn học Hà Nội, 1995.
- “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện, NXB Thế giới Hà Nội,
1993...
Đã có các luận văn thạc sĩ triết học ở khoa Lý luận Chính trị, trường Đại

học Khoa học, có nội dung liên quan đến khóa luận, như:
- “Từ Trung, Hiếu của Khổng Tử đến tư tưởng Trung, Hiếu của Hồ Chí
Minh”, của Trần Thị Hồng Minh,
- Thái Doãn Việt về “Tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục và ảnh hưởng
của nó đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên Nghệ An hiện
nay”.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí Triết học
có nội dung liên quan đến khoa luận.
Nhưng nhìn chung các bài viết, bài nói về tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử còn chưa được đề cập đến nhiều. Vì đây, là tư tưởng có nhiều
ưu điểm cần học tập nên chúng ta nên nghiên cứu nhiều, nghiên cứu sâu
hơn để phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo của chúng hiện nay.
3


Nội dung in đậm này phải viết lại. Phải khái quát được họ đã
bàn những gì liên quan đến đề tài?
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nhằm làm rõ ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối
với sự nghiệp giáo dục hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử.
- Trình bày tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
- Ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử đói với sự nghiệp giáo
dục, đào tạo con người mới ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử qua các tác phẩm và hoạt động thực
tiễn của Ông.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chủ yếu qua tác phẩm Luận ngữ.
- Ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử đói với sự nghiệp giáo
dục, đào tạo con người mới ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận
- Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về giáo dục.
- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp chung là phép biện chứng duy vật.
- Các phương pháp cụ thể gồm: phân tích và tổng hơp, lô gíc và lịch sử,
thống nhất giữa lí luận và thực tiễn,..
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay đạo đức, lối sống
và làm tài liệu tham khảo cho sự nghiệp giáo dục hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn:

4


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Những quan niệm cơ bản về giáo dục của Khổng Tử.
Chương 2: Ảnh hưởng của tư tuởng giáo dục Khổng Tử trong sự
nghiệp giáo dục hiện nay ở Việt Nam.
B. NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Qúa trình hình thành tư tưởng triết học Khổng Tử.
1.1.1. Tình hình lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu.

Triết học Trung Quốc hình thành và phát triển trong thời kì xã hội Trung
Quốc đang có sự chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Đó là lúc xã hội
Trung Quốc bước vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thời kì tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ
đồng sang đồ sắt, việc dùng bò kéo cày trở nên phổ biến, hệ thống thuỷ lợi
phát triển, kỹ thuật trồng trọt được cải tiến. Nhờ công cụ sản xuất bằng sắt
phát triển và thuỷ lợi mở mang nên ruộng đất do nông dân khai hoang biến
thành ruộng tư ngày càng nhiều. Bọn quý tộc có quyền cũng chiếm dần ruộng
của công xã làm ruộng tư. Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp,
thương nghiệp cũng phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Sự hình thành
của thương nghiệp, buôn bán đã xuất hiện một giai cấp trong xã hội là loại
quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tranh giành quyền lực với tầng lớp
quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, thời Tây Chu, chế độ tông pháp “phong hầu kiến
địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng
buộc về huyết thống, có tác dụng giúp cho nhà Chu giữ được một thời gian
dài hưng thịnh, thì đến thời Xuân Thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn
được duy trì nữa. Thiên Tử nhà Chu không còn uy quyền, cai quản các nước
chư hầu khắp thiên hạ. Việc các nước gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau,
cũng như các lãnh chúa bóc lột tàn khốc dân chúng, không chỉ dẫn tới diệt
vong của hàng loạt nước chư hầu nhỏ, mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá
5


hoại trật tự triều hội, triều cống, chinh phạt giữa các nước chư hầu làm cho
mâu thuẫn giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn trong xã
hội ngày càng tăng.
Đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần
bảo vệ, làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc này cũng bị xem

thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi ở thời kì
Xuân Thu biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội như “tiến ngôi việt vị”, chư hầu
chiếm dụng lễ nghĩa cuả Thiên Tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư
hầu... Trong thời kì loạn lạc này, đạo đế Vương đời trước mờ tối, người đời
say đắm về đường công lợi, không ai thiết nghĩ gì đến nhân nghĩa nữa. Cảnh
tôi giết vua, con hại cha, anh em vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra, thiên
hạ trở thành “vô đạo”, trật tự lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn.
Trước tình cảnh trên, người đời đã than rằng: “khắp thiên hạ đều loạn lạc
như nước đổ cuồn cuộn, làm thế nào cho thiên hạ trị?”(19; 303). Đó là ung
nhọt xã hội mà theo Khổng Tử, nó đã âm ỉ mục ruỗng từ lâu.
Chính điều kiện lịch sử xã hội ấy, đã đặt ra một vấn đề hết sức cơ bản
và cấp bách, buộc kẻ cầm quyền và các nhà tư tưởng phải giải quyết, làm thế
nào để cải biến được xã hội, giáo hoá con người, khiến cho xã hội bình trị. Và
cũng vì thế cục biến loạn, dân tình khổ sở, người trong nước mới lo tìm cách
sửa đổi để cứu vớt thiên hạ, các nhà tư tưởng thời kì này đã đưa ra nhiều
phương pháp “trị nước, an dân” mơ ước xây dựng một xã hội lí tưởng, tốt
đẹp.
Đứng trước bối cảnh xã hội như thế, trên cơ sở thuyết về bản tính thiện của
con người, về đức “trung hoà”, “trung dung”, là đạo lí của trời đất, Khổng Tử
đã san định đạo của Thánh hiền thành một học thuyết có hệ thống, lấy nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục, để
giữ trật tự trong xã cho bền vững. Phương pháp mà Khổng Tử dùng để trị
nước là “đức trị” và đề cao việc giáo hoá con người. Hệ thống những tư
tưởng, triết học của Khổng Tử ra đời với mong muốn lập lại trật tự kỉ cương
của đạo đức xã hội.
1.1.2. Vài nét về thân thế sự nghiệp của Khổng Tử.
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, ông sinh vào mùa đông, tháng
10 năm Canh Tuất là năm thứ 21đời vua Linh Vương nhà Chu, tức là vào
6



năm 551TCN vào thời Xuân Thu, tại Ấp Trâu, làng Xương Bình nước Lỗ,
nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Ông mất vào tháng
4, năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
Khổng Tử sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng thực tế gia đình Ông
có ông tổ 3 đời vốn thuộc dòng dõi quý tộc sa sút của nước Tống, dời đến
nước Lỗ. Thân phụ Khổng Tử là Thúc Lương Ngột làm quan võ. Đến lúc gần
già, thân phụ ông mới lấy bà Trưng Tại, họ Nhan, sinh ra Khổng Tử. Bà Nhan
thị có lên cầu tự trên núi Ni Khâu, cho nên khi sinh ra Khổng Tử, nhân điều
ấy đặt tên là Khâu, tự Trọng Ni. (Có sách chép rằng do trán ông cao và gồ lên
cho nên mới đạt tên là Khâu, Khâu nghĩa là cái gò)
Khổng Tử mồ côi cha khi mới 3 tuổi, rồi thân mẫu mất lúc ông 17 tuổi.
Sau khi cha mất được mẹ nuôi dưỡng, dù gia cảnh nghèo khổ bần hàn, nhưng
bà Nhan thị vẫn quyết chí nuôi con ăn học, sự bần hàn lúc thiếu thời khó có
thể hình dung nỗi nên Khổng Tử đã nói: “ta lúc nhỏ nghèo hèn làm không ít
việc bỉ lậu” (11; 14) với các nghề như: quản lí gia súc, kho tàng lương thực,
tham gia những nghi thức tế tự, tang ma... Biết được hoàn cảnh gia đinh khó
khăn nên ngay từ nhỏ Khổng Tử đã nổi tiếng là người siêng năng, học giỏi,
lúc 15 tuổi trở đi ông quyết chí học tập “Ngô Thập hữu ngũ nhi chí ư học”(19;
39).
Năm 19 tuổi Khổng Tử lập gia đình với bà Khiên thị sinh ra được một
người con trai và một người con gái. Con trai ông không có tài năng gì nhưng
cháu nội ông là Tư Tử (Khổng Cấp) lúc lớn lên đã trở thành một học giả lỗi
lạc. Sau đó năm 20 tuổi Khổng Tử làm chức lại giữ kho, năm 21 tuổi làm
chức lại coi việc chăn nuôi. Theo sách Thông khảo, thì năm 22 tuổi bắt đầu
dạy học, sau đó ông tiêp tục học nhạc và học đạo. Lúc này Khổng Tử còn trẻ
tuổi nhưng đã nổi tiếng là người học giỏi, cho nên Lễ Hầu trên giường mà còn
dặn lại con rằng: “Khổng Khâu là giòng dõi quý tộc. Họ Khổng bị phiêu bạt ở
nước Tống vì loạn lạc đã bỏ sang nước Lỗ. Tổ tiên Ngài là là ngành trưởng
vua nước Tống, nhưng nhường ngôi cho em là vua Li cho nên gia thế Khổng

