Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

(Luận án tiến sĩ chính trị học) Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.29 KB, 159 trang )

Học viện chính trị quốc gia Hồ chí minh

Lấ MAI TRANG

Đổi Mới CÔNG Tác TUYÊN Truyền Của Đảng
Đáp ứng YÊU Cầu Hội Nhập Quốc Tế
ở Việt NAM Hiện NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CHNH TR HC
Mó s: 62 31 20 01

Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS.TS. Lấ MINH QUN
2. TS. ON TRNG TH

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Mai Trang

Lê Mai Trang


MỤC LỤC


Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

7
7
13

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN
TRUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ

2.1. Những vấn đề lý luận về tuyên truyền và công tác tuyên
truyền của Đảng
2.2. Những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế và yêu cầu của hội
nhập quốc tế đối với công tác tuyên truyền của Đảng

20
20
34

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
3.2. Vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền của Đảng đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

58
58
97

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Phương hướng đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
4.2. Giải pháp về đổi mới công tác tuyên truyền đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102
102
103
140
145
146



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQP

:

An ninh quốc phòng

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CTTT

:

Công tác tuyên truyền

CU

:

Liên minh thuế quan


FTA

:

Khu vực mậu dịch tự do

HNQT

:

Hội nhập quốc tế

NXB

:

Nhà xuất bản

PTA

:

Thỏa thuận thương mại ưu đãi

WTO

:

Tổ chức Thương mại thế giới


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tuyên truyền (CTTT), từ góc độ của khoa học chính trị, nhất
là chính trị học, là hình thức hoạt động quan trọng và cần thiết của một đảng
chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước. Đó là do CTTT - một bộ phận cấu thành quan trọng của
công tác tư tưởng - có nhiệm vụ truyền bá hệ tư tưởng và đường lối cách
mạng trong quần chúng; xây dựng thế giới quan, niềm tin chính trị, tập hợp và
cổ vũ quần chúng hoạt động cách mạng. Vai trò của CTTT là làm cho lý luận
thâm nhập sâu vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất giữa tư tưởng và hành
động và thông qua đó biến lý luận thành thực tiễn.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, CTTT của Đảng không chỉ phương
thức truyền bá hệ tư tưởng chính trị, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; mà còn trở
thành phương thức cầm quyền của Đảng - tuyên truyền đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, CTTT của Đảng còn trở thành một nội dung, một
mắt khâu quan trọng của chu trình chính sách công - từ nghị trình chính sách đến
quyết định, thực thi và đánh giá chính sách.
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đây gọi
tắt là Đảng) và dân tộc ta, CTTT trở thành công tác cách mạng và là công tác
cách mạng đầu tiên của của Đảng. CTTT có vai trò hết sức to lớn trong việc

truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các
lực lượng xã hội tiên tiến, khơi dậy tinh thần yêu nước, tính sáng tạo của quần
chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng.
CTTTcủa Đảng đã cổ vũ toàn dân tộc theo Đảng, làm nên Cách mạng Tháng
Tám, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.


2
Sau khi giành được chính quyền và trở thành đảng cầm quyền, CTTT
trở thành một trong những phương thức cầm quyền của Đảng, đóng góp to
lớn vào việc xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân đáp ứng các
yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, CTTT của Đảng
đã có nhiều đổi mới, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng trong công
tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, góp phần
vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội
nhập quốc tế (HNQT).
Trong mối quan hệ giữa CTTT của Đảng và HNQT, với tính cách là
trường hợp nghiên cứu hay đối tượng nghiên cứu của luận án này, có thể thấy
CTTT của Đảng đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình và HNQT ở
nước ta. CTTT của Đảng về HNQT đã tích lũy được những bài học kinh
nghiệm bước đầu quý báu, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ tuyên truyền đáp ứng yêu cầu của HNQT ở nước ta hiện nay và
những năm tới.
Tuy nhiên, CTTT Đảng trong điều kiện HNQT cũng bộc lộ nhiều hạn
chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, đó là
những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội, điểm xuất phát thấp của đất
nước khi tham gia HNQT, sự biến động phức tạp của tình hình thế giới. Về

