Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng từ thực tiển tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.89 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN QUANH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA XÂY DỰNG
TỪ THỰC TIỂN TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành : Luật Hành Chính
Mã số:60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THANH
TRA XÂY DỰNG……………………………………………………………7
1.1. Quan niệm chung về thanh tra ................................................................ 7
1.2. Quan niệm, đặc điểm thanh tra xây dựng ............................................ 15
1.3. Phạm vi nội dung đối tượng thanh tra................................................... 18
1.4. Tổ chức, thẩm quyền và trình tự , thủ tục thanh tra xây dựng.............. 20
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG ................................ 25
2.1. Những yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng


trên địa bàn Tỉnh Kiên Giang....................................................................... 25
2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh tỉnh
Kiên Giang ................................................................................................... 27
2.3. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong
hoạt động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ........................ 49
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
MÔ HINH TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG....... 55
3.1.Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng từ thực tiễn hoạt
động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang................................ 55
3.2. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ......................................... 58
3.3. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra
xây dựng nói chung và thanh tra xây dựng tỉnh Kiên Giang nói riêng ....... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Tỉnh Kiên Giang là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, du
lịch thương mại, văn hóa - công nghiệp có tầm chiến lược của cả nước.Trong
những năm gần đây xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa
phương đã thu hút rất nhiều thành phần tập trung về tỉnh Kiên Giang kinh
doanh làm ăn sinh sốngtừ đó dẫn đến nhu cầu xây dựng về nhà ở, văn phòng,
các khu vui chơi giải trí khu công nghiệp, dịch vụ tăng cao , hàng loạt các dự
án nhà ở như : khu đô thị mới lấn biển thành phố Rạch Giá, khu nghỉ dưỡng
Winhome Rạch Giá và Phú Quốc được tiến hành khởi công xây dựng, các dự
án phát triển hạ tầng, khu công nghiệp Thạnh lộc huyện Châu Thành một số
khu đã hoàn thành một số khu tiếp tục thực hiện . Đặc biệt từ khi Chính phủ

có quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang
thành trung tâm du lịch thương mại gắn liền với phát triển kinh tế - du lịch,
tình hình xây dựng thêm khởi sắc, nhiều công trình mang tầm chiến lược phục
vụ an sinh xã hội tiếp tục được khởi công xây dựng tạo tiền đề cho việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của tỉnh Kiên Giang nói riêng
trong giai đoạn đổi mới, góp phần quan trọng cho việc tăng trưởng kinh tế và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì tình hình vi phạm pháp luật
trong hoạt động xây dựng, vi phạm về trật tự xây dựng xảy ra ngày càng
nhiều, phương thức ngày càng tinh vi,làm phá vỡ quy hoạch và trật tự quản lý
của địa phương, gây lảng phí nguồn lực của xã hội, thất thoát cho ngân sách
nhà nước. Trên thực tế đã phát sinh nhiều vụ thất thoát gây lãng phí lớn trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng và nhiều vụ việc vi phạm trong lĩnh vực xây dựng
đã bị xử lý.

1


Qua công tác kiểm tra, thanh tra,đối với các dự án xây dựng lớn cũng
cho thấy có nhiều dự án có vi phạm như : Vi phạm quy định về thẩm định dự
án, vi phạm quy chế đấu thầu, thi công sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết
bị, không phê duyệt khối lượng phát sinh, vi phạm các quy định về trình tự
thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng, về quản lý chất lượng, nghiệm thu,
thanh toán công trình, vi phạm về thiết kế, khảo sát, vi phạm quy định trong
giai đoạn đưa công trình vào khai thác, sử dụng…
Trong công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch tình trạng xây dựng
sai phép, không phép vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về
số lượng và quy mô xây dựng gây ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường đô
thị, nhưng kết quả phát hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng còn
thấp chỉ được phát hiện khi có dư luận, phản ánh của báo chí, hoặc những vụ

việc có sự tố giác của quần chúng nhân dân khi cơ quan chức năng vào cuộc
thì mới bị phát hiện mặc dù những sai phạm trong lĩnh vực xây dựng rất dể
nhận diện.
Tình hình nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
nguyên nhân do thiếu đồng bộ của hệ thống các quy định pháp luật về quản lý
nhất là nguyên nhân từ công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát trong đầu tư xây
dựng, vai trò của cơ quan chủ quản trong việc tuân thủ pháp luật, năng lực
quản lý yếu kém và việc chấp hành kỷ cương, pháp luật của nhà nước chưa
nghiêm và một phần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những người làm
công tác quản lý trật tự xây dựng.
Để khắc phục tình trạng trên, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực xây dựng là một yêu cầu rất cấp thiết nhưng để thực hiện
được yêu cầu đó tỉnh Kiên Giang cần phải hoàn thiện tổ chức hoạt động lực
lượng thanh tra xây dựng, hoạt động đảm bảo đúng theo qui định của pháp
luật nhằm đảm bảo được yêu cầu nhiệm vụ được giao . Xuất phát từ những
2


