Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ CHUYỂN dịc cơ cấu KINH tế NÔNG THÔN bắc TRUNG bộ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.5 KB, 204 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Trung Bộ (BTB) là vùng có tài nguyên phong phú, đa dạng,
nhưng sản xuất chủ yếu thuần nông, ngành nghề ngoài nông nghiệp kém phát
triển. Trên thực tế hiện nay BTB vẫn là một vùng nghèo, kinh tế kém phát
triển, bình quân thu nhập đầu người vào loại thấp nhất của cả nước. Trong
những năm đổi mới, cùng với sự thay đổi về kinh tế, cơ cấu kinh tế
(CCKT) nông thôn có chuyển dịch nhưng chậm. Những lợi thế so sánh của
vùng chưa được phát huy, tài nguyên chưa được khai thác đầy đủ và hợp
lý. Tình trạng sản xuất còn phân tán, manh mún. Về phương diện CCKT
trên cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần đều bất cập, nhiều
mặt bất hợp lý. Kinh tế nông thôn BTB chuyển dịch như thế nào, theo
hướng nào trong tương lai là vấn đề đang được nghiên cứu. Cho đến nay việc
nhận thức, đánh giá quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn BTB vẫn còn
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Bởi vậy, chuyển dịch CCKT nông thôn
từ thuần nông sang cơ cấu đa ngành, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế
biến và dịch vụ, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là đòi
hỏi cấp bách.
Xuất phát từ lý do cơ bản trên, để góp phần xây dựng cơ sở lý luận,
thực tiễn cho việc phát triển kinh tế nông thôn BTB, chúng tôi chọn vấn đề
"Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Trung Bộ theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chuyển dịch CCKT quốc dân nói chung và chuyển dịch
CCKT nông thôn nói riêng cho tới nay đã có nhiều đề tài khoa học cấp nhà



6

nước, cấp bộ, các hội thảo khoa học, các bài báo trong nước và trên thế giới
đề cập. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã tập trung luận giải những
vấn đề sau:
- Cơ sở lý luận của chuyển dịch CCKT nói chung và chuyển dịch
CCKT nông thôn nói riêng. Sự cần thiết phải chuyển dịch CCKT nông thôn
theo hướng CNH, HĐH.
- Thực tiễn chuyển dịch CCKT nông thôn cả nước, từng vùng, từng
địa phương như chuyển dịch CCKT nông thôn miền núi phía Bắc, đồng
bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, các tỉnh Đồng Nai, Thanh Hóa,
Yên Bái...
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng BTB.
- Dự án quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn BTB (19982000).
- Định hướng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
vùng BTB.
- Phát triển kinh tế vùng gò đồi BTB.
- Những biện pháp tổ chức, quản lý nhằm phát triển kinh tế, chuyển
dịch CCKT nông thôn miền Trung.
- Hệ thống chính sách tác động thúc đẩy quá trình CCKT nông thôn
hiện nay.
Mặc dầu các công trình nghiên cứu đã đề cập khá toàn diện vấn đề
chuyển dịch CCKT nông thôn, tuy vậy chuyển dịch CCKT nông thôn BTB
chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống với tư cách là luận án tiến sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ đề tài


7

Luận án nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của chuyển

dịch CCKT nông thôn BTB. Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh
chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Để đạt được mục đích trên luận án có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chuyển dịch CCKT nông thôn: Khái niệm,
nội dung, xu hướng, những nhân tố ảnh hưởng, sự cần thiết chuyển dịch
CCKT nông thôn.
- Phân tích có căn cứ khoa học thực tiễn sự cần thiết phải chuyển
dịch CCKT nông thôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT nông thôn BTB
trong những năm đổi mới, nguyên nhân và những vấn đề mới đặt ra.
- Xây dựng phương hướng, giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn BTB trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn
BTB, trọng tâm nghiên cứu sự chuyển dịch CCKT ngành, CCKT vùng, cơ
cấu thành phần kinh tế và mối quan hệ của chúng trong quá trình vận động
phát triển.
- Phạm vi nghiên cứu: Khu vực BTB bao gồm 6 tỉnh từ Thanh Hóa
đến Thừa Thiên - Huế; trong khoảng thời gian từ 1986 đến nay, đặc biệt là
sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988).
- Đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị nên luận án chủ yếu tập
trung nghiên cứu những quan điểm, phương hướng, giải pháp mang tính vĩ
mô.
5. Phương pháp nghiên cứu


8

- Nắm vững những quan điểm cơ bản của kinh tế chính trị MácLênin, đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về nông nghiệp
nông thôn trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.

- Sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp tiếp cận hệ thống, thống kê
kinh tế, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn chuyển
dịch CCKT nông thôn, góp phần làm rõ sự cần thiết chuyển dịch CCKT
nông thôn BTB.
- Nêu bật những đặc điểm có tính đặc thù về tự nhiên, kinh tế, xã
hội BTB có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp phù hợp và có tính
khả thi để thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông thôn BTB theo hướng CNH,
HĐH.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


9

Chương 1
CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN VÀ SỰ CẦN THIẾT
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG THÔN

1.1.1. Cơ cấu kinh tế và những nội dung chủ yếu của cơ cấu
kinh tế nông thôn
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế

Thuật ngữ CCKT xét về quan niệm có thể đã có nhiều cách hiểu
khác nhau, nhưng dù hiểu như thế nào thì ý niệm về CCKT cũng bắt đầu từ
khái niệm "cơ cấu". Xét về mặt từ vựng "cơ cấu" là một từ ghép đơn, "cơ"
là mối quan hệ hữu cơ; "cấu" là cấu trúc. Khái niệm này lúc đầu dùng để
chỉ cách tổ chức điều chỉnh các tế bào thực, động vật. Sau đó được sử dụng
cho nhiều ngành khoa học, trong đó có các ngành kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân. Là phạm trù triết học, khái niệm "cơ cấu" được dùng để biểu thị
cấu trúc bên trong, tỉ lệ các mối quan hệ hợp thành hệ thống. Cơ cấu được
biểu hiện như là một tập hợp mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố khác nhau
của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là một thuộc tính của hệ thống, do đó
khi nghiên cứu CCKT phải coi cơ cấu như một đối tượng, mà đối tượng đó
tồn tại, vận động và phát triển như một hệ thống. Nằm trong hệ thống, khái
niệm CCKT từ trước đến nay có nhiều cách luận giải khác nhau.
Các Mác nói rằng:
Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con người
có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn


10

của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp
với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật
chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy cũng hợp thành
CCKT của xã hội [14].
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin viết: "CCKT quốc dân
là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế. Trong hệ
thống các cơ cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất" [38].
Nhìn chung, các ý kiến trên đều tập trung phân tích bản chất CCKT
trên các cách nhìn khác nhau:
Một là, coi CCKT là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong hệ

thống. Các quan hệ này không phải là quan hệ riêng lẻ mà là quan hệ tổng
thể hữu cơ. Các quan hệ đó không phải là quan hệ tỷ lệ về lượng mà là
quan hệ về chất lượng, quan hệ về cấu trúc bên trong.
Hai là, CCKT bao gồm các bộ phận cấu thành nền kinh tế, các nhóm
ngành, các khu vực, các thành phần, nằm trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Ba là, CCKT tồn tại các quan hệ tỷ lệ về lượng, tỷ trọng các yếu tố
cấu thành nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ.
Bốn là, CCKT biểu hiện trong những điều kiện không gian, thời
gian, về tự nhiên, kinh tế, xã hội nhất định.
Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể hiểu CCKT theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, CCKT là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất của nền sản xuất xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất
định. Theo nghĩa hẹp, CCKT gắn với hình thái kinh tế xã hội nhất định, bao
gồm các bộ phận cơ bản hợp thành. CCKT kỹ thuật gồm cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động. CCKT xã hội gồm cơ cấu thành
phần, cơ cấu vùng.


11

Để hiểu CCKT của một đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất
định không thể tách rời yếu tố vật chất và yếu tố xã hội. Vì vậy đa số ý kiến
đều nhất trí rằng CCKT của một nước, một quốc gia là tổng thể các mối
quan hệ kinh tế hay bộ phận hợp thành nền kinh tế với vị trí, trình độ công
nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng giữa các bộ phận gắn với điều kiện kinh
tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trên cơ sở đó có thể xác định khái niệm CCKT như sau: Cơ cấu
kinh tế là một phạm trù kinh tế thể hiện các mối quan hệ giữa các bộ phận
cấu thành nền kinh tế quốc dân. Nói đến cơ cấu kinh tế là nói đến mối
quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Mối quan

hệ này phản ánh cả về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố hợp thành.
CCKT là một khái niệm rộng, phức tạp. Việc xác định đúng khái
niệm CCKT góp phần làm rõ nội dung CCKT và phương hướng chuyển
dịch CCKT. Ở Việt Nam chúng ta trong quá trình nhận thức lý luận CCKT
cũng không giống nhau. Do cách tiếp cận, mục đích, đối tượng nghiên cứu
khác nhau mà hiểu CCKT khác nhau. Đã đến lúc cần thống nhất nhận thức
khái niệm CCKT từ đó góp phần giải quyết những vấn đề cụ thể có liên
quan đến CCKT mà thực tế đang đặt ra.
Nền kinh tế quốc dân là một tổng thể phức tạp gồm đa ngành, đa
nghề, đa lĩnh vực, đa thành phần. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi thành phần
lại có cơ cấu riêng. CCKT có phạm vi rộng hẹp khác nhau, có CCKT thống
nhất cả nước, có CCKT ở từng vùng, từng tỉnh. Có CCKT trên địa bàn
nông thôn, có CCKT trong từng ngành... Việc nghiên cứu CCKT phải gắn
với điều kiện không gian, thời gian cụ thể mới có thể xác định được một
cách khoa học CCKT đang tồn tại, đang vận động và xu hướng của nó.
Dưới góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nước, người ta đã phân
chia thành kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị. Sự phân biệt kinh tế nông


12

thôn và kinh tế thành thị dựa trên cơ sở địa lý, trình độ lực lượng sản xuất,
phân công lao động. Xét về mặt CCKT giữa nông thôn và thành thị có sự
khác nhau. Đã nhiều năm nay việc nghiên cứu CCKT nông thôn tách ra
khỏi CCKT quốc dân được đặt ra và có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
đến nội dung này.
1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông thôn
Nông thôn là khu vực bao gồm một không gian rộng lớn, ở đó một
cộng đồng dân cư sinh sống và hoạt động kinh tế chủ yếu sản xuất nông
nghiệp (nông nghiệp theo nghĩa rộng).

Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế nông thôn
(KTNT) dù cách hiểu nào KTNT vẫn là tổng thể các hoạt động kinh tế diễn
ra trên địa bàn nông thôn, có quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp [56].
Kinh tế nông thôn là tổng thể các mối quan hệ kinh tế, xã hội diễn
ra trên địa bàn nông thôn, bao gồm nông, công nghiệp và dịch vụ. KTNT là
một trong hai khu vực kinh tế đặc trưng của nền kinh tế quốc dân: Kinh tế
nông thôn và kinh tế thành thị.
Thật khó có thể phân biệt rạch ròi giữa KTNT và kinh tế thành thị
trong điều kiện hiện nay. Trong lịch sử, có thời kỳ người ta đồng nhất
KTNT với kinh tế nông nghiệp, kinh tế thành thị với kinh tế công nghiệp.
Ngày nay nhận thức đó không còn phù hợp nữa. Nội dung KTNT rộng hơn
kinh tế nông nghiệp. KTNT hiện nay không chỉ đơn thuần nông nghiệp,
hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp đã phát với những biến đổi quan trọng
trong sự phân công lao động xã hội và phân công trong nội bộ ngành nông
nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn. Lực lượng sản xuất đã được xã hội hóa
dẫn đến sự thâm nhập đan xen giữa nông thôn và thành thị. Mặc dầu KTNT
và kinh tế thành thị rất khó phân biệt rạch ròi, nhưng không phải vì thế mà
chúng ta đồng nhất KTNT và kinh tế thành thị. Cần phải nhận thức rằng
KTNT có những đặc điểm không giống kinh tế thành thị:


13

Một là: KTNT trước hết bao trùm vẫn là nông, lâm, ngư nghiệp.
Bởi lẽ dù có phát triển đến đâu nông thôn vẫn là nơi sản xuất ra các sản
phẩm về lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến, lao động cho các ngành công nghiệp ở thành thị.
Hai là: KTNT gắn bó chặt chẽ với điều kiện tự nhiên môi trường
sinh thái. Trong chừng mực nào đó có thể gọi KTNT là kinh tế sinh thái,
kinh tế lãnh thổ. Đối tượng cơ bản của hoạt động kinh tế ở nông thôn là cây

trồng, vật nuôi, đất đai, khí hậu, nguồn nước, các sản phẩm nông nghiệp
gắn với môi trường tự nhiên.
Ba là: KTNT rất ít thay đổi, dù có sự thay đổi nào đó vẫn nằm
trong khuôn khổ của tự nhiên, lịch sử, truyền thống. Nói cách khác, KTNT
mang tính bền vững cao.
KTNT là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông, lâm, ngư nghiệp, cùng với các
ngành thủ công nghiệp truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp
chế biến và các ngành thương nghiệp, dịch vụ. Tất cả có quan hệ hữu cơ
với nhau trong kinh tế vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân [38].
Về CCKT nông thôn cũng có những quan niệm chưa thống nhất.
Theo GS.TS Đỗ Thế Tùng: "Cơ cấu kinh tế nông thôn là tương quan các
loại lao động cụ thể được tách riêng ra do quá trình phân công lao động xã
hội phát triển ngày càng sâu rộng diễn ra ở nông thôn" [90].
PGS.TS Lê Đình Thắng khẳng định:
CCKT nông thôn, có thể được hiểu một cách đầy đủ là
một tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn,
nó có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất
định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ về chất; Chúng tác động


14

qua lại lẫn nhau trong những không gian và thời gian nhất định,
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nhất định, tạo thành một hệ
thống kinh tế nông thôn - một bộ phận hợp thành không thể tách
rời của hệ thống nền kinh tế quốc dân [95].
Trên cơ sở kế thừa các ý kiến trên, chúng tôi nêu khái niệm CCKT
nông thôn như sau:

Cơ cấu kinh tế nông thôn là tổng thể các mối quan hệ kinh tế hợp
thành kinh tế nông thôn. Các bộ phận đó có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau theo những tỷ lệ nhất định về số lượng và gắn bó
với nhau về chất lượng trong điều kiện không gian và thời gian nhất định,
phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội nông thôn.
Sự hình thành và vận động của CCKT nông thôn dựa trên đặc điểm
tự nhiên, kinh tế, xã hội nông thôn. Trong CCKT nông thôn, kinh tế nông
nghiệp giữ vị trí quan trọng. Bởi vì nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản ở
nông thôn. Vì vậy khi nghiên cứu CCKT nông thôn phải chú ý nông
nghiệp, phải xuất phát từ nông nghiệp để nghiên cứu KTNT.
1.1.1.3. Những nội dung chủ yếu của CCKT nông thôn
Kinh tế nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, đa dạng, bao gồm nhiều bộ
phận hợp thành hệ thống, tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ. Cũng như
CCKT nói chung, CCKT nông thôn mang tính lịch sử và xã hội nhất định;
là tổng thể các mối quan hệ được xác định theo những tỷ lệ nhất định về
mặt lượng, trong không gian và thời gian nhất định. CCKT nông thôn bao
gồm những nội dung chủ yếu sau đây.
Cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu ngành được hình thành trên cơ sở phân công lao động theo
ngành, là kết quả của sự phân công lao động xã hội. CCKT ngành là tổ hợp
các ngành hợp thành, là các nhân tố tạo thành ngành kinh tế, là quan hệ hữu


15

cơ giữa các nhân tố tạo thành ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành đó.
Về mặt số lượng cơ cấu ngành biểu hiện quan hệ tỷ lệ giá trị, tỷ trọng
ngành đó với ngành khác ở trong nền kinh tế quốc dân. Mác nói: "Trong sự
phân công lao động xã hội thì con số tỉ lệ là một sự tất yếu không sao tránh
khỏi, một sự tất yếu thầm kín yên lặng" [15]. Quan hệ tỷ lệ, tỷ trọng về mặt