chủ quan, CTTT của Đảng về HNQT còn ít sức hấp dẫn, chưa cập nhật, chưa
chủ động. Phương pháp CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT cơ bản vẫn
một chiều, còn biểu hiện chủ quan, giáo điều, hình thức, ít đối thoại, tranh
luận, thảo luận dân chủ. Việc định hướng thông tin còn chậm, để có thông tin
không chính thống, thông tin xấu lan tràn nhanh rộng trong xã hội, tác động
không tốt đến tư tưởng của cán bộ và nhân dân. Việc đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái còn bị động, nội dung chưa sắc bén, chưa kịp thời thu hút


3
được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia. Phạm vi tác động của CTTT
của Đảng còn hạn hẹp, phương tiện thông tin còn thiếu thốn và lạc hậu. Tổ
chức bộ máy CTTT của Đảng chưa tinh gọn, thiếu tính chuyên nghiệp. Đội
ngũ cán bộ làm CTTT của Đảng còn nhiều hạn chế về năng lực và trách
nhiệm, trình độ công nghệ thông tin còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền của Đảng còn những bất cập nhất định như trình
độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng cao; yêu cầu và
mức độ cập nhật thông tin của cán bộ đảng viên và nhân dân ngày càng nhanh
chóng và đa chiều; chủ thể và đối tượng của CTTT của Đảng ngày càng đa
dạng và phức tạp; phạm vi và giới hạn của CTTT của Đảng ngày càng rộng
rãi, không chỉ tuyên truyền ở trong nước mà còn tuyên truyền ra với thế giới.
Thực hiện chủ trương của Đại hội IX về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị (khóa
IX) về hội nhập kinh tế quốc tế; chủ trương của Đại hội X về chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các
lĩnh vực khác và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa X) ngày 05/02/2007 về một
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới; chủ trương của Đại
hội XI về HNQT, Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về
HNQT, đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra đối với quá

trình HNQT, trong đó có CTTT của Đảng.
Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về HNQT xác định:
"Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu
hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ
trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống
nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình
hội nhập quốc tế" [35] là một trong những định hướng chỉ yếu của HNQT ở
nước ta hiện nay. Theo đó, CTTT của Đảng cần phải được đổi mới về vị trí


4
và chức năng, nội dung và hình thức, phương pháp và phương tiện, tổ chức
bộ máy và cán bộ.
Công cuộc đổi mới nói chung, HNQT nói riêng đang đặt ra cho CTTT
của Đảng những yêu cầu mới - dân chủ,khách quan, kịp thời, chủ động, đa
chiều,... CTTT của Đảng không chỉ là sự thuyết phục bằng lý luận mà còn
phải được chứng minh bằng thực tiễn sinh động. Nếu trước kia chỉ cần coi
trọng một mặt “Đảng nói, dân tin”, nhưng ngày nay phải chú trọng hơn mặt
thứ hai “Đảng làm, dân theo”, “Dân nói, Đảng nghe”.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới
công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài Luận án tiến sĩ Chính trị học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về đổi mới CTTT của Đảng. Luận
án phân tích thực trạng và đề xuất nhằm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng được
yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay góp phần cho hội nhập thành công.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan hình hình nghiên cứu có liên quan:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cần thiết, có liên quan về CTTT

của Đảng và CTTT của Đảng trước yêu cầu của HNQT của Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng (kết quả, hạn chế, nguyên nhân, kinh nghiệm và vấn
đề đặt ra) của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
- Đề ra những quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT của Đảng
đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đổi mới CTTT của Đảng nhằm
đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay.