có tiếng là nhún nhường. Người ta thường bảo rằng các bậc hiền triết hay xuất
hiện ở các gia đình quý phái tuy rằng không tất nhiên ở địa vị quyền quý. Vậy
mà, Khổng Khâu còn trẻ đã ham khoa sử học. Y sẽ trở nên một nhà hiền triết
sau này. Cho nên ta khuyên các con sau khi ta mất rồi, con nên theo Y mà học
7


tập” (29; 208). Qủa nhiên sau này, cả ba anh em Nam Cung Quát và Hà Kị
đều nhập môn họ Khổng để học lễ.
Cuộc đời Khổng Tử là những bước thăng trầm, vất vả, dù cho ông là
người uyên thâm, tài cao đức rộng, muốn mang đạo của mình ra giúp đời,
nhưng không một ông vua nào nhìn thấy để trọng dụng một con người đầy tài
năng đức độ này cả. Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, Khổng Tử đã
tổng kết lại cuộc đời của mình như sau: “Ta 15 tuổi để chí vào việc học đạo.
30 tuổi biết tự lập tức khắc kỉ phục lễ cứ theo điều lễ mà làm; 40 tuổi không
nghi hoặc nữa, tức có trí đức nên hiểu rõ ba đức: nhân, lễ, nghĩa; năm 50 tuổi
biết mệnh trời, biết được việc nào sức người làm được, việc nào sức người
không làm được; 60 tuổi đã biết theo mệnh trời; 70 tuổi theo lòng muốn của
mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý, không phải suy nghĩ gắng
sức mà hành động tự nhiên hợp đạo lý”(19;39). Đây là câu nói nổi tiếng nhất
trong “Luận ngữ”, là phản tỉnh và tổng kết của Khổng Tử là khắc hoạ chân
thực một đời trải qua bao sương gió vất vả gian truân của cuộc đời Ông, là tự
truyện của Khổng Tử nhưng đã trở thành triết học nhân sinh, kinh điển của
phái Nho gia.
Sau 14 năm lang thang, phiêu bạt qua nhiều nước tìm bậc minh quân
nhưng không thành giống như “con chó lạc mất chủ”(14; 15) - như cách nói
của ông - Khổng Tử lại quay về tiếp tục sự nghiệp “trồng người”. Tuy có mấy
lần ông ra làm quan nhưng dạy học vẫn là sự nghiệp lớn mà Khổng Tử theo
đuổi suốt cuộc đời. Với tấm lòng tâm huyết của người thầy, Khổng Tử lấy
giáo dục làm tối trọng đại. Trọng đại vì nó có mục đích lấp bằng cái hố phân

chia giai cấp xã hội. Trọng đại vì nó là yếu tố quyết định trong sự thi hành
chủ trương chính trị đức hoá nhân trị, lấy nhân cách làm gương mẫu để trị
dân, mong nâng ở mỗi người dân lên trình độ “Hữu sỉ thả cách - biết liêm sỉ là
có nhân cách”(29; 255). Khổng Tử đã hết lòng vì học trò, luôn mang tư tưởng
“dạy không biết chán, học không biết mỏi”, nên Khổng Tử đã đào tạo nên
một lớp thế hệ học trò xuất sắc, trong đó nổi bật có 72 người hiền tài. Học trò
của ông gồm nhiều thành phần, nhiều người đến từ những nơi rất xa, “có đủ
con nhà quý tộc, trung lưu, bình dân, có người làm quan Tể, quan đại phu ở
các nước, Tử Cống làm tướng quốc nước Vệ và có đi sứ ở nhiều nước”(16;
390). Qua sự giáo dục dạy dỗ của Khổng Tử học trò không chỉ thông thạo
8


kinh sử mà còn trưởng thành lớn mạnh về đạo đức, ông dạy cách sống cũng
như cách làm người, những điều tưởng chừng như rất bình thường nhưng thực
sự là cần thiết đối với mỗi người trong cách làm người. Vì thế nên học trò rất
kính trọng ông, Nhan Uyên khen: “đạo thầy ta càng ngửng lên trông càng
thấy cao, càng đục càng thấy cứng, mới thấy ở trước mặt bổng hiện ở sau
lưng...”(19; 158). Có được sự kính trọng của mọi người như vậy, “Khổng Tử
có uy quyền thế lực gì đâu? chỉ vì ngài là một nhân cách rất viên mãn, rất cao
thượng, nếu gọi Ngài tiêu biểu cho nhân loại trong thiên hạ không ai bằng, e
cũng đúng lắm”(3; 18).
Cuộc đời Khổng Tử là tấm gương sáng ngời về nhân cách đạo đức của
một người thầy, luôn hết mình cho sự nghiệp giáo dục. Đồng thời Khổng Tử
cũng là nhà giáo dục lớn của nhân loại với nhiều phương pháp giảng dạy mà
đến ngày nay vẫn còn chứa nhiều giá trị sâu sắc, ông xứng đáng được người
đòi tôn vinh với danh hiệu cao quý “Vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn
đời). Dù hơn mấy nghìn năm trôi qua, vượt mọi thăng trầm của lịch sử nhưng
những tư tưởng giáo dục độc đáo của Khổng Tử ảnh hưởng sâu sắc tới đời
sống tinh thần cũng như nền giáo dục của các nước phương Đông, trong đó có

Việt Nam. Những tư tưởng giáo dục đó góp phần làm cho công tác dạy và học
ở một số nước phương Đông, cũng như quá trình giáo dục nhân cách cho con
người thu được nhiều thành quả quan trọng trong xu thế hội nhập phát triển
và toàn cầu hoá. Đặc biệt, khi mà dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế
thị trường làm mất đi giá trị đạo đức truyền thống, giá trị nhân văn của dân
tộc.
Nội dung tư tưởng giáo dục Khổng Tử được thể hiện tập trung và rõ
nhất qua tác phẩm “Luận ngữ”. Sách “Luận ngữ” là những lời (ngữ) của
Khổng Tử đáp ứng cho đệ tử và người đương thời, và những lời các đệ tử nói
với nhau mà có thưa với Phu tử. Lúc bấy giờ, các đệ tử đều có những lời ghi
được. Khi Phu tử mất đi rồi, môn nhân cùng nhau góp lại mà bàn bạc (luận),
sắp xếp, vì vậy gọi là “Luận ngữ”. Đọc tác phẩm này, chúng ta thấy rõ quan
điểm về giáo dục của Khổng Tử, ông luôn đòi hỏi người học phải tích cực, có
ý thức học tập “ôn cũ biết mới”, “học đi đôi với hành”... Đó là những lời căn
dặn chân thành, đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc. Để có tri thức, không còn
con đường nào khác là học tập, tu dưỡng đạo đức. Luận ngữ còn là sự đối đáp
9