giá trị của một ngành nào đó trong cơ cấu ngành luôn luôn có sự thay đổi,
chuyển dịch chứ không cố định. Về mặt chất lượng, cơ cấu ngành biểu hiện
sự tác động qua lại bên trong giữa các ngành với nhau. Quan hệ này hoặc là
thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự phát triển của các ngành với nhau. Trong
CCKT quốc dân, cơ cấu ngành là quan trọng nhất [92].
Cơ cấu ngành trong CCKT nông thôn gồm:
- Nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp.
- Nhóm ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
- Nhóm ngành dịch vụ.
Trong từng nhóm ngành lại có sự phân chia, nhóm ngành nônglâm-ngư nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi. Nhóm ngành công nghiệp
bao gồm công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xây
dựng. Nhóm ngành dịch vụ, bao gồm dịch vụ sản xuất, dịch vụ tiêu dùng...
Cơ sở để phân chia ngành trong CCKT nông thôn là phân công lao
động. Điều kiện để hình thành các ngành nghề ở nông thôn phụ thuộc vào
đặc điểm tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và truyền thống địa phương. Phân công
lao động được thực hiện trên cơ sở tăng năng suất lao động nông nghiệp.
Trước hết tăng năng suất lao động trong khu vực sản xuất lương thực. Ở
nước ta, trong một thời gian dài, do không tự túc được lương thực cho nên
không tiến hành phân công được lao động hợp lý. Từ năm 1988 đến nay,
nhờ giải quyết được vấn đề lương thực cho nên ngành nghề ở nông thôn
mới có điều kiện để khôi phục trở lại.


16

Về nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp, đây
là ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp gắn liền
với điều kiện tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp có đối tượng là những cơ thể
sinh vật sống tồn tại gắn với môi trường tự nhiên. Kinh tế nông nghiệp luôn

bị quy luật tự nhiên chi phối. Sự tác động của con người chỉ có ý nghĩa khi
nó phù hợp với quy luật tự nhiên,qui luật sinh học và biết lợi dụng tối đa
qui luật đó.
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi. Trồng
trọt ra đời trước chăn nuôi. Ở nước ta nghề trồng lúa nước gắn liền với quá
trình khai sơn lập địa. Trong trồng trọt, bên cạnh trồng cây lương thực, còn
có các loại cây công nghiệp, cây ăn trái, cây rau đậu, cây cảnh... Trồng trọt
cung cấp cho xã hội lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công
nghiệp. Chưa có một công nghệ nào có thể thay thế có hiệu quả các sản
phẩm trồng trọt tạo ra. Quá trình CNH, HĐH các nước đều coi trọng nền
nông nghiệp hữu cơ. Các nhà khoa học kêu gọi loài người hãy trở về với
các sản phẩm do trồng trọt mang lại.
Bên cạnh trồng trọt và gắn với trồng trọt là chăn nuôi. Chăn nuôi ở
nước ta trở thành một nghề từ lâu đời. Chăn nuôi cung cấp thực phẩm cho
con người, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sức kéo, phân bón cho
sản xuất. Ngoài việc chăn nuôi gia súc, gia cầm còn nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm gần đây ở nước ta, mặc dầu chăn nuôi có bước phát triển
nhưng về cơ bản vẫn còn mang nặng tính tự cung, tự cấp. Chăn nuôi quy
mô hộ gia đình là chủ yếu. Chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa quy
mô lớn chưa phát triển.
Trồng trọt và chăn nuôi có mối quan hệ với nhau và hợp thành cơ
cấu ngành nông nghiệp. Trong CCKT nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi
là hai ngành chính. Hai ngành này cần phải tác động lẫn nhau tạo tiền đề


17

điều kiện cho nhau phát triển một cách cân đối, mới có thể đạt kết quả kinh
tế cao.
Lâm nghiệp là ngành có quan hệ gắn bó với nông nghiệp, quan hệ

hợp lý giữa nông nghiệp và lâm nghiệp là yêu cầu khách quan của sự phát
triển KTNT. BTB nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,có nguồn
tài nguyên rừng đa dạng, phong phú. Rừng là nguồn lợi to lớn không chỉ về
kinh tế mà còn đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn, hạn chế lũ lụt,hạn chế sự
xói mòn đất đai. Ngoài ra rừng còn là lá phổi của nhân loại dưỡng bệnh
nghỉ ngơi và du lịch. Ngành lâm nghiệp bao gồm nuôi trồng, khai thác. Ở
BTB hiện nay cần coi trọng việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc và khắc
phục nạn phá rừng làm nương rẫy.
Thủy sản được coi là ngành mũi nhọn trong CCKT nông thôn BTB.
Ngành thủy sản bao gồm nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Đầu tư phát
triển ngành thủy sản là một hướng đi đúng và lâu dài của BTB. Điều đó
phù
hợp với lợi thế so sánh của BTB,và xu hướng CNH hướng về xuất khẩu
của Việt Nam.
Về nhóm ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Công nghiệp nông thôn là một khái niệm đang có nhiều ý kiến khác
nhau. Cho đến nay ở Việt Nam các nhà khoa học ở trong và ngoài ngành
công nghiệp vẫn chưa thống nhất khái niệm công nghiệp nông thôn.
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, công nghiệp nông thôn phục vụ
trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, hoạt động trên địa bàn nông thôn, bao
gồm toàn bộ hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Tức là bao gồm cả
xây dựng, thương nghiệp và các hoạt động dịch vụ khác.
- Loại ý kiến khác cho rằng, công nghiệp nông thôn không phải là
toàn bộ hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong hoạt động tiểu thủ


18

công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và
dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên

nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp, quy mô vừa và nhỏ hoạt động của nó trực
tiếp gắn với KTNT.
Trên cơ sở các quan niệm đó theo chúng tôi công nghiệp nông thôn
có đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là: Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả
nước với các trình độ phát triển khác nhau được phân bố ở nông thôn.
Hai là: Công nghiệp nông thôn trước hết phải gắn với sản xuất
nông nghiệp, phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.
Ba là: Công nghiệp nông thôn là công nghiệp xây dựng ở nông
thôn,với quy mô vừa và nhỏ; không bao hàm các xí nghiệp, nhà máy lớn;
có tính chất xí nghiệp gia đình, xí nghiệp làng xóm hoặc xí nghiệp thị trấn.
Như vậy, công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp
với các trình độ phát triển khác nhau, được phân bổ ở nông thôn gắn liền
với hoạt động sản xuất nông nghiệp và KTNT.
Công nghiệp nông thôn rất đa dạng, bao gồm nhiều nghề được phân
bổ trên địa bàn nông thôn, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất đời sống của
dân cư nông thôn, đồng thời đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất
khẩu. Công nghiệp nông thôn bao gồm:
- Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản thành phẩm và bán
thành phẩm.
- Công nghiệp sản xuất các loại tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng
phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt ở nông thôn.
- Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như vôi, gạch, đá xây
dựng...