5
Khách thể nghiên cứu của luận án là các văn kiện của Đảng và Nhà
nước có liên quan; các báo cáo thực tế của các cơ quan có liên quan; nghiên
cứu, tham khảo các tài liệu thứ cấp khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về góc độ tiếp cận nghiên cứu, CTTT của Đảng được nghiên cứu
dưới góc độ chính trị học, với tính cách một phương thức lãnh đạo, phương
thức cầm quyền của Đảng ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian luận án nghiên cứu, CTTT của Đảng trong quá trình
HNQT từ năm 2007 (khi Việt Nam gia nhập WTO) cho đến 2015.
- Về không gian, luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu ở Ban Tuyên
giáo Trung ương Đảng, một số bộ, ngành, đoàn thể, báo, đài ở Trung ương;
Ban Tuyên giáo một số tỉnh, thành phố mang tính đại diện cho các vùng, miền
trong cả nước.
- Về nội dung nghiên cứu, luận án nghiên cứu các hoạt động nội dung
của CTTT của Đảng trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
an ninh quốc phòng (ANQP) đối ngoại...
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về CTTT của Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp công cụ cho việc nghiên cứu của luận án là phân
tích, tổng hợp, lịch sử, lô gíc, so sánh và các phương pháp khác.
5. Những đóng góp về khoa học
Thứ nhất, bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận về CTTT và đổi
mới CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay từ góc độ
chính trị học.


6
Thứ hai, làm rõ nội hàm của khái niệm CTTT của Đảng với tính cách
một phương thức cầm quyền của Đảng và những đặc điểm của nó.
Thứ ba, làm rõ những yêu cầu của HNQT đối với CTTT của Đảng ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đánh giá thực trạng của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT
ở Việt Nam hiện nay (theo những tiêu chí về chủ thể, khách thể, đối tượng,
phạm vi, mức độ, hiệu quả, v.v.).
Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT
của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho
việc xây dựng chủ trương, chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai CTTT
của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học chính trị, khoa học tuyên truyền

và nhất là chính trị học về những vấn đề của CTTT và CTTT của Đảng trong
điều kiện HNQT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về CTTT nói chung và
CTTT của đảng chính trị nói riêng - từ đảng chính trị nói chung đến đảng lãnh
đạo, đảng cầm quyền với nhiều góc độ (góc độ tiếp cận nghiên cứu) và
phương diện (mặt, khía cạnh, nội dung) khác nhau. Các công trình nghiên cứu
về CTTT của đảng chính trị đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn từ
nội dung đến hình thức và phương pháp của CTTT của đảng, xác định các
quan điểm khoa học - thực tiễn và các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả CTTT của đảng. Tuy nhiên, do yêu cầu và đặc điểm về nội
dung của luận án này, CTTT được nghiên cứu với tính cách một lĩnh vực hoạt
động của Đảng Cộng sản, hơn nữa lại là Đảng Cộng sản cầm quyền, do vậy
phần lớn các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án là của các tác giả
Liên Xô trước đâyvà Trung Quốc cho đếnnay.
1.1.1. Những vấn đề lý luận chung về công tác tuyên truyền của
Đảng Cộng sản
Thứ nhất, về mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ của công tác tuyên truyền
của Đảng Cộng sản
Tác phẩm "Làm gì?" của V.I.Lênin [119] đã kế thừa, phát triển một
cách toàn diện những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CTTT. Tác

phẩm đã phân tích, luận giải vị trí, tầm quan trọng của CTTT; khái niệm
tuyên truyền cổ động; lực lượng, đối tượng, phương pháp tuyên truyền của
Đảng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đưa ra những
đánh giá sâu sắc về xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền đến hôm
nay vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hàng tuần nên tổ chức giảng cho họ vài bài
và biết kịp thời điều động họ đến những thành thị khác, nói chung tổ chức cho
những người có khả năng tuyên truyền đi thăm các thị trấn” [119, tr.115].