lý do trên Học viên đã chọn đề tài nghiên cứu " Tổ chức và hoạt động thanh
tra xây dựng từ thực tiển tỉnh Kiên Giang" làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ
luật học với mục tiêu nhằm làm rõ thêm ý nghĩa lý luận,đánh giáđúng đắn và
đưa ra các giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách ở địa phương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra
xây dựng còn ít, chưa được quan tâm đầy đủ, qua tham khảo các tài liệu hiện
hành cho thấy, các công trình khoa học nghiên cứ về lĩnh vực thanh tra xây
dựng chủ yếu lồng ghép trong một số đề tài như :
- Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
thanh tra nhà nước Việt Nam của tác giả Phạm Tuấn Khải; Luận văn thạc sĩ
luật học: “Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu

nại hành chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Kim năm 2004
- Pháp Luật về thanh tra xây dựng ở việt Nam hiện nay của tác giả
Nguyễn Thanh Mộng năm 2012”; Pháp Luật về thanh tra xây dựng từ thực
tiển quận Hà Đông, thành phố Hà Nội của tác giả Lê Ngọc linh năm 2014”;
đề tài cấp cơ sở: “Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”của th.s Nguyễn Hải Yến Thanh
tra chính phủ năm 2012
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân
tích lý giải nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra xây
dựng và thực trạng của thanh tra và pháp luật về thanh tra nói chung. Tuy
nhiên, chưa có luận văn nào đề cập đến nội dung liên quan " Tổ chức và hoạt
động thanh tra xây dựng từ thực tiển tỉnh Kiên giang” từ thực tế qua công tác
thực tiển bản thân, thấy được sự cần thiết của việc nghiên cứu trên là vô cùng
quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực xây dựng tại địa phương.
3


3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài:
Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
thanh tra xây dựng nói chung,tổ chức hoạt động thanh tra xây dựng ở tỉnh
Kiên Giang nói riêng, đánh giá đúng đắn thực trạng về thanh tra xây dựng ở
tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua, chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế trong tổ
chức và hoạt động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trên cơ
sở đó luận văn đề xuất cácgiải phápnhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng
cao hiệu quả hoạt động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận văn tập trung vào những nội

dung chính sau :
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và
hoạt động thanh tra xây dựng nói chung và thanh tra xây dựng trên địa bàn địa
phương nói riêng.
- Đánh giá đúng thực trạng,chỉ ra những ưu điểm cũng như những tồn
tại,hạn chế phân tích nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và
hoạt động thanh tra xây dựng gắn với quá trình thực hiện pháp luật chuyên
ngành nói chung và thanh tra xây dựng nói riêng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
từ năm 2010 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao
hiệu quả hoạt động thanh tra xây dựng tỉnh Kiên giang trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu :
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổ chức và hoạt động thanh tra xây
dựng của các cơ quan có chức năng thanh tra xây dựng.Luận văn tập trung

4


vào nghiên cứu mô hình, tổ chức,thẩm quyền, thủ tục hoạt động thanh tra xây
dựng hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn giới hạn ở huyện, thị và các
phường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian là 5 năm,kể từ khi thực hiện Luật
Thanh Tra năm 2010 đến nay.
- Do pháp luật về thanh tra xây dựng có nội dung rộng như: thực hiện
chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản
lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng gồm: xây dựng, kiến trúc, quy hoạch xây
dựng, về hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ
cao, phát triển đô thị, nhà ở và công sở, kinh doanh bất động sản, vật liệu xây
dựng, an toàn kỹ thuật xây dựng,về bảo vệ môi trường. Trong giới hạn của

luận văn, xuất phát từ thực tế đề tài này đề cập đến một số vấn đề chính là tổ
chức và thanh tra xây dựng từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đồng thời có tham khảo và kế thừa có chon lọc một số thành tựu của khoa học
quản lý, khoa học chính trị, pháp luật, kinh tế ...
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể được học viên sử dụng trong luận văn
là các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội cơ bản như phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh...
6.Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài:
- Về lý luận: Đề tài làm rõ hơn những vấn đề lý luận về tổ chức hoạt
động động của ngành thanh tra xây dựng trong thời điểm hiện nay..
- Về thực tiễn: Qua vấn đề thực tiễn, Luận văn đưa ra các giải pháp
hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra xây dựng từ
5