giữa Khổng Tử và học trò, thể hiện tình thầy trò đầm ấm mà gần gũi, tạo
không khí hăng say cho người học.
Ngày nay, Luận ngữ vẫn không mất đi ánh hào quang của nó, vẫn là một
viên ngọc quý trong kho tàng văn hoá Phương Đông. Ở nước ta vẫn tiếp tục
nghiên cứu để tiếp thu những tư tưởng hạt nhân tiến bộ, đặc biệt là tư tưởng
giáo dục Khổng Tử. Đó không chỉ là tài sản quý giá của dân tộc Trung Hoa,
mà còn là tài sản quý của cả nhân loại. Vì như sự đánh giá của Triệu Tấn - Tể
tướng đời Tống đã từng nói: “Chỉ cần nắm được một nửa kiến thức của Luận
ngữ là đã có đủ trình độ để làm quan cai trị thiên hạ”(26; 8).
Qua tác phẩm Luận ngữ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những tư tưởng
Khổng Tử, nhất là tư tưởng giáo dục, đó là tác phẩm chứa nhiều tư liệu có giá

trị khoa học lịch sử, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo
của chúng ta hiện nay.
1.1.3. Những nội dung cơ bản tư tưởng triết học của Khổng Tử.
1.1.3.1. Về thế giới quan.
Quan điểm về thế giới của Khổng Tử, chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ
trụ của người Trung Hoa thượng cổ - những quan niệm lưu truyền trong dân
gian được ghi trong sách dịch. Tôn giáo chân chính đối với Khổng Tử là tôn
giáo của nhà Tây Chu, cho rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc và vận động
không ngừng theo “đạo” của nó. Ông đã nhiều lần dẫn để đề cập đến “một
đầu mối” thể hiện tư tưởng này đó là: “Trời có nói gì đâu? bốn mùa qua lại,
vạn vật sinh trưởng, Trời có nói gì đâu?”(19; 293).
Khổng Tử rất tin ở mệnh Trời. Khổng Tử tin rằng “đạo” có “hành”
được hay không “hành” được cũng do thiên mệnh. Thiên mệnh tức là nói tới
cái ý chí của trời, Ông cho rằng mệnh trời là yếu tố quyết định đối với lịch sử,
xã hội và con người. Một đất nước thịnh hay suy, một thời đại trị hay loạn,
một người quân tử hay kẻ tiểu nhân, giàu sang nghèo hèn hay vinh hoa phú
quý đều do mệnh trời quy định. Khổng Tử cho rằng “sống chết có mạng, giàu
sang tại trời” - Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên(19; 198). Tư tưởng này
thể hiện rất rõ trong trong tác phẩm Trung Dung của Tử Tư, cháu nội của
Khổng Tử: “nếu cái mệnh trời đã sắp xếp con người ở địa vị giàu sang thì
người đó phải hành động theo phận giàu sang, ở địa vị nghèo hèn người ăn ở
10


phải theo phận nghèo hèn, làm thân kẻ đi dịch thì phải ăn ở cho theo đúng
phận kẻ đi dịch”(1; 53).
Khổng Tử xem Trời như là một vị quan toà công minh cầm cân nảy
mực để phán xét mọi việc ở đời. Khổng Tử tin rằng con người làm bất cứ việc
gì Trời đều biết và dõi theo, trời quyết định mọi sự thành bại trong cuộc sống
của con người. Ngay cả số mệnh của con người cũng do Trời quyết định.

Khổng Tử đặt niềm tin vào ý chí của trời, ông khuyên mọi người phục
tùng ý đó và coi việc hiểu biết mệnh trời như một điều kiện để trở thành một
con người hoàn thiện hay nói đúng hơn là người quân tử: “Bất tri mệnh vô dĩ
vi quân tử” – Không biết mệnh trời thì không phải là ngươì quân tử(19; 236).
Ngoài ra, tri mệnh tức là biết vui theo mệnh trời mà sinh hoạt. Muốn
biết được mệnh trời thì phải biết chế ngự được tư dục, không để cho tư dục
làm mờ ám lương tâm để cái tính thiện được tỏ rạng, để cứu lương tri lương
năng hoàn toàn sáng suốt mà suy tính rồi mới đem hết năng lực ra mà làm thì
lúc đó sẽ biết được mệnh trời. Nhưng tri mệnh là việc rất khó, đến Khổng Tử
mà phải đến 50 tuổi mới biết được mệnh trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”
(19; 39), huống chi với người thường thì làm sao biết được, nên nhận thức thế
giới là một vấn đề khó khăn, không phải ai cũng có thể nhận thức được mà
phải là người có trí, đó chính là người quân tử.
Cùng với việc tin có trời, có số mệnh, Khổng Tử cũng tin có quỷ thần,
quỷ thần là cái khí linh thiêng ở trong trời đất, tuy mắt ta không nhìn thấy tai
ta không nghe nhưng vẫn thể được muôn vật, quỷ thần có xung quanh ta.
Chúng ta tế quỷ thần bằng sự thành kính và lòng thành tâm, không phải tế để
lấy cầu phúc cho riêng mình, sống trên đời phải chân thật nhân nghĩa thì sẽ
được quỷ thần chứng giám cho, không nên làm những điều gian ác, điều xấu
mà quỷ thần trừng phạt cho, mỗi người có công việc, nhiệm vụ khác nhau
phải lo cố gắng hoàn thành nghĩa vụ, bổn phận của mình. Đây là quan điểm
tiến bộ mang tính tích cực, khuyên bảo con người luôn làm điều thiện, tránh
xa những điều ác, phải thành tâm khi tế quỷ thần, đó là cái “đạo” của trời đất.
Khi Khổng Tử bị đau nặng, học trò là thầy Tử Lộ xin cầu nguyện thượng hạ
thần kỳ để thầy mình nhanh khỏi, ông nói: “Khâu đảo cửu hỹ” – Ăn ở phải
đạo thì chẳng phải cầu(19; 136). Vì vậy, nếu người nào mà sống bất nhân bất
nghĩa, làm những điều trái đạo thì cầu nguyện quanh năm cũng không ích gì,
11



chi bằng sống cho thật tốt luôn làm điều thiện thì sẽ được trời phù hộ cho
những điều may mắn trong cuộc sống.
Tin là có quỷ thần, nhưng Khổng Tử lại khuyên con người không nên
đề cập đến nó và nên xa lánh nó, Khổng Tử không dạy mọi người về những
vấn đề quái dị, bạo lực, phản loạn và mê tín quỷ thần: “Tử bất ngứ quái, lực,
loạn, thần”(19; 130). Ông cho rằng: chuyên tâm nghiên cứu những điều dị
đoan, hoang đường là có hại cho mình. Chính vì vậy, ông tránh nói tới cái
chết, khuyên con người hãy quay về cuộc sống thực tại, sống cho đúng đạo
làm người, khi Quý Lộ hỏi: “đạo thờ quỷ thần”, Khổng Tử đáp “chưa biết đạo
thờ người sao biết đạo thờ quỷ thần? hỏi về sự chết: “Sự sống còn chưa biết,
sao biết được sự chết?”. Với những câu trả lời như thế thể hiện tư tưởng xem
cuộc sống hiện tại vẫn là quan trọng nhất, tin có quỷ thần, kính trọng quỷ thần
nhưng lại tránh xa nó, không nên gần gũi mà quan trọng là phải luôn làm việc
tốt, “chuyên tâm làm điều nghĩa giúp người, kính trọng quỷ thần nhưng tránh
ra xa, như vậy có thể gọi là trí”(19; 115).
Với những quan điểm như trên, tư tưởng về thế giới quan của Khổng
Tử mang đậm chất duy tâm, đây cũng là tư tưởng chi phối trong toàn bộ quan
niệm về thế giới của ông. Tuy nhiên, cũng có lúc bị chi phối bởi lập trường
nhị nguyên nên ông lại đề cao vai trò lịch sử và con người, hạ thấp mệnh trời
của mệnh trời, quỷ thần. Con người có số mệnh và do trời quy định nhưng
trong cuộc sống hay do hoàn cảnh nào đó phải hết sức cố gắng kiên cường,
không được lùi bước. Vì vậy “Nên trong kinh dịch nói rằng: Thiên hành kiện,
quân tử dĩ tự cường bất túc - việc hành động của trời rất mạnh, người quân tử
phải theo mà tự cường không nghĩ(17; 94). Như vậy, cũng có lúc Khổng Tử
khuyên con người phải mạnh mẽ, dám bước qua số phận để thực hiện lý
tưởng của mình, qua đây ta thấy được cái “đạo” của Khổng Tử vẫn có khí lực
mạnh mẽ khiến người ta phải cố gắng mà tự cường.
Tư tưởng về thế giới quan của Khổng Tử là thể hiện triết học nhị
nguyên, nhưng về căn bản vẫn là triết học duy tâm. Đó chính là hạn chế bởi
hoàn cảnh lịch sử, tin ở trời và số mệnh là tư tưởng thần bí hoá nhằm làm