8
Tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của C.Mác - Ph.Ăngghen [42]
là tác phẩm lý luận đầu tiên đề cập đến CTTT và cổ động của giai cấp vô sản
cách mạng. Tác phẩm này này đã chỉ ra mục đích của CTTT là xóa bỏ chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thành chính quyền” [42, tr.42];
chỉ ra đối tượng tuyên truyền không chỉ là tập hợp quần chúng vô sản mà còn
lôi kéo các tầng lớp khác đi theo giai cấp mình; nêu ra khẩu hiệu hành động
cách mạng: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” [42, tr.75].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô trước
đây, có nhiều công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng, một số đã được
dịch ra tiếng Việt. Khi nghiên cứu về cơ sở của hoạt động tuyên truyền tư
tưởng của Đảng Cộng sản, các nhà khoa học đi sâu phân tích làm rõ các
đặc điểm và những yêu cầu dưới góc độ tâm lý học, giáo dục học đối với
hoạt động này. Tác phẩm "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của
M.I.Calinin [91] đã nêu những nguyên lý cộng sản dưới hình thức đơn
giản nhất: trung thực, có học thức, có lòng yêu Tổ quốc; còn giáo dục và
bồi dưỡng những phẩm chất cao quý là một yếu tố hết sức quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục cộng sản. M.I.Calinin khẳng định: “Cần phải đến
với từng người, đánh giá họ, làm nổi bật những mặt tốt của họ bởi vì
không thể chỉ giáo dục dựa trên mặt tiêu cực” [91]. Nhà giáo dục Xô Viết

V.A.Cruchetxki viết:
Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục cuộc sống là hình thành thế hệ
trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững chắc và hành vi
đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó. Chỉ có thể giải
quyết được nhiệm vụ đó bằng cách dựa trên những trí thức về quy
luật tâm lý của sự hình thành nhân cách tích cực và có mục đích, về
những quy luật phát triển đạo đức của nó cũng như sự hiểu biết đầy
đủ những đặc điểm cá nhân [118].


9
Ở Trung Quốc, trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH,
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rất coi trọng CTTT và xác định rõ nhiệm vụ
cơ bản của CTTT là nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về chủ
nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba
đại diện” quan điểm “phát triển khoa học”, coi “phát triển khoa học” là cơ sở
để xây dựng “xã hội hài hòa”, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tích cực cải tiến
các hình thức tuyên truyền, giáo dục đa dạng và phong phú để nâng cao nhận
thức, làm cho cán bộ và quần chúng giữ vững niềm tin đối với chủ nghĩa Mác
và công cuộc xây dựng CNXH đặc sắc của Trung Quốc.
Về mục đích của CTTT, cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong
thời kỳ mới" của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
[21] chỉ rõ: CTTT tư tưởng phải tạo ra động lực tinh thần to lớn, tạo nên sự
ủng hộ bằng trí tuệ, bảo đảm về tư tưởng và môi trường dư luận lành mạnh
cho công cuộc cải cách, mở cửa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN
một xã hội tiến bộ toàn diện.
Thứ hai, về nội dung và hình thức công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản
Trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi trọng CTTT tư tưởng. Đặc biệt,

cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới" của Trần Khang và
Lê Cự Lộc dịch [71] đã tổng kết một cách có hệ thống những kinh nghiệm cơ
bản trong CTTT tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó chỉ rõ vai
trò đặc biệt quan trọng của CTTT. Trên các mặt trận lãnh đạo của Đảng thì
tuyên truyền tư tưởng là mặt trận hết sức quan trọng. Trong các cơ quan lãnh
đạo các cấp của Đảng thì chính quyền làm CTTT tư tưởng là hết sức quan
trọng, còn trong hàng ngũ cán bộ của Đảng thì những người làm CTTT tư
tưởng là lực lượng hết sức quan trọng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc coi tuyên truyền tư tưởng của Đảng là
phương tiện giáo dục, vận động quần chúng và mang tính chính trị rất cao có