thực tiển tỉnh Kiên Giang.Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng kiện
toàn tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang. Làm cơ sở cho các cơ quan chuyên môn của tỉnh và cáchuyện thị
trong tỉnh nâng cao công tác thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng trên
địa bàn. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu cũng như từng
bước hoàn thiện hệ thống tổ chức và thanh tra xây dựng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thanh tra xây dựng
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra xây dựng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THANH TRA XÂY
DỰNG
1.1. Quan niệm và đặc điểm của hoạt đông thanh tra:
1.1.1.Quan niệm chung về thanh tra:
Tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra ở Việt Nam là vấn đề luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Mô hình tổ chức và phương thức hoạt
động của các cơ quan có chức năng thanh tra cũng có nhiều thay đổi qua các
giai đoạn. Từ góc độ lý thuyết, nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt
động thanh tra hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận khoa học.
Từ trước khi có Pháp lệnh thanh tra năm 1990, sau đó là trong suốt quá
trình xây dựng pháp lệnh thanh tra năm 1990, Luật thanh tra năm 2004 và
Luật thanh tra năm 2010. Với quan điểm khác nhau qua từng thời kỳ mà tổ
chức, các loại hình hoạt động thanh tra đã được quy định rất khác nhau trong
các văn bản trên. So với các ngành khác trong việc thực thi quyền hành pháp,
có thể thấy rõ rằng ngành thanh tra có những biến động khá lớn về tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ, công chức. Điều đó một phần thể hiện được sự hạn
chế trong nhận thức về vai trò của thanh tra trong quản lý nhà nước để có thể
hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm xây dựng tổ chức và tiến hành các hoạt động
thanh tra có tính ổn định lâu dài và hiệu quả. Nói cách khác, vấn đề thiết lập
tổ chức và hoạt động của thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói
riêng trước hết phải nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt động thanh tra
trong quản lý nhà nước. Ngày nay, vị trí, vai trò của ngành thanh tra nói
chung và đặc biệt là thanh tra chuyên ngành trong điều kiện mới, điều kiện

phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần phải được xem xét
thấu đáo để đưa ra những yêu cầu cụ thể để triển khai cho phù hợp.

7


Trước hết, về mặt lý luận, V.I. Lênin đã khẳng định: “quản lý đồng thời
phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai”. Đây là
nguyên tắc cơ bản đầu tiên và là cơ sở để xác định vị trí, vai trò của công tác
thanh tra. Theo quan điểm của Lênin thì khi đề cập đến công tác thanh tra
không thể không đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và quản lý nhà nước
nói riêng. Nội hàm “hoạt động thanh tra” được đặt trong nội hàm khái niệm
“quản lý nhà nước.Trong lý thuyết chung về quản lý nhà nước, quản lý nhà
nước thường được hiểu là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó chính là hoạt động quản
lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận
quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn
phương đối với xã hội. Quản lý nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động
của các cơ quan nhà nước thực thi quyền lực nhà nước. Do quyền lực nhà
nước được phân chia thành ba loại quyền là quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp nên quan niệm chung về quản lý nhà nước trong trường hợp
này được hiểu theo nghĩa rộng, đó là hoạt động thực thi quyền lực trên tất cả
các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ thể thực thi quyền lực đó
tác động đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm duy trì trật tự, bảo đảm lợi
ích chung của cộng đồng nhằm thúc đẩy các giá trị kinh tế, chính trị, xã hội
phát triển theo mục tiêu định hướng của nhà nước.
Trong quản lý nhà nước không thể thiếu các hoạt động chấp hành, điều
hành nhằm thực thi pháp luật. Hoạt động này gắn liền với việc thực hiện
quyền hành pháp, đó chính là hành chính nhà nước. Như vậy, hành chính nhà
nước được hiểu là một bộ phận của quản lý nhà nước. Các hoạt động hành

chính nhà nước lại bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như ban hành chính
sách, quy định, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật, kiểm tra, xem xét, đánh
giá việc thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm trong những điều kiện cần thiết.
8


Chính cách yếu tố đó thể hiện rõ nét nhất tính cưỡng chế trong quản lý nhà
nước. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm trong lĩnh
vực hành chính là một yêu cầu tất yếu không thể thiếu trong hoạt động quản
lý. Chính vì vậy, hoạt động thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước, là một
bộ phận quan trọng của hành chính nhà nước.Khi đề cập đến hoạt động kiểm
tra, đánh giá, xem xét việc thực hiện pháp luật của các chủ thể nói chung, có
hai nhóm chủ thể là đối tượng của hoạt động này đó là các cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân.Đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan
nhà nước thì hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá nhằm đánh giá việc thực
hiện nhiệm vụ công vụ, trên cơ sở sự phân công, phân nhiệm cụ thể trong
quản lý. Hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá này được coi là một phương
thức bảo đảm việc thực thi quyền hành pháp đúng với quỹ đạo là phục vụ cho
quản lý xã hội, chính là một nội dung của kiểm soát việc thực hiện quyền lực
nhà nước (mà cụ thể và chủ yếu ở đây là thực thi quyền hành chính). Đối với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá
này lại chính và việc thực hiện quyền hành chính nhằm kịp thời phát hiện ra
các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật về quản lý trên các lĩnh vực. Đó
chính là sự kiểm tra, xem xét, đánh giá của chủ thể quản lý đối với đối tượng
quản lý. Ví dụ như việc kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý vi phạm của cơ
quan, người có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm
đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này.Công tác
thanh tra trước hết được xem xét như một phương thức nằm trong cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước nói chung. Khoản 3 điều