giảm đi sức sống tiềm tàng của con người, ru ngủ những người dân trong ảo
tưởng số phận. Khổng Tử thể hiện rõ thái độ của mình, trong việc thoả hiệp
với giai cấp chủ nô, khi chế độ chiếm hữu nô lệ đã bước vào thời kì suy tàn.
12


Sống trong thời buổi loạn lạc, luân thường đạo lý đảo lộn nên tư tưởng Ông
cũng hoang mang dao động, có nhiều mâu thuẫn. Một mặt ông vừa đề cao
quyền lực của trời, cuộc đời con người là có số mệnh nhưng cũng có lúc ông
lại nhấn mạnh hoạt động của con người, giữ địa vị cao nhất trong cuộc sống.
Dù thế nào đi nữa thì con người vẫn giữ vị trí trung tâm trong triết học của
Khổng Tử. Do đó, khi nghiên cứu Khổng Tử không bằng tiêu chuẩn của hiện
đại mà phải đặt Khổng Tử trong bối cảnh lịch sử của thời đại thì mới có cái
nhìn đúng đắn chính xác.
1.1.3.2. Nhân sinh quan.
Cuộc đời Khổng Tử là một cuộc hành trình đầy gian nan, nếm trải bao
đắng cay hiểm nguy. Ông rong ruổi khắp nơi, bước chân của ông đã qua
nhiều nước, với hi vọng được đem cái đạo, chủ nghĩa tích cực cứu thế biến
đổi thời cuộc từ thời đại vô đạo thành thời đại hữu đạo. Nhưng hoài bão đó đã
không thành “Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời
khuyên của thầy”(11; 13).
14 năm rong ruổi là 14 năm ông đi tìm bậc minh quân, nhưng chính
những chuyến lữ hành ngang dọc đời sống nhiều gian nan ấy, trải qua bao
thăng trầm, đã cho thấy rõ rệt một Khổng Tử đạo đức nhân cách bản lĩnh,
trung dũng và rất bền chí. Đó là phẩm chất cao quý chỉ có ở những người
từng trải, đặc biệt đó là người quân tử. Bản lĩnh của người quân tử được kết
hợp nên từ ba phẩm chất: nhân, lễ, chính danh. Ba phẩm chất này có quan hệ
mật thiết, tác động qua lại tạo nên tính cách của một con người hoàn hảo.
Theo quan niệm Khổng Tử, nhân là một phạm trù đạo đức, phẩm chất
có ý nghĩa bao trùm, đồng thời cũng thể hiện những tính cách cụ thể của con

người.
Nhân một mặt là lòng thương người “điều mà mình không muốn thì
đừng làm cho người khác”. Nhân cũng là giúp cho người khác lập thân, lập
nghiệp: mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt. Bên cạnh
đó, đối với bản thân mình thì phải sống cho nhân đạo, cư xử đúng mực với
mọi người, phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, không nên vì ham muốn
trước mắt mà đánh mất nhân cách của mình, nếu không hợp với lễ thì không
nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm. Ngoài
13


ra nhân còn bao hàm các nội dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành
thật, dũng cảm, rộng lượng, cần cù...
Như vậy, nhân là một phạm trù rất rộng, nó quy định tính cách của con
người, làm cho con người sống có đạo hợp với mọi lẽ ở trên đời. Nhân là một
phạm trù trung tâm, cơ bản quy định bản chất con người - đặc biệt là người
quân tử - có nhân là có tất cả. Nhân đồng nghĩa với người quân tử: quân tử có
thể bất nhân, tiểu nhân làm gì có nhân mà mất.
Con người thể hiện đức nhân của mình thông qua hành vi ngôn ngữ, thái
độ gọi là “lễ”. Khổng Tử rất chú ý đến lễ. Nhưng lễ theo Khổng Tử không
phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn gắn
liền với nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ, nhân là gốc, là nội dung,
còn lễ là biểu hiện của nhân. Chữ lễ bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất: lễ nghi thờ cúng, thiết chế chính trị và quy phạm đạo đức.
Thứ hai: Quy định và bảo vệ quyền lợi nghĩa vụ của mọi người.
Thứ ba: Cơ sở để quy định vị trí xã hội, quân - thần, phu - phụ, phụ -tử.
Thứ tư: Cơ sở để người quân tử suy nghĩ và hành động đung.
Lễ không chỉ là biểu hiện của nhân mà còn có thể điều chỉnh đức nhân
cho đúng mực, cho phải đạo. Lễ giúp cho người quân tử thực hiện điều nhân
được tốt hơn, Khổng Tử nói “cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn

thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì loạn, thẳng
thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”(24; 130). Khi nắm được
điều nhân rồi thì phải hiểu lễ, có như vậy với là người có đức nhân.
Chính danh hiểu theo nghĩa rộng là một yếu tố của phạm trù nhân,
đồng thời chính danh trong sự phát triển của học thuyết Nho giáo, nó biểu
hiện như mối liên hệ: nhân là nội dung, lễ là hình thức, chính danh là con
đường để đạt tới điều nhân.
Theo quan điểm của Khổng Tử, mỗi người có một tên gọi nhất định,
nếu tên gọi đó phù hợp với vai trò, vị trí của con người thì được gọi là chính
danh. “Chính danh” có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp
với cái danh nó mang”(34; 53). Còn nếu tên gọi đó không phù hợp thì gọi là
“dị danh”. Như vậy chính danh là yếu tố của người quân tử phải có trong xã
hội, để làm cho xã hội có trật tự kỉ cương. Chính danh là điều căn bản của
việc làm chính trị đưa xã hội “loạn” trở lại “trị’. Khổng Tử cho rằng việc
14


chính trị tốt hay dở là do ở người cầm quyền. Người cầm quyền biết theo điều
ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì cũng thành ra ngay thẳng.
Quý Khang Tử đã hỏi Khổng Tử về chính trị, Khổng Tử trả lời rằng:
“chính trị là chính đích – ngay thẳng, Ông lãnh đạo dân một cách chính đích
thì ai không dám chính đích” (19; 204). Khi một ông vua làm việc ngay thẳng
đúng với Vương đạo danh phận của mình thì dân chúng đều tin theo. Hành
động theo vương đạo thì ông vua mới thật là ông vua, ông vua vừa hợp với
thực vừa hợp với danh. Nếu như ông Vua không hành động theo vương đạo
thì ông vua không phải là ông vua nữa. Vì vậy, như trên đã nói trong xã hội
mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm, bổn phận với danh ấy, danh
phận đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng của người ấy, trên ra trên,
dưới ra dưới trật tự phân minh, vua có phận vua, tôi có phận tôi: “Quân sử
thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”(19; 65).