19

- Nghề thủ công, truyền thống như dệt, may, len, gốm, sơn mài, đồ
gỗ, mây tre đan, thảm đay, chiếu cói...

Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước,
được hình thành trên cơ sở tách ra từ nông nghiệp, quan hệ chặt chẽ với
công nghiệp thành thị. Ở các nước phát triển, công nghiệp nông thôn trở
thành hệ thống gia công cho công nghiệp lớn. Nước ta, công nghiệp nông
thôn tồn tại dưới nhiều hình thức như các làng nghề, hộ nghề, các HTX
nghề, quy mô nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ thấp kém. Phát triển công
nghiệp nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng, nằm trong tiến trình
CNH, HĐH nông thôn nông thôn.
Nhóm ngành dịch vụ.
Dịch vụ nông thôn theo quan điểm hệ thống là một bộ phận của hệ
thống dịch vụ cả nước. Dịch vụ nông thôn ra đời và phát triển gắn liền với
nông nghiệp và công nghiệp nông thôn. Sự ra đời của dịch vụ nông thôn
bắt nguồn tự sự phân công lao động ở nông thôn mà trước hết trong ngành
nông nghiệp. Trước khi có sản xuất hàng hóa, dịch vụ là một bộ phận
không tách rời sản xuất nông nghiệp và sản xuất công nghiệp. Nông dân
vừa sản xuất, vừa làm thêm cả hoạt động dịch vụ. Khi sản xuất phát triển,
năng suất lao động tăng lên, bộ phận lao động từ trồng trọt, chăn nuôi đã
tách ra làm dịch vụ thương mại đầu vào, đầu ra. Dần dần dịch vụ trở thành
một ngành ở nông thôn [94].
Sự ra đời của dịch vụ là đòi hỏi khách quan của sản xuất và đời
sống. Nhờ có dịch vụ mà hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư tiếp cận được
với các nguồn lực. Ví dụ dịch vụ cung ứng nguyên liệu, thông tin, vốn, tiêu
thụ sản phẩm... Nhờ có dịch vụ mà các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được đáp ứng. Dịch vụ nối liền sản xuất với sản xuất và
sản xuất với tiêu dùng. Sự phát triển của dịch vụ nông thôn làm cho hoạt


20

động KTNT trở nên phong phú, đa dạng, thúc đẩy các ngành kinh tế khác

phát triển.
Dịch vụ nông thôn bao gồm:
- Dịch vụ mua bán hàng hóa, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm.
- Dịch vụ kinh tế tài chính tín dụng, ngân hàng.
- Dịch vụ kỹ thuật thông tin, cơ điện, thú y, giống.
- Dịch vụ phục vụ sinh hoạt điện nước, vệ sinh, văn hóa, pháp luật...
- Dịch vụ giao thông vận tải, thủy lợi, bảo vệ thực vật.
Trong những năm qua hoạt động dịch vụ nông thôn sôi động, phong
phú, bước đầu thích nghi với cơ chế thị trường. Nhiều loại dịch vụ như
giống cây trồng vật nuôi, bảo vệ thực vật, động vật nuôi, dịch vụ cung ứng
đầu vào vào cho sản xuất và giới thiệu tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động dịch
vụ đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống của nông dân.
Khi nền sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp sang sản xuất xuất hàng
hóa, tỷ trọng dịch vụ ngày càng tăng lên trong CCKT nông thôn. Vấn đề
còn lại là phải tổ chức hoạt động dịch vụ sao cho có hiệu quả, góp phần
thúc đẩy KTNT vận động và phát triển. Trước đây ta quan niệm nông thôn
là nông nghiệp và KTNT là kinh tế nông nghiệp. Ngày nay, KTNT không
đơn thuần nông nghiệp mà phát triển cả công nghiệp và dịch vụ. Việc
chuyển dịch CCKT theo hướng xác lập quan hệ cân đối và gắn bó giữa
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ là vấn đề cần thiết cấp bách [27].
Cơ cấu kinh tế vùng
Mỗi quốc gia là sự hợp thành giữa các lãnh thổ địa phương khác
nhau, còn mỗi nền kinh tế cũng hợp thành bởi các ngành, các lĩnh vực và
vùng kinh tế... tương đồng theo cấp độ bộ phận hợp thành. Vùng kinh tế và


21

lãnh thổ địa phương có chung các đặc điểm và tính chất của tiểu hệ thống
trong hệ thống qui mô cả nước.