2 hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Để bảo đảm mọi hoạt động của
9


nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, Nhà nước đã thiết lập hệ
thống kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, bao gồm:
Kiểm tra của đảng,kiểm tra giám sát tối cao quốc hội, kiểm tra giám sát của
hội đồng nhân dân các cấp, thanh tra nhà nước, kiểm tra giám sát của nhân
dân thông qua các đoàn thể, tổ chức quần chúng hoặt trực tiếp gửi đơn thư
đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giám sát của các cơ quan thông tin
đại chúng như báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình... Mỗi loại hình
kiểm tra, giám sát trên đây có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ,
trách nhiệm và phương thức thực hiện việc kiểm tra, giám sát khác nhau
nhưng cùng có mục tiêu chung là kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối,
chính sách, phát luật, cơ chế quản lý; tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong hệ thống kiểm tra, giám sát nói trên, ở Việt Nam, hệ thống thanh
tra nhà nước có chức năng giúp cơ quan quản lý nhà nước xem xét đánh giá
và xử lý đối với các cơ quan ,tổ chức, đơn vị trực thuộc trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, các quyết định của mình đồng thời , xem xét, đánh
giávà xử lý đối với việc chấp hành chính sách, phát luật nói chung của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực quản lý của mình. Mặc dù có sự thay
đổi về tổ chức và thẩm quyền, phương thức hoạt động nhưng công tác thanh
tra luôn là một bộ phận của công tác quản lý nói chung và vị trí quan trọng
của nó còn được xác định là một phương thức để kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước.Theo tinh thần chung hiện nay và điều này được thể
hiện trong Luật Thanh tra năm 2010 thì : Thanh tra là việc xem xét, đánh giá,
xử lý theo thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện

chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản
lý.

10


Với cách tiếp cận đó, vị trí, vai trò của thanh tra đối với hoạt động quản
lý được thể hiện trên hai phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước,
là một giai đoạn trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu
quả của quản lý nhà nước. Trên phương diện này, thanh tra là một yếu tố cấu
thành trong thực hiện quyền quản lý hành chính nhà nước nhưng đồng thời
hoạt động thanh tra lại có tính độc lập tương đối so với các nội dung khác
trong việc thực hiện quyền quản lý như hoạt động ban hành văn bản pháp
quy, hoạt động chỉ đạo điều hành…. Đồng thời, vai trò này của hoạt động
thanh tra còn thể hiện sự khác biệt giữa thanh tra với các hoạt động giám sát
khác đối với hoạt động quản lý nhà nước. Các chủ thể có quyền giám sát
thường “đứng ở bên ngoài” chủ thể có thẩm quyền quản lý nhưng hoạt động
thanh tra cũng có thể được coi là một phương thức giám sát đối với hoạt động
quản lý nhưng nó lại “đứng bên trong” hệ thống quản lý. Một trong những
đặc trưng của giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là chủ thể giám sát
và đối tượng chịu sự giám sát phải ở vị trí độc lập. Tuy nhiên, mặc dù “đứng
bên trong” nhưng do tính độc lập tương đối của hoạt động thanh tra trong
quan niệm về thanh tra ở Việt Nam hiện nay nên một phần của hoạt động
thanh tra có thể được coi là hoạt động giám sát hành chính.
Thứ hai, thanh tra là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội
phạm nảy sinh trong quản lý nhà nước, là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ
cương trong quản lý, góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Việc phát hiện,
xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của các cá nhân, cơ quan có
trách nhiệm, là đối tượng bị quản lý góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp

luật trong hoạt động quản lý. Vai trò này của hoạt động thanh tra có được từ
bản chất mang tính quyền lực của thanh tra. Quyền thanh tra ở đây cần được
quan niệm gắn liền với thực thi quyền hành pháp mà cụ thể là kiểm tra và xử
11


lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm trật tự lý của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật về quản lý chuyên ngành.
Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở quản trong cơ chế
quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của
pháp luật, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2.Đặc điểm của hoạt động thanh tra trong quản lý nhà nước:
Theo luật thanh tra 2010 thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh
giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hoạt động bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
- Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
Với quan niệm về hoạt động thanh tra như đã thể hiện, hoạt động thanh
tra có những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu và
phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước

12


Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà
nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước và thanh tra,
có cái chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các
đối tượng bị quản lý. Song, xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh
tra chỉ là những công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước. Là một khâu trong
chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng
thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh các cách thức, phương pháp quản lý
của chủ thế quản lý nhà nước. Trong chu trình đó, thanh tra phản ánh và bảo
vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính và cơ chế quản lý nhà nước
sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy
cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ cương trong hoạt động quản lý nhà nước.
- Thứ hai, hoạt động thanh tra mang tính quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ
với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của
quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Không thể
không có quyền lực mà không gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà
nước quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất
nhà nước của tổ chức Thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử
dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý. Khi nhấn mạnh
tính quyền lực của các tổ chức Thanh tra, Lênin nói: “Thanh tra thiếu quyền
lực là thanh tra suông”(1). Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra
thể hiện ở chỗ các cơ quan Thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác

định và - Ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh
tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện.
- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu
truy cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được
phát hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp
luật.- Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng các biện pháp xử lý mang
tính cưỡng chế nhà nước.

13


Không nên cho rằng hoạt động thanh tra là hoạt động mang tính cưỡng
chế, vì như thế là đồng nhất quyền lực với cưỡng chế. Cưỡng chế chỉ là một
yếu tố đặc biệt và chỉ trong những trường hợp cần thiết khi sử dụng quyền lực
nhà nước mà thôi. Thanh tra lại là hoạt động thường xuyên, thiết thực, có tính
sáng tạo, ngày càng được mở rộng và trở nên rộng khắp, mang tính dân chủ
sâu sắc. Do đó, nói đến tính quyền lực nhà nước trong hoạt động thanh tra
không có nghĩa là trong hoạt động thanh tra chỉ sử dụng các biện pháp cưỡng
chế.
- Thứ ba, hoạt động thanh tra mang tính khách quan và độc lập tương
đối
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lý nhà nước. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà
nước khác, tổ chức và hoạt động thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét,
đánh giá một cách khách quan.
Tính khách quan và độc lập tương đối trong quá trình thanh tra được thể
hiện trên các điểm sau:
- Tuân theo pháp luật.
- Tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội

theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định
- Khách quan trong quá trình thanh tra. Mặc dù bản thân hoạt động thanh
tra thông qua con người, mang yếu tố chủ quan, nhưng yêu cầu đặt ra đối với
hoạt động thanh tra là luôn phải tôn trọng sự thật khách quan.
- Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp
luật về kết quả của hoạt động thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh
tra của mình.
Tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ là tương đối bởi vì, trong hoạt
động thanh tra, các cơ quan Thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách
hiện hành, đồng thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện

14


tượng, việc đang làm trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học,
lịch sử cụ thể.
Ở nước ta, tính độc lập tương đối của các cơ quan Thanh tra trong quá
trình thanh tra được quy định trong các văn bản pháp luật từ khi Ban Thanh
tra đặc biệt ra đời (23/11/1945) đến nay thể hiện thông qua thẩm quyền
(quyền hạn và nghĩa vụ) của các cơ quan Thanh tra. Nguyên tắc hoạt động
thanh tra là tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực,
công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
Trên đây là những đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra.
Đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác
của bộ máy quản lý nhà nước. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan
quản lý nhà nước khác, tổ chức và hoạt động thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là
xem xét, đánh giá một cách khách quan.
1.2. Quan niệm, đặc điểm thanh tra xây dựng:
1.2.1. Quan niệm về thanh tra xây dựng:

Thanh tra xây dựng là hoạt động xem xét, phát hiện, xử lý của cơ quan
quản lý về xây dựng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
các chính sách, pháp luật về xây dựng. Hoạt động thanh tra xây dựng do các
cơ quan thanh tra có thẩm quyền thực hiện nhằm phục vụ hoạt động quản lý
của nhà nước về xây dựng, đảm bảo quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hoạt động của thanh tra xây dựng được chia thành hai nhóm: thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành, theo quan niệm này thanh tra hành
chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước, thuộc quyền quản
lý trực tiếp của bộ xây dựng, sở xây dựng. Tuy nhiên, khi đề cập đến thanh tra
xây dựng, người ta thường quan tâm từ góc độ là hoạt động thanh tra chuyên
ngành. Từ quan niệm chung về hoạt động thanh tra chuyên ngành nói trên, có
15