Ngoài ra, chính danh còn là sự biểu hiện của con đường, phương pháp
đạt đến mục đích cuối cùng của người quân tử là “đạo nhân”. Dù bằng con
đường chính danh, bằng hình thức của lễ, nhưng người quân tử không đạt đến
điều nhân thì cũng coi như chưa thực hiện được chính danh. Chính vì vậy,
chính danh phải được hiểu trong mối liên hệ phạm trù thống nhất: Nhân, Lễ,
Chính danh. Với quan niệm về chính danh như vậy là thể hiện sự rằng buộc
của người quân tử qua nhiều yếu tố.
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng giáo dục Khổng Tử.
1.2.1. Một số phương diện biểu hiện của tư ttưởng giáo dục Khổng Tử.
1.2.1.1. Đối tượng giáo dục.
Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu là xã hội loạn lạc. Đời sống nhân
dân lầm than cơ cực, chiến tranh liên miên giữa các nước chư hầu, xuất hiện
thêm nhiều giai cấp tầng lớp mới trong xã hội. Trước xu thế biến đổi của thời
đại, nhưng Khổng Tử đã có những khuynh hướng tiến bộ trong chủ trương
giáo hoá con người đó là: “Hữu giáo vô loại”(19; 298). Có nghĩa là mọi người
trong xã hội đều có quyền được học, được giáo dục, không phân biệt đẳng cấp
giàu nghèo, chủng tộc, sang hèn thông minh hay đần độn. Tuy về nội dung
bản chất giáo dục với mỗi người là khác nhau, nhưng về cơ bản thì việc giáo
dục, học tập là của tất cả mọi người. Khi được giáo dục con người trở về với
tính thiện, sẽ hiểu được đạo, hành đạo và đạt đạo. Đây là tư tưởng có tính đột
15


phá trong một xã hội còn nhiều quan điểm bảo thủ, phải đặt tư tưởng Khổng
Tử vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ chỉ có tầng lớp thống trị có đặc quyền ấy
mới thấy hết tính cách mạng của ông, “Hữu giáo vô loại” như phát đại bác nã
vào cái thành trì giáo dục đẳng cấp nặng nề tồn tại từ lâu ở Trung Quốc cổ
đại.
Đối tượng giáo dục Khổng Tử dành cho tất cả mọi người, nhưng trong
đó chủ yếu vẫn dành cho người quân tử. Vì: “Quân tử học đạo tắc ái nhân,

tiểu nhân học đạo tắc dị sử dã” – có nghĩa là người quân tử học đạo (lễ nhạc)
thì yêu người, còn tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến(19; 285). Cũng xuất phát
từ lợi ích và địa vị đẳng cấp xã hội, nên Khổng Tử cho rằng đối với dân việc
gì cần thiết thì cứ sai khiến không nên giảng giải, vì dân không có khả năng
hiểu ý nghĩa công việc mình làm “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi”(19;
143). Như vậy, thực chất giáo dục đối tượng mà Khổng Tủ hướng đến chỉ là
người quân tử, còn người dân lao động và kẻ tiểu nhân thì có dạy cũng không
hiểu biết gì cả.
Khổng Tử còn đặt ra nền giáo dục toàn dân, ông đã bình dân hoá giáo
dục. Trước đây chỉ có con em quan lại quý tộc, vua chúa mới được cắp sách
tới trường. Trường học là của Nhà nước chỉ tính trên đầu ngón tay. Giờ thì
công việc học tập dành cho mọi đẳng cấp trong xã hội,
Khổng Tử đã đưa nền giáo dục từ trình độ dân trí thấp lên trình độ cao,
từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng... Đây là đóng góp to lớn của Không Tử cho
nền giáo dục nhân loại, mà ngày nay chúng ta đang học tập và làm theo.
Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng là người đầu tiên, trong lịch sử nhân loại
thời kì cổ đại mở trường tư với quy mô lớn. Trường học của Khổng Tử luôn
mở rộng cửa đón tất cả mọi người vào học. Đối tượng giáo dục rộng lớn bất
kể người nào, chỉ cần có lòng ham muốn học hỏi, tìm hiểu tri thức, học đạo
làm người là ông nhận. Khổng Tử nói: Ai dưng lễ xin học thì từ một bó nem
trở lên ta chưa từng chê là ít không dạy”(19; 123). Học trò của Khổng Tử đến
từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, trong đó có con em quý tộc: Mạnh
Ý Tử, Nam Cung, Kính Thúc, nhưng không ít có những hoàn cảnh khó khăn
như Nhan Hồi, Trọng Cung, Tử Lộ... Khổng Tử không phân biệt đẳng cấp để
giáo hoá, mà ông còn nhận giáo dục cả những kẻ biết hối cải, có ý thức tự
giác vươn lên. Vì vậy ông nghe có tiếng “Người làng Hỗ có tiếng ác nghịch
16


khó giảng điều phải cho họ nghe được, một thanh niên làng đó lại yết kiến để

xin học, Khổng Tử tiếp, đệ tử phân vân hoài nghi, Khổng Tử bảo: người ta
tiến bộ thì mình tán thành, hà tất phải nghiêm khắc thoái quá - Người ta tự
tinh khiết mà mong được tiến bộ, thì ta tán thành lòng tinh khiết của họ chứ
không đồng ý về dĩ vãng của họ” (19; 133).
Xét trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, xã hội mà con người đặc biệt là
người nô lệ chỉ được xem là công cụ biết nói, những tư tưởng tiến bộ có tính
nhân văn, có công lao to lớn cho sự nghiệp giáo dục của nhân loại, là giá trị
lịch sử mà Khổng Tử đem lại cho nhân loại.
Khổng Tử nhận thấy nhân cách của con người không phải bẩm sinh mà
có, bởi bản chất con người khi sinh ra đều giống nhau, song do tác động của
môi trường của điều kiện sống, nên thói quen đem lại cho người tính lành, kẻ
thì tính ác: “Tính tương cận, tập tương viễn”(19; 284). Môi trường giáo dục là
rất quan trọng, nó góp phần hình thành nên nhân cách cũng như phẩm chất
của mỗi người. Do đó, việc giáo dục là quan trọng đối với mỗi người. Ông
chủ truơng giáo dục “học hạ tư nhân”, tức là việc giáo dục phải tiến hành từng
bước, trước tiên phải giáo dục từ trong gia đình đó là trường học đầu tiên của
mỗi con người, sau đó mới đến nhà trường phân ra các cấp học cơ sở, để phù
hợp với mọi trình độ lứa tuổi, điều này rất phù hợp trong thời đại xã hội ngày
nay.
Vì vậy, đối tượng giáo dục phải rộng lớn để cải hoá tất cả mọi người,
trừ những người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu: “Duy thượng trí dữ hạ
ngu bất di”(19; 285), đây là hai hạng người không thể thay đổi được.
Bậc thượng trí là đã bẩm thụ cái khí rất thanh của trời đất, ngay từ lúc
đầu đã hoàn toàn rồi, thượng trí không phải là người quân tử vì người quân tử
cũng phải học, thượng trí sinh ra đã biết phải chăng đó là bậc thánh hiền?
Nhưng cũng có lúc ông đã nói, không ai sinh ra là đã biết mà phải thông qua
học, đến như ông là người “học không biết chán, dạy không biết mỏi”, còn
không dám nhận mình là bậc thánh nhân. Vậy bậc thượng trí, chỉ là mẫu
người lí tưởng mà Khổng Tử muốn hướng tới, còn trong xã hội hiện thực thì
chưa có.