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của các vùng kinh tế,từ
những năm đầu của chính quyền Xô-viết, Lê-nin và sau đó là các nhà khoa
học Liên Xô cũ đã đưa ý tưởng về vùng kinh tế lãnh thổ. Trong tác phẩm
"sự phát triển của CNTB ở Nga" Lê-nin đã đưa ra khái niệm về vùng kinh
tế đặc trưng"vùng ngũ cốc thương phẩm" "vùng chăn nuôi thương phẩm"...
Sự phân chia của Lê-nin không giới hạn ở khuôn khổ phân chia địa giới
hành chính. Chung quy lại về nguyên tắc Lê-nin đã dựa trên cơ sở kinh tế,
không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Ở phương Tây, sự phát triển của nền kinh tế TBCN dựa vào cơ chế
thị trường, vai trò của chính phủ không chỉ thể hiện trên phương diện điều
chỉnh kinh tế qua các chính sách, mà còn công cụ và biện pháp trực tiếp
phát triển vùng kinh tế. Nhìn chung việc đề ra chính sách kinh tế vùng là
một trong những chính sách ưu tiên của chính phủ nhằm định hướng đầu tư
thông qua chính sách hỗ trợ.
Kinh tế vùng là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân. Sự
phát triển có hiệu quả kinh tế vùng sẽ tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng
kinh tế không chỉ riêng trong vùng mà còn tác động qua lại trên toàn bộ
nền kinh tế quốc dân [96].
CCKT vùng là mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các thành phần
kinh tế trên phạm vi lãnh thổ.
Đặc điểm của CCKT vùng là:
Thứ nhất: CCKT vùng gắn với điều kiện tự nhiên, địa lý và một
không gian lãnh thổ nhất định. Trong một vùng thường có những đặc điểm
về tự nhiên tương đồng, và một không gian thống nhất.


22

Thứ hai: Cơ cấu vùng là sự thể hiện của cơ cấu ngành về mặt không
gian, vị trí địa lý được bố trí phù hợp với sự phân công và chuyên môn hóa

trong nền kinh tế, tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng.
Thứ ba: Cơ cấu vùng không tách rời cơ cấu ngành của cả nước và
cơ cấu các vùng khác, sự khác nhau giữa các vùng kinh tế chủ yếu là những
hoạt động kinh tế đặc thù nhất định của vùng, làm cho mỗi vùng không
đồng nhất với các vùng khác.
Sự hình thành CCKT của mỗi vùng thường chịu ảnh hưởng khả
năng điều kiện riêng của từng vùng, đặc biệt điều kiện tự nhiên, yêu cầu
của thị trường bao gồm thị trường địa phương cả nước và quốc tế, sự tác
động của KHCN.
Cơ cấu vùng lãnh thổ hình thành nhằm phát huy những lợi thế của
từng vùng. Mỗi vùng có những đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, xã hội
nhất định. Những đặc điểm đó bao hàm cả những lợi thế và những trở ngại.
Một CCKT hợp lý phát huy được các lợi thế, hạn chế được những khó
khăn. Chính vì vậy trong từng vùng cần kết hợp giữa chuyên môn hóa và
tập trung hóa, chuyên môn hóa để phát huy hiệu quả kinh tế các lợi thế so
sánh, đồng thời tập trung hóa để hình thành những vùng sản xuất hàng hóa
quy mô lớn.
Kinh tế nông thôn khi chuyển sang kinh tế hàng hóa phải hình
thành các vùng và tiểu vùng. Mỗi vùng hoặc tiểu vùng có thể chuyên môn
hóa, hoặc kinh doanh tổng hợp. Khi hình thành quy hoạch vùng, nếu đứng
trên quan điểm kinh tế xã hội chia thành vùng đồng bằng, trung du, vùng
núi, vùng ven biển. Nếu đứng trên quan điểm về kinh tế kỹ thuật chia thành
vùng cây công nghiệp, vùng lúa, vùng nuôi trồng đánh bắt thủy sản... Nếu
xét về vai trò kinh tế có thể chia thành vùng trọng điểm hay không trọng
điểm [108].


23

Việc quy hoạch vùng kinh tế phải dựa trên cơ sở khoa học có tính

toán khá thận trọng, dù sao nằm trong một vùng kinh tế phải có những nét
tương đồng về tự nhiên, địa lý, kinh tế, xã hội.
Mục tiêu của việc quy hoạch vùng để khai thác lợi thế, nâng cao
hiệu quả đầu tư. Trong điều kiện nguồn lực còn có hạn, việc quy hoạch
vùng lãnh thổ còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định hệ thống
chính sách vĩ mô phù hợp nhằm tác động kích thích tăng trưởng và phát
triển kinh tế đất nước [37].
Cơ cấu thành phần kinh tế.
Tham gia vào hoạt động KTNT bao gồm nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Toàn bộ các thành phần kinh tế
kể trên hợp thành cơ cấu thành phần kinh tế [29].
Cơ cấu thành phần kinh tế nông thôn là mối quan hệ giữa các
thành phần kinh tế tồn tại ở nông thôn, dựa trên những quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất và trình độ phát triển khác nhau của lực
lượng sản xuất.
CCKT nông thôn là một cơ cấu nhiều thành phần tồn tại vừa hợp
tác vừa cạnh tranh. Cơ cấu thành phần kinh tế là cơ cấu xã hội của sản xuất,
gắn với quan hệ sản xuất ở nông thôn. Nếu cơ cấu ngành, cơ cấu vùng dựa
trên cơ sở phân công lao động theo ngành và theo lãnh thổ thì cơ cấu thành
phần dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải là một cơ cấu phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu thành phần kinh tế tồn tại trong
không gian và thời gian nhất định, không phải xếp bên cạnh nhau mà là
quan hệ chặt chẽ với nhau.