thể quan niệm: thanh tra xây dựnglà hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực xây dựng đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành xây dựng, quy
định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực xây
dựng.
Thanh tra xây dựng là hoạt động của chủ thể quản lí nhà nước nhằm
kiểm tra xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng. Thanh tra xây dựng thường được thực hiện bởi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
để giúp cho nhà quản lí trong lĩnh vực xây dựng đạt được mục tiêu nhiệm vụ
đã đặt ra.
1.2.2. Đặc điểm của thanh tra xây dựng:
Từ góc độ là hoạt động thanh tra chuyên ngành, thanh tra xây dựng có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra xây dựng gắn liền với hoạt động quản lý

nhà nước về xây dựng
Thanh tra chuyên ngành gắn liền với công tác quản lý nhà nước theo
ngành, lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực khác nhau đòi hỏi phải có tổ chức và hoạt động
thanh tra chuyên ngành phù hợp để bảo đảm được tính linh hoạt, kịp thời
trong phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc chấp hành các quy định về quản lý nhà nước theo lĩnh vực.
Chính vì vậy, nói đến thanh tra xây dựng, trong nhận thức cần hiểu vượt ra
khỏi các quy định của thanh tra chuyên ngành trong Luật Thanh tra hiện nay.
Về bản chất, thanh tra xây dựng là một loại hình hoạt động kiểm tra hành
chính nhưng không chỉ do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện mà các cơ
quan, tổ chức, đơn vị nói chung được trao quyền hành chính trong lĩnh vực
quản lý xây dựng thì đều có thể có hoạt động thanh tra xây dựng. Đây cũng là
điểm khác biệt xuất phát từ sự khác biệt giữa thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành.

16


Thứ hai, hoạt động thanh tra xây dựng là hình thức thực thi quyền lực
nhà nước, liên quan trực tiếp với đối tượng quản lý và gắn liền với tính cưỡng
chế nhà nước
Quyền lực nhà nước được thực hiện có thể liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến đối tượng quản lý. Thực hiện quyền quản lý trong lĩnh vực xây dựng
cũng có nhiều giai đoạn (xây dựng chính sách, pháp luật; tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật: thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; xử lý vi
phạm…) với các mức độ ảnh hướng khác nhau đến đối tượng quản lý. Hoạt
động thanh tra xây dựng là một hình thức thực thi quyền lực nhà nước và trực
tiếp liên quan đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực quản lý
xây dựng. Đồng thời, chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động thanh tra
xây dựng có thể xử phạt vi phạm hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân

có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, tổ chức thanh tra chuyên ngành là một bộ phận không tách rời
của chủ thể có thẩm quyền quản lý theo ngành, lĩnh vực
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm các cơ quan quản lý có
thẩm quyền chung và cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực. Trong đó, tổ chức
có chức năng thanh tra xây dựng là bộ phận không thể tách rời khỏi cơ quan
quản lý theo ngành, lĩnh vực xây dựng. Đây là đặc điểm quan trọng để thiết
lập mô hình tổ chức thanh tra chuyên ngành phù hợp với sự phân công, phân
cấp trong quản lý nhà nước.
- Từ những đặc điểm trên đây có thể hiểu thanh tra xây dựng là thanh
tra chuyên ngành xây dựng thực hiện chức năng nhiệm vụ trong phạm vi quản
lý nhà nước theo lĩnh vực xây dựng: Quy hoạch, xây dựng, đô thị, nhà ở, vật
liệu xây dựng, hạ tầng đô thị, an toàn trong thi công xây dựng…
- Cơ quan thanh tra nhà nước trong lĩnh vựcthanh tra xây dựng được tổ
chức tương ứng với sự phân cấp trong quản lýlĩnh vực xây dựng theo hai cấp
thanh tra bộ xây dựng và thanh tra sở xây dựng.Tuy nhiên hệ thống các cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng bao gồm các cơ quan quản lý
có thẩm quyền chung và cơ quan quản lý theo ngành.Trên thực tế tổ chức

17


thanh tra xây dựng là bộ phận không thể tách rời khỏi cơ quan quản lý theo
lĩnh vực xây dựng. Đây là đặc điểm quan trọng để thiết lập mô hình tổ chức
để thực hiện các hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung và thanh tra xây
dựng nói riêng. Đồng thời, cũng giải thích vì sao tổ chức và hoạt động thanh
tra xây dựng ở các địa phương hiện nay chưa có sự thống nhất và chưa được
thực hiện theo quy định của Luật Thanh tra.
1.3. Phạm vi, nội dung, đối tƣợng thanh tra xây dựng:
1.3.1. Phạm vi thanh tra xây dựng:

Phạm vi thanh tra xây dựng là các hoạt động quản lý nhà nước trong
lĩnh vực chuyên ngành thuộc cơ quan bộ xây dựng, sở xây dựng như : xây
dựng, kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm : Kết cấu hạ
tầng giao thông đô thị, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, chiếu sáng,
công viên cây xanh, nghĩa trang, chất thải rắn trong đô thị, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao), phát triển đô thị, nhà ở và
công sở, kinh doanh bất động sản, vật liệu xây dựng, về các dịch vụ công
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ xây dựng, Sở dựng, thực hiện một
số nhiệm, quyền hạn khác theo phân cấp, uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh
và theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Nội dung thanh tra xây dựng:
Đó là những nội dung mà chủ thể quản lý nhà nước hướng đến nhằm có
thể đánh giá khách quan việc thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hạn của
các cơ quan, tổ chức, cá nhânthuộc phạm vi quản lý nhà nước trong lĩnh vực
ngành xây dựng nội dung thanh tra xây dựng gồm:
Thanh tra hành chính trong lĩnh vực xây dựng: được tiến hành đối
với tổ chức cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan

18


quản lý nhà nước cùng cấp trong việc chấp hành chính sách; pháp luật; nhiệm
vụ được giao trong quản lý xây dựng.
Thanh tra chuyên ngành xây dựng: là cơ quan thanh tra xây dựng có
thẩm quyền tiến hành thanh tra đối với tổ chức cá nhân trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật của nhà nước về hoạt động xây dựng.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng không chỉ thực hiện theo
luật thanh tra mà còn dựa trên nhiều đạo luật chuyên ngành khác như luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012; Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày

10/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi pham hành chính trong hoạt
động xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác, sản xuất, kinh doanh vật
liệu xây dựng, quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, quản lý phát triển nhà và
công sở. Đây cũng là những điểm khác biệt về cả nội dung và đối tượng thanh
tra chuyên ngành so với thanh tra hành chính.
Trong phạm vi nghiên cứu và giới hạn của đề tài, luận văn chủ yếu tập
trong vào vấn đề thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực xây dựng.
1.3.3. Đối tượng thanh tra xây dựng:
-Đối tượng thanh tra hành chính là các cơ quan , tổ chức cá nhân thuộc
phạm vi quản lý nhà nước thuộc cấp bộ xây dựng và cấp sở xây dựng theo
phân cấp hoặc ủy quyền của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Là cơ quan tổ chức cá
nhân Việt Nam và nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ chấp hành các qui định của pháp luật trong
các lĩnh vực xây dựng thuộc phạm vi quản lý của bộ xây dựng và sở xây
dựng.
-Tuy nhiên cũng cần lưu ý trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành xây
dựng, đối tượng thanh tra hành chính còn được điều chỉnh ở Nghị định
26/2013/NĐ-CP về tổ chức hoạt động thanh tra ngành xây dựng đối tượng
thanh tra bao gồm: “Cơ quan, tổ chức cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà
19


nước của Bộ xây dựng và của Sở xây dựng theo ủy quyền hoặc phân cấp của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” do đó so với Luật thanh tra năm 2010 thì đối
tượng có phần rộng hơn .
-Đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành xây dựng có phạm vi
rộng hơn rất nhiều so với thanh tra hành chính bởi vì các cuộc thanh tra trong
lĩnh vực hoạt động xây dựng có liên quan rất nhiều chủ thể nhà thầu, tư vấn
giám sát, chủ đầu tư và rất nhiều tổ chức cá nhân có liên quan khác.
1.4. Tổ chức bộ máy và hoạt động thanh tra xây dựng:

1.4.1. Tổ chức thanh tra xây dựng:
Luật Thanh tra hiện hành không phân định tổ chức cơ quan thanh tra nhà
nước thành lập theo cấp hành chính và tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước
thành lập theo ngành, lĩnh vực mà chỉ quy định về các cơ quan thực hiện chức
năng thanh tra, bao gồm:
- Cơ quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ
quan ngang bộ; Thanh tra tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương; Thanh tra
sở; Thanh tra huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh).
- Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (một
số Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở).
Việc quy định về tổ chức như trên là nhằm nâng cao tính hệ thống của
các cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời xác định rõ đối tượng thanh tra,
phạm vi thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra nhà nước
với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, khắc
phục sự trùng lặp trong hoạt động thanh tra.
Theo quy định của Luật Thanh tra, tổ chức các cơ quan thanh tra nhà
nước được xây dựng phải bảo đảm tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, điều
hành của cơ quan thanh tra cấp trên với cơ quan thanh tra cấp dưới. Các cơ
quan thanh tra phải có tính độc lập, chủ động trong hoạt động thanh tra, nhất
là sự chủ động trong kết luận, kiến nghị và xử lý về thanh tra, đồng thời phải
quy định cho cơ quan thanh tra cấp trên bổ nhiệm, cách chức người đứng đầu
20


cơ quan thanh tra cấp dưới. Tuy nhiên, việc tổ chức các cơ quan thanh tra phải
phù hợp với các quy định của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân. Xuất phát từ lý do đó, Luật Thanh tra năm
2010 đã quy định tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước ngành xây dựng
gồm hai cấp như sau:
Thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về