10
đặc điểm là công khai, kịp thời, nhanh nhạy, có thể đưa đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng vào trong quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi và biến
thành hành động thực tế của quần chúng. Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Trung Quốc Giang Trạch Dân chỉ rõ: "Tăng cường và cải tiến công tác chính
trị, tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là một việc lớn của toàn Đảng,
cũng là nhiệm vụ nặng nề về công tác tuyên truyền tư tưởng" [47]. Trong bài
"Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 30 năm cải
cách mở cửa", tác giả Tập Cận Bình đã nêu:
Trước sau như một, Đảng coi việc học tập và vận dụng chủ nghĩa
Mác, đặc biệt là những thành quả mới nhất của sự nghiệp Trung
Quốc hóa chủ nghĩa Mác là nội dung trung tâm giáo dục, bồi dưỡng
cho đảng viên và cán bộ, v.v. ra sức thúc đẩy việc đưa vào giáo
trình, giảng đường, tuyên truyền giáo dục những tư tưởng chói lọi
quan trọng như lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại
diện” và quan điểm phát triển khoa học, để giúp đông đảo cán bộ, đảng
viên xác định chắc chắn thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá
trị chủ nghĩa Mác, tỉnh táo và kiên định chính trị, duy trì và phát triển

tính tiên tiến của người đảng viên cộng sản [trích theo 33, tr.10].
Trong tình hình mới, việc giữ vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin đặc biệt chú ý không ngừng tăng cường sức thuyết phục sức chiến đấu
của Chủ nghĩa Mác. Muốn vậy, phải tăng cường hai mặt: Kịp thời tổng kết
kinh nghiệm, rút ra những nhận thức mới về tư tưởng, lý luận mà đời sống đặt
ra; đồng thời vận dụng quan điểm mác - xít để đấu tranh chống lại các quan
điểm sai lầm, góp phần giữ vững nhận thức.
Thứ ba, về đối tượng và phương pháp công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản
Tác phẩm: "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của M.I.Calinin [91] đã
nhấn mạnh phương pháp CTTT quan trọng là sự đa dạng và phát huy hiệu quả
vai trò của giáo dục với ý thức con người.


11
Ở Trung Quốc, bàn về đối tượng CTTT, trong bài: "Làm thế nào để làm
công tác tư tưởng trong thời kỳ mới" của tác giả Phạm Vân Như và các cộng
sự (Trần Khang, Lê Cự Lộc dịch) [71] cho rằng: đối tượng CTTT là con
người và để làm tốt công tác tư tưởng cho quần chúng cần thích ứng cụ thể
của quần chúng, áp dụng phương pháp khoa học. Theo tác giả Điền Trung
Mẫn, phương châm CTTT là lấy dân làm gốc, bám sát thực tế, bám sát quần
chúng nhân dân, cố gắng vận dụng nhiều hình thức.
1.1.2. Những vấn đề về đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản
Cuốn giáo trình: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới"
của tác giả Bùi Phương Dung [47] đã góp phần bổ sung, làm rõ lý luận về
CTTT; phân tích khái niệm, phương pháp, phương thức tiến hành CTTT, các
loại hình cơ bản của công tác điều tra, nghiên cứu thông tin và xây dựng đội
ngũ những người làm CTTT.
Những yêu cầu đặt ra đối với CTTT cũng được bàn bạc sâu sắc trong
bài: "Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc" của tác

giả B.Mozias [40] đã nhấn mạnh những yêu cầu CTTT của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, trong đó bộ máy tuyên truyền Đảng Cộng sản từng bước “cấy”
những giá trị thị trường mới vào khuôn khổ hệ tư tưởng hiện thời, làm cho
chúng trở nên dễ hiểu và dễ chấp nhận đối với quần chúng nhân dân.
Ở Trung Quốc, các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi đã đi sâu làm
rõ những quan niệm về hiệu quả CTTT và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; ý thức, niềm tin cộng sản chủ nghĩa và tính tích cực
xã hội (tiêu chuẩn quyết định công tác tư tưởng, CTTT). Các tác giả cũng chỉ
ra các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để nâng cao hiệu quả CTTT.
Theo đó, điều kiện khách quan là lối sống xã hội, chế độ dân chủ và môi
trường xã hội. Nhân tố chủ quan bao gồm trình độ lãnh đạo của của Đảng đối