24

Nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu thành phần thì KTNT có bấy

nhiêu thành phần. Tuy nhiên sự biểu hiện của các thành phần KTNT có
những đặc điểm riêng.
Kinh tế nông thôn không thể không có thành phần kinh tế nhà nước,
kinh tế nhà nước ở nông thôn được biểu hiện tập trung ở các hình thức Doanh
nghiệp nhà nước (nông, lâm trường, trạm trại), ngân hàng, tín dụng, các cơ
sở nghiên cứu khoa học, cơ sở hạ tầng. Kinh tế nhà nước ở nông thôn giữ
vai trò chủ đạo cả về mặt sản xuất và lưu thông phân phối. Vai trò của Nhà
nước, mặt quan trọng nhất được thể hiện thông qua vai trò kinh tế nhà
nước.
Kinh tế hợp tác đa dạng, trong đó nòng cốt là các Hợp tác xã. Các
hình thức kinh tế hợp tác sẽ phát triển từ thấp đến cao. Hình thức tiêu biểu
nhất là các HTX kiểu mới, sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề, tập hợp
liên kết các hộ sản xuất lại với nhau cùng giải quyết những yêu cầu của sản
xuất. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác hợp thành nền tảng của
KTNT theo định hướng XHCN.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ là hình thức kinh tế thích hợp và năng
động nhất ở nông thôn tồn tại dưới hình thức tổ chức kinh tế như kinh tế
hộ, kinh tế trang trại. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vai trò, vị trí trong sản xuất
nông nghiệp nông thôn. Xu hướng vận động tích cực là từng bước phát
triển theo con đường hợp tác tự nguyện.
Kinh tế tư bản nhà nước tồn tại dưới các hình thức liên doanh giữa
kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong và ngoài nước, các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài vào sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Kinh tế tư bản nhà
nước xuất hiện ở nông thôn chưa đáng kể, tập trung ở vùng có sản xuất
hàng hóa phát triển, ở những ngành chế biến, cơ sở hạ tầng giao thông thủy
lợi. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc phát triển


25


KTNT theo hướng CNH, HĐH đồng thời còn có những hạn chế đòi hỏi
phải được nhận biết để khắc phục.
Kinh tế tư bản tư nhân có thể phát triển rộng rãi không hạn chế về
quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh có lợi
cho quốc kế dân sinh. Trong công nghiệp, dịch vụ, tín dụng, thương mại
ở nông thôn, kinh tế tư bản tư nhân có điều kiện để phát triển mạnh mẽ
hơn. Nhưng để KTNT phát triển theo định hướng XHCN cần tăng cường
sự quản lý của nhà nước, từng bước dẫn dắt kinh tế tư bản tư nhân đi vào
CNTB nhà nước.
Ở nông thôn cơ cấu thành phần kinh tế tồn tại đan xen, mỗi thành
phần vừa độc lập vừa quan hệ hợp tác. Trong mỗi hình thức tổ chức kinh tế
có thể có nhiều hình thức sản xuất, nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Tóm lại, CCKT nông thôn là tổng thể mối quan hệ CCKT ngành,
CCKT vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong đó CCKT ngành có vai
trò quan trọng và giữ vị trí trung tâm.
CCKT ngành và cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được bố trí
trên không gian lãnh thổ của đất nước. Việc phân bổ không gian lãnh thổ
một cách hợp lý có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế ngành và thành phần
kinh tế trên lãnh thổ.
1.1.2. Sự cần thiết, những nhân tố ảnh hưởng và xu hướng
chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng CNH, HĐH
1.1.2.1. Sự cần thiết chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng
CNH, HĐH
Chuyển dịch CCKT nhằm biến đổi CCKT sao cho phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới
cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Đó là quá trình thay đổi, điều
chỉnh các yếu tố trong cấu trúc kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện khách


26


quan của nền kinh tế, nhằm phát triển kinh tế đạt trình độ tăng trưởng
nhanh, hiệu quả và phát triển bền vững.
Chuyển dịch CCKT nông thôn là sự thay đổi cấu trúc KTNT dựa
trên sự biến đổi cơ cấu của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Sự
biến đổi này được quy định bởi sự thúc đẩy của lực lượng sản xuất làm cho
tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành CCKT không đồng đều hoặc
trình độ hiệu quả đạt được còn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Với
cách hiểu như vậy có thể nêu khái niệm chuyển dịch CCKT như sau:
Chuyển dịch CCKT là quá trình làm biến đổi các yếu tố trong cấu
trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo một chủ
đích và phương hướng xác định.
Chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng CNH, HĐH là quá trình
tăng dần các hoạt động công nghiệp, dịch vụ; là quá trình thay đổi phương
pháp, công cụ và công nghệ sản xuất chủ yếu còn thủ công, tập quán sống
lạc hậu cổ truyền ở nông thôn bằng các phương pháp công cụ, công nghệ
sản xuất tiên tiến, hiện đại đạt hiệu quả cao; trong đó thủy lợi hóa, cơ khí
hóa, điện khí hóa, sinh học hóa là những nội dung then chốt nhất và tập
quán sống văn minh, lành mạnh của nền văn minh công nghiệp mang đậm
bản sắc dân tộc [81].
Như vậy để chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng CNH, HĐH
phải từng bước hình thành CCKT nông - công nghiệp - dịch vụ theo hướng
sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế cao, trên cơ sở
áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và
trang bị công cụ, thiết bị tiên tiến. Về thể chế phải thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, mọi thành phần kinh tế đều được phát
huy thế mạnh của mình, tạo sự hợp tác hỗ trợ nhau cùng phát triển. Về mặt
xã hội phải là quá trình xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, bảo
đảm được sự công bằng, dân chủ, và tiến bộ xã hội [7].