công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng;
tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của Bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi
thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ.
Phó Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
theo đề nghị của Chánh Thanh tra bộ. Phó Chánh Thanh tra bộ giúp Chánh
Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ;
giúp Chánh Thanh tra bộ phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh Thanh tra bộ về việc thực hiện
nhiệm vụ được giao.
Cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ có các phòng nghiệp vụ để thực hiện
nhiệm vụ được giao. Thanh tra bộ có con dấu và tài khoản riêng.
Về mặt hoạt động, Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và
chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính
phủ.
Thanh tra sở là cơ quan của Sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra sở được thành lập
ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ủy quyền của Ủy
ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.

21


Thanh tra sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra
viên. Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra sở do
Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh
tra sở. Phó Chánh Thanh tra sở giúp Chánh Thanh tra sở thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của Chánh Thanh tra sở; giúp Chánh Thanh tra sở phụ
trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật,
trước Chánh Thanh tra sở trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra
sở có con dấu và tài khoản riêng.
Việc quy định về tổ chức như trên là nhằm nâng cao tính hệ thống của
các cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời xác định rõ đối tượng thanh tra,
phạm vi thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra nhà nước
với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, khắc
phục sự trùng lặp trong hoạt động thanh tra.
-Do đặc thù quản lý trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức có chức năng thanh
tra chuyên ngành xây dựng hiện nay không chỉ có Thanh tra bộ, Thanh tra sở
xây dựng mà một số địa phương có Đội kiểm tra trật tự đô thị, Đội quy tắc đô
thị . Tổ chức đội kiểm tra trật tự đô thịlà cơ quan trực thuộc ủy ban nhân dân
các cấp do ủy ban tỉnh thành lập nhằm giúp ủy ban nhân dân các cấp thực
hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực an toàn giao thông, trật tự
đô thị, vệ sinh môi trường và các nội dung khác theo sự chỉ đạo thuộc thẩm
quyền Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp.
Tổ chức bộ máy của đội kiểm tra trật tự xây dựng gồm có:
- Đội trưởng và 02 đồng chí đội phó. Đội trưởng đội kiểm tra phụ
trách chung, phân công 01 đồng chí, đội phó phụ trách công tác kiểm tra lĩnh
vực xây dựng, một đồng chí phụ trách an toàn giao thông, vệ sinh môi trưởng,
tài nguyên, lòng lề đường, lĩnh vực đất đai..
- Các tổ chuyên môn gồm :
- Tổ kiểm tra hoạt động xây dựng;
- Tổ kiểm tra trật tự giao thông và vệ sinh môi trường;
- Tổ hành chính, quản trị.
22



Biên chế các đội kiểm tra nằm trong biên chế do UBND tỉnh phân bổ
theo chỉ tiêu hàng năm, còn lại được phép hợp đồng một số nhân viên nhằm
đảm bảo nhiệm vụ được giao theo yêu cầu.
1.4.2. Hoạt động thanh tra xây dựng:
Hoạt động thanh tra xây dựng là cách thức thể hiện vị trí, vai trò và chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra xây dựng. Hoạt động thanh tra xây
dựng theo quy định của pháp luật bao gồm: xây dựng chương trình, kế hoạch
thanh tra; quyết định việc thanh tra; tiến hành thanh tra trên thực tế; báo cáo
kết quả thanh tra; kết luận thanh tra và xử lý kết luận thanh tra....
Hoạt động thanh tra xây dựng được tiến hành trên cơ sở hoạt động thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng được thể hiện thông qua chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của theo quy định Nghị định số 26/2013/NĐ-CP
ngày 29/3/2013 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành
xây dựng, thông tư số 06/2014/TTLT-BXD-BNV ngày 14/5/2014 Thông tư
lien tịch của Bộ xây dựng hướng dẫn về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn cơ
cấu tổ chức của thanh tra Sở xây dựng, Quyết định 985/QĐ-BXD ngày
9/10/2013 của Bộ trưởng bộ xây dựng về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Xây dựng.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Bằng phương pháp phân tích, so sánh nhằm làm rõ một số vấn đề về
thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành xây dựng nói riêng, qua đó đã
làm rõ đặc điểm về tổ chức và hoạt động của thanh tra xây dựng.
Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng luôn gắn liền về chủ thể quản
lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng, trên cơ sở các qui định pháp luật nhằm
bảo đảm cho bộ máy thanh tra xây dựng hoạt động hiệu quả.
Hoạt động thanh tra xây dựng là cách thức thể hiện vị trí, vai trò và
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra xây dựng. Hoạt động thanh tra

xây dựng bao gồm: xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra; quyết định
23


×