12
với CTTT, năng lực của cán bộ tuyên truyền, thường xuyên cải tiến các hình
thức, phương pháp; phát huy vai trò của các cơ quan tuyên truyền và các tổ
chức xã hội [109].
Các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi còn chỉ ra tính tất yếu của
việc đổi mới CTTT của Đảng Cộng sản, các tác giả này xác định rõ sự cần
thiết phải đẩy mạnh công tác tư tưởng và phương hướng đổi mới CTTT. Trên
cơ sở nghiên cứu nguyên nhân khiến Liên Xô, Đông Âu thay đổi chế độ, các
tác giả cho rằng, không được để khoảng trống trên trận địa văn hóa, tư tưởng.
Từ việc nhận thức rõ vai trò của các phương pháp, phương tiện - những binh
chủng của CTTT như báo chí, truyền thông, dư luận xã hội, v.v. các tác giả
còn chỉ rõ vai trò của những phương tiện đó để nâng cao hiệu quả của CTTT đó là “xây dựng cơ chế phản hồi nhanh dư luận, tạo ra kênh thông tin thông
suốt cho quyết sách của Đảng và Chính phủ” [109, tr.83].
Có thể nói, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, với sự ra đời và phát triển của các Đảng Cộng sản cầm quyền trên thế
giới, những nghiên cứu về CTTT của Đảng Cộng sản đã được quan tâm
nghiên cứu. Các công trình trên đã góp phần làm rõ lý luận về CTTT như khái

niệm, đặc điểm, phương pháp, phương tiện, nguyên tắc của CTTT; đồng thời
cũng chỉ rõ tính tất yếu khách quan, những giải pháp của việc đổi mới, nâng
cao hiệu quả CTTT trong mỗi giai đoạn lịch sử. Đó là những nguồn tư liệu
quý báu cho CTTT của Đảng ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, với những nét đặc thù về chế độ chính trị - xã hội, truyền
thống văn hóa giàu bản sắc của Việt Nam thì việc làm cần thiết là tiếp tục
nghiên cứu, làm giàu những tri thức xung quanh đề tài này và vận dụng cho
phù hợp với điều kiện nước ta sẽ nâng cao hiệu quả CTTT, góp phần tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa đất nước vững
bước đi lên trên con đường hội nhập và phát triển. CTTT của Đảng trong điều
kiện HNQT và trước yêu cầu HNQT cần thực hiện như thế nào để đạt được
hiệu quả mong muốn là vấn đề cần được làm rõ.


13
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu (hội thảo, đề
tài khoa học, giáo trình, giáo khoa, luận văn, luận án và bài tạp chí khoa học,
v.v.) có liên quan đến lĩnh vực CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng
trong điều kiện HNQT nói riêng từ những khía cạnh khác nhau và thể hiện ở
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về vị trí và vai trò của CTTT của Đảng nói chung và CTTT
của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như:
Cuốn sách "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền" của tác giả Đào
Duy Tùng [117] đã khẳng định rất cụ thể vị trí, vai trò và nhiệm vụ lớn lao
của CTTT trong tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung và trong công tác
xây dựng Đảng nói riêng; những bài học kinh nghiệm và phương châm chỉ
đạo của CTTT; những nội dung và biện pháp của CTTT nhằm chống lại
những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, phong kiến, nâng cao chất lượng và