Còn đứa hạ ngu đã bẩm thụ cái khí rất trọc, dẫu có dạy bảo thế nào cũng
không giỏi nên được, đó là loại khốn cùng mà khốn cùng cộng với không học
17


tập thì “bất di” là thoả đáng. Bậc thánh nhân mới sinh ra là biết thông suốt
mọi lẽ trên đời, còn kẻ hạ ngu thì có dạy bảo cũng không biết gì, nên tốt nhất
là không nên dạy học cho những kẻ đó làm gì. Đây là một hạn chế do lập
trường giai cấp nặng nề và là hạn chế của lịch sử, trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử.
Khổng Tử chia thiên hạ ra làm nhiều hạng người: “Sinh ra đã biết là
bậc trên, học rồi mới biết là bậc thứ, gặp cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại
còn thấp hơn nữa, thấp nhất là gặp cảnh khốn nạn rồi vẫn không chịu
học”(19; 277). Với việc chia xã hội ra làm nhiều hạng người như vậy, thể
hiện quan điểm lạc hậu cũng như bảo thủ, hạn chế của Khổng Tử.
Với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, hướng tới giáo dục cho tất cả mọi
người, đối tượng dạy bảo là rộng lớn, nhưng có lúc Khổng Tử lại cho rằng:
“Trung nhân dĩ thượng khả dĩ ngữ thượng dã, trung nhân dĩ hạ bất khả dĩ ngữ
thượng dã” - Người ta có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí
cao xa, tư chất từ bậc trung trở xuống không thể giảng đạo lí cao xa cho
được”(19; 144). Đặc biệt, trong đối tượng giáo dục của ông, Khổng Tử còn
xem thường không có thiện cảm đối với sự giáo dục, dạy học cho người phụ
nữ: “Chỉ có hạng tì thiếp và tôi tớ là khó cư xử với họ, thân cận với họ thì
nhờn, xa cách với họ thì họ oán” – Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã.
Cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán(19; 297). Đây là, cái đáng trách của
Khổng Tử, thể hiện tư tưởng trọng nam khinh nữ, đó là cơ sở để giai cấp
phong kiến rất coi thường phụ nữ.
Qua đây, có thể thấy rõ những mâu thuẫn trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử, dù thế nào đi chăng nữa ông vẫn bị ảnh hưởng bởi lập trường giai
cấp, vẫn phải bảo vệ cho chế độ mà ông đang sống. Khổng Tử chưa bao giờ

và chưa dám lên án xã hội ấy, có chăng là phê phán những người lãnh đạo
trong xã hội ấy mà thôi.
1.2.1.2. Mụch đích giáo dục.
Mục đích cao nhất trong giáo dục, theo Khổng Tử là “uốn nắn nhân
cách và bồi dưỡng nhân tài”(24; 131), cái chủ đích của Khổng Tử là để dạy
người ta cho thành người nhân nghĩa.
Với Khổng Tử, dạy học trước hết để hiểu đạo lí ở đời, để tự sửa mình
thành người có nhân cách phẩm chất và để làm người quân tử. Nhìn chung thì
18


mục đích cao nhất vẫn là giáo dục mọi người hiểu được đạo, hiểu được đạo
thì mới cách biết thao thủ, để có cái phẩm giá đạo đức hơn người thường, như
cổ nhân đã từng nói “học là cốt học đạo của thánh hiền để hiểu nghĩa lí, biết
phải trái mà sửa mình cho thành người có đức hạnh, chứ không chỉ vụ lấy biết
nghề kiếm ăn”(17; 125).
Sau khi học đạo xong, nếu cần thì mới ra làm quan nhậm chức triều
đình “nhằm phò vua, giúp nước, cứu dân”, gánh vác công việc triều chính
quốc gia, học để biết kỉ cương của xã hội mà tuân theo chứ không phải học để
mong ra làm quan được hưởng bổng lộc vinh hoa phú quý của triều đình. Đặc
biệt, trong lúc xã hội rối ren, loạn lạc chiến tranh tàn khốc thì học đạo mà
không ra làm quan cứu vớt cuộc đời thì không phải là người có trí, không ra
giúp đời không phải là người có nhân. Vì vậy, cuộc đời của con người, quan
trọng nhất là phải học, học để hiểu biết đạo lí làm người và nâng cao tri thức
cho mình, mang tài trí của mình ra giúp đời cứu người.
Cuộc đời của Khổng Tử, là một tấm gương ham học cầu tiến, thể hiện
rõ rệt một tinh thần cứng cỏi, truy cầu không mệt mỏi, ông đã nhiều lần nhấn
mạnh “không phải ta sinh ra đã có am hiểu tri thức, chẳng qua là ta đam mê
các tri thức văn hoá của bậc thánh hiền cổ xưa nên cố gắng tầm học”(19;
129). Khổng Tử là người có chí hướng cao xa, mong muốn được đem sự hiểu

biết của mình ra giúp dân cứu nước, nhưng chí nguyện không thành, ông đành
quay về dạy học truyền bá tư tưởng thông qua học trò của mình, với hi vọng
học trò lĩnh hội và thực hiện được phần nào tư tưởng của ông.
Mục đích giáo dục của Khổng Tử chủ yếu là cải tạo nhân tính, hoàn
thành nhân cách, giáo dục chú trọng vào việc dưỡng thành nhân cách để mà
ứng dụng với đời, giáo dục là tu sửa cái đạo làm người. Cho nên Khổng Tử
cho rằng giáo dục có ý nghĩa trọng yếu phi thường, dù là người tài giỏi thông
minh đến đâu thì cũng phải được giáo dục “Nên bất cứ một cá nhân có thiên
tài lỗi lạc như thế nào nếu không để cho giáo dục uốn nắn thì cũng không thể
thành một nhân hoàn toàn được”(29; 257).
Mục đích giáo dục của Khổng Tử, ngoài hoàn thiện nhân cách, bồi
dưỡng đạo đức, dạy cho học trò giữ cái tâm cho trung chính, việc làm cho
thành thực thì Khổng Tử mong muốn việc học còn là để giúp đời phục vụ cho
19


cuộc sống “cổ chi học giả vị kỉ, kim chi học giả vị nhân” - Đời xưa vì mình
mà học, còn đời nay vì người mà học(19; 242).
Người xưa vì mình mà học là để được thăng quan tiến chức, để được
hưởng bổng lộc của nhà vua, chỉ nghĩ về cái lợi trước mắt cho bản thân mình,
còn đời nay vì người mà học, học để ứng dụng cho có ích với đời, với quốc
gia xã hội. Đó là quan niệm “Học dĩ ứng dụng”, học phải có mục đích rõ ràng
ích dụng trong cuộc sống. Vậy nên Khổng Tử mới dạy “Đọc ba trăm thiên
Kinh Thi, giao cho việc chính trị mà làm không nên, sai đi sứ bốn phương mà
khônh biết ứng đối như vậy học nhiều để làm gì?”(19; 214). Do đó, khát khao
mong muốn lớn nhất của Khổng Tử là được mang cái đạo của mình ra dạy
người với mục đích: người học hiểu được đạo, hiểu đời để: “Tu thân - tề gia trị quốc – bình thiên hạ” và đây cũng chính là con đường đi của người quân
tử.
Người quân tử muốn trở thành người có ích cho xã hội, xây dựng một
xã hội tốt đẹp hoà đồng, thì trước hết phải tu thân. Ở đời tu thân là quan trọng

nhất, không tự tu thân thì không thể giúp đời được không làm tròn bổn phận
của mình với thiên hạ “Những vị vua, những vị thánh thửa xưa muốn cho đức
của mình toả sáng, trước hết phải lo sửa trị nước mình; muốn sửa, trị nước
mình trước hết phải lo sửa nhà mình; muốn sửa trị nhà mình trước hết phải tu
tập lấy mình bằng cách thấu suốt đạo trời đất để giữ cho lòng ngay thẳng”(1;
80).
Việc tu thân không chỉ của người quân tử mà là việc của mọi người, từ
thiên tử đến thứ dân đều phải lo tu thân học làm người, như vậy xã hội mới có
trật tự kỉ cương lề lối. Đó chính là mục đích sâu xa trong mục đích giáo dục,
để xây dựng một xã hội trật tự, một đất nước thanh bình của Khổng Tử.
Bôn ba khắp nơi đi truyền đạo không thành công, nên nỗi buồn lớn
nhất của Khổng Tử là “đạo” của ông không một ông vua nào sử dụng làm
chính sách xây dựng đất nước. Không phải đạo của Khổng Tử quá cao siêu
không được chấp nhận mà do nhiều nguyên nhân. Đạo của ông là đạo của
người, để dạy người có đức hạnh hoàn toàn và nhân phẩm tôn quý, cho nên
mục đích giáo hoá của Khổng Tử là chủ yếu hướng vào người quân tử. Theo
thống kê của Duơng Bá Tuấn trong cuốn sách “Luận ngữ’, người quân tử
20