27

Chuyển dịch CCKT nông thôn là một quá trình lâu dài, được bắt
đầu từ nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa giản đơn và phát huy mạnh mẽ
trong thời kỳ CNH và đô thị hóa. Quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn
chịu sự tác động của nhiều nhân tố vừa khách quan vừa chủ quan.
Nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của chuyển dịch
CCKT nông thôn theo hướng CNH, HĐH không phải mới được đề xuất
trong những năm gần đây, mà đã được nêu ra ngay sau khi đất nước ra khỏi
chiến tranh bước vào thời kỳ phát triển trong điều kiện hòa bình.
Từ thực tiễn của quá trình đổi mới có thể khẳng định KTNT nước
ta nói chung và BTB nói riêng trước mắt cũng như lâu dài vẫn giữa vị trí
hết sức quan trọng. Để tăng tốc độ phát triển KTNT, tạo ra cơ cấu hợp lý
nhất cần phải chuyển dịch CCKT nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu nông thôn
là hoàn toàn cần thiết làm cho KTNT phát triển, bộ mặt nông thôn ngày
càng văn minh, tiến bộ. Sự cần thiết đó xuất phát từ những yêu cầu chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, CCKT nông thôn được hình thành trong thời gian qua
trên cả nước nói chung và BTB nói riêng là chưa phù hợp và đang chứa
đựng nhiều nhân tố cản trở sự phát triển KTNT.
Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta bước đầu chuyển từ cơ
cấu nông nghiệp lạc hậu sang CCKT có tỷ trọng công nghiệp khá. KTNT
có bước phát triển nhất định. CCKT nông thôn bắt đầu chuyển dịch từ
thuần nông sang đa dạng hóa. Nhìn tổng quát sự tăng trưởng này vẫn dựa
trên sự phát triển theo chiều rộng. Nó là mô hình chưa kết hợp giữa sự
phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. CCKT nông thôn có chuyển dịch
nhưng trình độ và hiệu quả còn thấp. CCKT nông thôn trong thời gian qua
có đặc điểm:



28

- Hình thành trên cơ sở kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
mang nặng tính hiện vật kéo dài. Mong muốn tạo nên một sự cân đối hiện
vật nên cái gì cũng sợ thiếu. Do vậy khi chuyển sang cơ chế thị trường sự
cân đối cục bộ bị phá vỡ, hàng hóa bị ách tắc, ứ đọng, lao động thiếu việc
làm, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp không phát triển được.
- Cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động ở nông thôn bố trí
chưa hợp lý. Về cơ cấu sản xuất vẫn nặng về nông lâm ngư nghiệp chưa
chú ý đúng mức phát triển công nghiệp đặc biệt chế biến, dịch vụ, tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụ còn thấp. Cơ cấu đầu tư chưa tương xứng với vai trò
vị trí của KTNT. Đầu tư thấp chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng. Cơ cấu
lao động chưa có sự chuyển dịch. Lao động có trình độ chuyên môn còn rất
ít. Lao động thủ công phổ biến. Lao động tập trung chủ yếu trong lĩnh vực
trồng trọt. Khả năng phân công lao động theo hướng "ai giỏi nghề gì làm
nghề đó" còn hạn chế.
- CCKT về cơ bản khép kín, chia cắt giữa Trung ương và địa
phương, giữa các vùng, tiểu vùng. Với cơ cấu đó không thể phát huy được
lợi thế giữa vùng này với vùng khác địa phương này với địa phương khác.
- CCKT nông thôn dựa trên cơ cấu hiện vật chưa chú ý cơ cấu giá
trị, kỹ thuật, coi nhẹ vai trò KH-CN và các thành phần kinh tế.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường, một đòi hỏi
khách quan đối với sự chuyển dịch CCKT nông thôn.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quá trình xây dựng CCKT
đều được dựa trên cơ sở những tính toán mang nặng tính chủ quan của Ủy
ban kế hoạch nhà nước, tuy có "tham khảo" thị trường nhưng chưa xuất
phát từ yêu cầu của thị trường. Chuyển sang kinh tế thị trường, cấu trúc
kinh tế được hình thành trong thời kỳ bao cấp trở nên kém hiệu quả, do vậy



29

tất yếu phải đổi mới cấu trúc kinh tế cũ, xây dựng CCKT mới phù hợp hơn.
Ở đây thị trường đã đặt ra yêu cầu cho việc chuyển dịch CCKT nông thôn.
Kinh tế thị trường đòi hỏi chuyển dịch CCKT nông thôn phải gắn với nhu
cầu thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch CCKT nông thôn nếu
không xuất phát từ yêu cầu khách quan của thị trường dễ dẫn đến kém hiệu
quả.
Thứ ba, chuyển dịch CCKT nông thôn xuất phát từ vai trò vị trí của
nông nghiệp và KTNT trong đời sống kinh tế xã hội.
Trước hết nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò quan trọng trong
việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người và nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Trong các cuộc cách mạng công nghiệp,
công nghiệp và nông nghiệp luôn đi với nhau và trong các nền kinh tế mà
nông nghiệp không phát triển không thấy có phát triển công nghiệp. Phát
triển nông nghiệp là điều kiện để CNH đất nước. Nông dân, nông nghiệp,
nông thôn, luôn là vấn đề chiến lược có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta tất cả các thời kỳ, trong đó nông nghiệp là yếu tố cơ sở.
Kinh nghiệm các nước cho thấy nếu không quan tâm đúng mức tới
nông nghiệp và KTNT thì không thể duy trì sự phát triển lâu dài, ổn định
của nền kinh tế. Chẳng hạn như Braxin - hình ảnh một nước với ba nền
kinh tế khác biệt. Đó là một nước Braxin hướng ngoại, một nước Braxin
công nghiệp và một nước Braxin nghèo nàn với chừng 50 triệu dân chỉ duy
trì mối quan hệ duy nhất với công nghiệp, sống co cụm trong các thành phố
lớn. Còn Angiêri trong khi công nghiệp tăng trưởng nhanh 8% năm chỉ sử
dụng ít lao động xã hội, thì nông nghiệp chỉ tăng 0,6% năm trong khi đó
dân số tăng 3,3% năm, nạn thiếu hụt lương thực và thực phẩm càng thêm
trầm trọng [7].



×