hiệu quả của CTTT.
Cuốn sách "Nguyên lý công tác tư tưởng" tác giả Lương Khắc Hiếu
[64] đã đề cập đến những vấn đề chung nhất của CTTT như đối tượng, bản
chất, hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm
hoạt động và vai trò CTTT; những nội dung cơ bản của công tác giáo dục tư
tưởng về thế giới quan, những vấn đề về phương pháp, hình thức, phương tiện
và sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT như hệ thống giáo dục lý luận chính
trị, các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng đội ngũ cán bộ tư
tưởng. Tác giả nêu ra hai nhóm nâng cao hiệu quả CTTT. Nhóm thứ nhất là
thiết lập các điều kiện cho công tác tư tưởng gồm: môi trường sống, điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tồn tại xã hội nói chung. Nhóm thứ
hai là tác động vào các yếu tố công tác tư tưởng gồm: nắm vững đối tượng,
xác định mục đích, nội dung, phương thức phù hợp; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, kiện toàn bộ máy CTTT. Cuốn sách là tài


14
liệu rất cơ bản giúp nghiên cứu sinh làm tài liệu tham khảo và sử dụng để
trình bày những vấn đề lý luận của luận án. Tuy nhiên, nội dung hai cuốn
sách chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về công tác tư tưởng nói
chung, trong đó có CTTT.
Công trình: "Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay" của tác giả Trương Minh Tuấn [116] đã đề cập đến việc
đổi mới CTTT ở Tây Nguyên trong bối cảnh HNQT. Việc nhận thức sâu sắc
về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của CTTT sẽ góp phần ổn định chính trị xã hội ở Tây Nguyên, đây là cơ sở để phát triển bền vững một trong những
địa bàn trọng điểm của đất nước trong HNQT hiện nay.
Cuốn sách: "Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới"
của tác giả Phạm Tất Thắng [108] đã đề cập sâu về công tác tư tưởng, lý luận
của Đảng, trong đó đưa ra những biện pháp đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung,
phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của

Đảng nhằm phát huy sức mạnh của nền dân chủ XHCN, của đại đoàn kết toàn
dân tộc, phấn đấu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế.
Về tuyên truyền thi đua yêu nước, cuốn sách viết: “Đổi mới cách viết, tuyên
truyền gương người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng
thiết thực, không hình thức, không phô trương, lãng phí, phù hợp với điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [108].
Bài viết: "Tạo bước chuyển biến căn bản trong tổ chức hoạt động đối
ngoại" của tác giả Xuân Anh [4] đã chỉ rõ trong bối cảnh nước ta HNQT ngày
càng sâu rộng, CTTT của Đảng có vai trò quan trọng làm cho thế giới hiểu rõ
và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kỷ yếu khoa học: "Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020" của Ban Chỉ đạo Trung
ương [8] đã tập hợp báo cáo của Ban Chỉ đạo và tham luận của các bộ, ngành


15
Trung ương, các tỉnh, thành phố, các huyện, xã và doanh nghiệp tiêu biểu,
đánh giá cao vai trò của CTTT trong xây dựng nông thôn mới và đưa nông
nghiệp, nông dân, nông thôn tham gia có hiệu quả vào quá trình HNQT.
Tham luận của các đại biểu Hà Nội nêu rõ:
Thành phố đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền bằng nhiều hình
thức: tổ chức Lễ phát động "Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới"...
Thông qua các lớp học tập nghị quyết, chuyên đề, lồng ghép công tác chuyên
môn gắn với xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền lưu động, xây dựng phim
tài liệu, phóng sự, tiểu phẩm, thơ ca, tổ chức các cuộc tọa đàm, phát tờ rơi
tuyên truyền, khẩu hiệu, panô, áp phích, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, v.v. [8].
Thứ hai, về thực trạng CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng
trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như:
Cuốn sách: "Giáo trình chuyên ngành công tác tư tưởng" của Ban