được nhắc tới 107 lần, từ đó có thể thấy địa vị của người quân tử quan trọng
với người Khổng Tử như thế nào.
Trước Khổng Tử, quân tử là để chỉ địa vị xã hội, phân biệt với tầng lớp
tiểu nhân. Tới Khổng Tử ông nâng khái niệm ấy lên thành phẩm chất con
người, quân tử là người tài cao trí lớn, thấu hiểu mọi lẽ ở đời. Vì vậy trong
quá trình dạy học, ông luôn khuyên học trò rèn luyện được như người quân tử
với những phẩm chất sau:
1) Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, nhìn đúng vấn đề.
2) Khi nghe phải nghe cho rõ ràng, nghe lời người trung thành.
3) Nói về hình thức sắc mặt phải ôn hoà.

4) Nói năng phải trung thực.
5) Tướng mạo phải trang nghiêm.
6) Làm việc trọng sự kính nể.
7) Điều gì còn nghi hoặc thì phải xem xét, phải hỏi han cho rõ ngọn
nguồn của sự việc hay vấn đề.
8) Khi tức giận phải nhớ đến hậu hoạ.
9) Khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa.
Đó là mục đích giáo dục của Khổng Tử, mong muốn của ông là đào tạo
được nên những con người có phẩm chất tốt đẹp như vậy, để xây dựng một xã
hội lý tưởng từ “vô đạo” thành “hữu đạo”, đó là một xã hội được xây dựng
trên nền tảng ‘đức trị” nặng đức mà nhẹ hình.
Quan điểm giáo dục của Khổng Tử dựa trên cơ sở học thuyết về đạo
nhân, nên ông chủ trương giáo dục với mục đích là “Tiên học lễ, hậu học
văn”. Lễ rất cần cho tu thân, trước khi đi học con người phải tu thân rèn luyện
nhân cách, tu dưỡng đạo đức giữ cái tâm cho chính, cái ý cho thành, tâm đã
chính, ý đã thành làm cho cái minh đức mình thành ra mẫn nhuệ, sau khi rèn
luyện song đạo đức, thì mới bắt đầu học tập về văn hoá. Nói tóm lại “Tiên học
lễ, hậu học văn” là trước hết phải giáo dục ý thức, sao đó mới giáo dục tri
thức, nên ông thưòng khuyên học trò “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn
nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc tắc dĩ học văn” –
Con em ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài kính nhường bậc
huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp mọi người mà gần
21


gũi người nhân đức, làm được như vậy rồi mà còn dư sức sẽ học văn hoá tức
học Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch...”(19; 28).
Với Khổng Tử, người quân tử học đạo thánh hiền để sửa mình cho
thành người có phẩm giá tôn quý, dẫu bần cùng cũng không làm điều trái đạo.
Nên mục tiêu xây dựng người quân tử của ông là phải có tri thức. Người quân

tử luôn phải học hành dùi mài kinh sử, văn ôn võ luyện: “Ngọc bất trác bất
thành khí, nhân bất học bất tri đạo”, có nghĩa là ngọc không dũa không thành
đồ trang sức quý, con người không học không thành đạo, khi chuyên tâm vào
học thì sẽ lĩnh hội được tri thức, lúc đó sẽ nắm được đạo và hành đạo. Khi
nắm được đạo, hành đạo để làm được việc thiện, con người phải có nhân.
Khổng Tử dạy phải đạt được ba điều là Nhân, Trí, Dũng: ưa học là gần trí, cố
làm là gần nhân, biết xấu hổ là gần dũng.
Mục đích giáo dục của Khổng Tử, là dạy học để làm người và giáo dục
lòng nhân, nhân là mối quan hệ giữa con người với con người, là nội dung
quan trọng trong tư tưởng Khổng Tử. Khi người quân tử đã có được nhân đạt
được đạo thì phải hành đạo giúp đời cứu người, phải được thực hành ứng
dụng, sử dụng những gì mình đã học để tham gia xây dựng quốc gia xã tắc
đấy chính là mục đích cao nhất của việc học, chứ đâu phải lấy sự học ra làm
quan sang mà hưởng bổng lộc.
Mục đích giáo dục, của vị thánh sư này còn là thông qua việc giáo, sẽ
giúp học trò tìm thấy chân lí trong cuộc sống, và ông cũng mong sao học trò
sẽ tìm thấy được chân lí cuộc đời qua mỗi bài học. Khổng Tử hết sức phản
đối cái học cầu danh lợi, tranh đấu vì quyền lợi mà chú trọng vào mục đích
tìm chân lí trong giáo dục. Chân lí ở đây tức là đạo lý, cho nên Khổng Tử
định nghĩa cho giáo dục là: “Tu đạo chi vị giáo – tu sửa đạo lí gọi là giáo dục.
“Đạo của Khổng Tử, lấy hai chữ chí thiện làm cực điểm, chí thiện tức là nhân.
Từ đầu chí cuối chỉ có một mối, chỉ lấy theo thiên lí làm gốc, dùng hiếu đễ, lễ
nhạc mà khiến người ta tiến đến bậc nhân”(17; 103), để trở thành bậc nhân,
bậc thánh con người phải hiểu đạo lí ở đời. Khổng Tử cho là cái đạo ấy có cái
vui, cái thú và ông đã cực tả lòng hâm mộ nhiệt thành đạo lý trong sự học ở
câu nói: “Triêu văn đạo tịch tử khả hỹ” - Buổi sáng được nghe mà hiểu đạo,
buổi tối chết cũng thoả(19; 76).
22



Tóm lại mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhằm đào tạo ra cho xã
hội con người có đủ đức đủ tài, đem tài trí và sức lực của mình ra giúp đời,
dám xả thân vì nghĩa lớn. Con người mà tài đức song toàn Khổng Tử hướng
đến là bậc quân tử có nhân cách cao thượng, tâm địa rất thánh hiền sống vì
điều nghĩa. Đó là người mà cụ Phan Bội Châu cho là rất tốt “Bởi vì người ấy
đạo đức đã cao, tài năng cũng giỏi, nhân cách lại rất hoàn toàn, nếu đem ra
gánh vác việc xã hội thời đáng làm một người chủ nên có chữ quân, quân có
nghĩa là ông chủ. Nếu đem ra gánh vác việc loài người thời càng cung cấp
được việc cho loài người, cũng như con thờ cha, nên có chữ “tử” – “tử” nghĩa
là con. Góp cả hai ý nghĩa như trên mới đặt tên bằng quân tử”(3; 28). Với các
mục đích giáo dục trên, có thể nói đó là một nền triết học giáo dục hoàn bị và
đó cũng là mong ước của Khổng Tử. Tuy còn có chỗ hạn chế nhưng đó thực
sự là những giá trị lịch sử có ý nghĩa đối với việc giáo dục hiện nay của nhân
loại.
1.2.1.3. Nội dung giáo dục
Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, nhà triết học uyên thâm nên nội
dung giáo dục của ông rất phong phú và đa dạng, mục đích giáo dục lớn nhất
của ông là nhằm đào tạo ra “Một mẫu người lý tưởng, có đủ tài và đức, trí và
lực, văn và chất, một lòng trung thành phụng sự chế độ, là riường cột của chế
độ xã hội”(2; 39). Nên nội dung giáo dục chủ yếu của Khổng Tử là dạy về
đạo lý làm người “Để chí vào học, giữ gìn đức hạnh, nương theo điều nhân,
vui với lục nghệ tức là lễ, nhạc, xạ, ngự, thư - viết chữ, số - toán pháp”(19;
123).
Giáo trình cơ bản Khổng Tử dùng để khai sáng dạy học cho học trò, về
kiến thức là Tứ Thư, Ngũ Kinh. Tứ Thư là bốn bộ sách gồm: Luận ngữ, Đại
học, Trung dung, Mạnh tử. Do nhu cầu dạy học, Khổng Tử chỉnh đốn các
sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết cuốn Xuân Thu sau tập hợp lại thành cuốn
Ngũ Kinh, được coi là kinh điển của Nho giáo gồm Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân
Thu.
Kinh Dịch: là một cẩm nang về sự tiên đoán có từ thời nhà Chu, nhá sách

giải thích về sự vận hành của vũ trụ dùng để bói toán những điềm lành, điềm
dữ của con người.
23


Kinh Thi: là một bộ sách sưu tập các bài ca, nghi lễ của các nước, Kinh
Thi có 305 bài hát, những bài ca dao bộc lộ niềm tin vào Thượng Đế, ước
nguyện sâu xa của Thánh Hiền thời cổ. Khổng Tử giới thiệu Kinh Thi cho
học trò với nhiều lý do: thứ nhất là giúp họ hiểu được phong tục tập quán của
các quốc gia khác, thứ hai giúp họ sống hoà thuận với những người khác, thứ
ba vì nó là phương diện để giải toả tình cảm.
Kinh Thư: là bộ sách sử các vua chúa từ đời Nghiêu đến đời Tần Mục
Công (khoảng từ năm 2350 T.CN đến 620 T.CN). Bộ sách trình bày tỉ mỉ
hoạt động, đường lối, tư tưởng của người cổ về tiếp nhân sử thế, đề cao
phương pháp trị vì thiên hạ bằng đạo lý...
Kinh Lễ: gồm ba bộ: Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký. Kinh Lễ là bộ sách lý
luận và biện pháp tổ chức xã hội mà Khổng Tử rất tâm đắc.
Kinh Xuân Thu: sử sách ghi chép các sự kiện hàng ngày, hàng tháng,
các mùa ở nước Lỗ của Khổng Tử, Khổng Tử viết Kinh Xuân Thu để khen
thiện, chê ác, dạy phép trị vì thiên hạ cho các Thiên Tử. Phép trị nước này là
thuyết “Chính danh” xuyên suốt, sách Xuân Thu mà trọn đời Khổng Tử tuân
theo.
Qua đây, có thể hiểu vì sao trong nội dung giáo dục Khổng Tử lấy Tứ
Thư, Ngủ Kinh để dạy cho học trò, vì đó là những kiến thức văn hoá, lịch sử
của dân tộc. Cao Xuân Huy đã rất đúng khi nói: “Trong tư tưởng của Khổng
Tử, đối tượng của tri thức, của sử học, không phải là hiện tượng tự nhiên mà
lại là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, tức là cái tôn giáo và cái văn hoá truyền thống của
nhà Tây Chu”(16;398).
Không tham gia vào việc triều chính, Khổng Tử quay sang dạy học,
ông cho rằng giáo dục là biện pháp để thực thi đức trị. Vì vậy, Khổng Tử làm

công tác giáo dục, không chỉ đơn thuần là truyền thụ tri thức cho học trò, mà
còn xem việc giáo dục là phương tiện trọng yếu để thực hiện rộng rãi đạo trị
quốc. Khi có người hỏi vì sao không ra làm quan, Khổng Tử trả lời rằng: “có
hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em, đưa phong khí đó vào trong chính trị,
ấy cũng là tham gia chính trị rồi, tại sao cứ phải ra làm quan?”(19; 50).
Những kiến thức mà ông dạy học trò đều rất thiết thực, gắn liền với cuộc sống
hằng ngày, Thi để dạy về Chí, Thư để dạy về việc, Lễ để dạy về đức hạnh,
Nhạc để dạy về hoà, Dịch để dạy về âm dương, Xuân Thu để dạy về danh
24


phận. Trước Khổng Tử nền giáo dục về lục nghệ chỉ được thi hành cho một
nhóm người quý tộc, đến Khổng Tử là người có công đầu tiên đã dùng lục
nghệ để dạy cho đại chúng.
Bên cạnh việc dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh để dạy kiến thức cho học trò thì
Khổng Tử cũng đặc biệt quan tâm đến giáo dục, dạy đạo đức cho học trò. Có
thể khẳng định nội dung đạo đức là nội dung quan trọng nhất trong tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử. Vì con đường và phương pháp trị nước của ông là
bằng “đức trị”. Nên khi giảng dạy ông đã giáo huấn, dạy cho đệ tử của mình
những phẩm chất quan trọng nhất của con người, về Tam Cương gồm quân
thần, phụ tử, phu thê là mối quan hệ giữa vua – tôi, cha – con, vợ - chồng.
Đối với quan hệ Vua – Tôi, là vua thì phải biết lo cho cuộc sống của
dân, bảo đảm cho dân được sống ấm no, xây dựng lực lượng hùng hậu và phải
lấy được niềm tin nơi dân. Dân thì đối với vua xem như là cha mẹ mình, là bề
tôi luôn phải trung thành với vua, làm việc hết mình để phục vụ cho Vua, suốt
đời tôn kính và tôn thờ Vua đó là nghĩa vụ và trách nhiệm của bề tôi “Quân
sử thần, thần sự quân, như chi hà? Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”
– Vua khiến bề tôi, bề tôi phải thờ vua như thế nào? Vua khiến bề tôi phải giữ
lễ, bề tôi thờ vua phải trung hết lòng”(19; 65).
Trong qua hệ cha – con, ông đánh giá cao chữ “hiếu” của người con đối

với cha mẹ, theo ông hiếu của con cái đối với cha mẹ, không chỉ là phụng
dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết là phải lòng thành kính, bất hiếu
với cha mẹ không thể gọi là có hiếu. Khi Tử Du hỏi về đạo hiếu Khổng Tử
đáp: “ chỉ nuôi cha mẹ không thôi không thể gọi là hiểu, vì đến như giống chó
giống ngựa cũng có người nuôi, nuôi cha mẹ mà không thành kính thì có khác
gì nuôi chó ngựa, làm sao có thể gọi là lòng hiếu thảo được”(19;42).
Quan điểm về chữ hiếu của Khổng Tử không phải là một chiều, không
phải nhất nhất con cái nghe lời cha mẹ mà phận làm con thấy cha mẹ lầm lỗi
phải can gián một cách nhẹ nhàng. Như vậy, mục đích cao nhất của việc bồi
dưỡng người con có hiếu, là để trở thành kể trung thần của quốc gia. Nội hàm
của “hiếu” là phong phú, Khổng Tử rất chú trọng việc “dùng hiếu” để giáo
dục cho học trò, đồng thời phải hiếu kính với cha mẹ “thờ cha mẹ nên nhỏ
nhẹ khuyên can, nếu cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không
xúc phạm cha mẹ, tuy khó nhọc, lo buồn, nhưng không được oán hận”(19;80).
25


×