Tuyên giáo Trung ương [11]; "Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội
nhập, phát triển của nước ta" của Ban Tuyên giáo Trung ương [13] đã chỉ ra
những nhược điểm, hạn chế của CTTT nói chung và tuyên truyền kinh tế nói
riêng là “chậm đổi mới phương thức hoạt động để phù hợp với tình hình mới
và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước; công tác
tuyên truyền về lĩnh vực kinh tế chưa được chú trọng đúng mức” [13].
Bài viết: "Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác
tuyên giáo" của tác giả Lê Hồng Anh [2] đã chỉ rõ thực trạng CTTT hiện nay.
Bên cạnh kết quả đạt được là cơ bản đã góp phần nâng cao nhận thứ, niềm tin
trong các tầng lớp nhân dân về con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại trong CTTT về nội
dung còn "đơn điệu, nghèo nàn", biện pháp còn "sơ cứng", chưa tạo hiệu quả
sau và rõ nét. Từ đó, tác giả đã đề cập tới một số giải pháp cho là khả thi để
nâng cao hơn hiệu quả CTTT của Đảng.


16
Thứ tư, về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới CTTT của Đảng
nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công
trình nghiên cứu như:
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 2010" của Ban Tuyên giáo Trung ương [12] đã đánh giá kết quả và đề ra giải
pháp tuyên truyền sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Cuốn sách: "Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng" của tác giả Hà Học Hợi [69] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT của Đảng trong bối
cảnh của những năm đầu thế kỷ XX, góp phần tạo ra sự thống nhất hơn nữa
trong Đảng và đồng thuận trong xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở làm rõ tiêu chí đánh giá chất
lượng và hiệu quả CTTT, dự báo tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và

nhân dân trong giai đoạn mới, tác giả đã đề xuất các phương pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả là: Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, cổ
động, đảm bảo bộ máy làm CTTT. Cuốn sách đã góp phần triển khai thực
hiện nghị quyết Trung ương lần thứ năm khóa IX (tháng 2/2002) về nhiệm vụ
chủ yếu của CTTT, lý luận trong tình hình mới.
Các cuốn sách chuyên khảo như: "Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo
cán bộ làm công tác tư tưởng" của Trần Thị Anh Đào [59]; "Công tác tư
tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của tác giả Trần Thị
Anh Đào [60] các công trình này đã đề cập khá toàn diện về mặt lý luận của
công tác tư tưởng nói chung và CTTT nói riêng, trong đó có luận giải về
phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, CTTT và
nhất là vấn đề đào tạo cán bộ tư tưởng từ thực tiễn của Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.


17
Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Hội nhập
quốc tế - nhìn từ thực tế" của Tỉnh ủy Quảng Ninh [110], trong kỷ yếu này,
tác giả Vũ Văn Phúc cho rằng, Đảng cần đẩy mạnh CTTT, vận động, giáo
dục, thuyết phục, thực hiện công khai, dân chủ trong Đảng và xã hội; tác giả
Lê Hữu Nghĩa với bài viết: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Việt Nam trong điều kiện một Đảng cầm quyền” [110]; tác giả Hà Đăng với
bài: "Đổi mới phương thức công tác tư tưởng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế" [110]; tác giả Trần Khắc Việt với bài: "Phương thức lãnh
đạo của Đảng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế" [110]... đã đánh giá tình hình thực tế CTTT của Đảng và
làm rõ hơn CTTT của Đảng trong điều kiện đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam.
Thứ tư, về giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của CTTT của

Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các
công trình nghiên cứu như:
- "Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quá trình chủ động hội
nhập nền kinh tế thế giới" của Ban Tuyên giáo Trung ương [14] đã đề cập tới
một số nội dung hình thức cho CTTT của Đảng khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin - tuyên truyền
trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân trong tình hình mới" của Ban Đối ngoại
Trung ương Đảng [9] đã đề cập một số nội dung, hình thức thông tin ra nước
ngoài về sự phát triển kinh tế đất nước.
- "Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của các “sản phẩm thông
tin đối ngoại” của tác giả Lê Hồng Anh [1] đã đề cập đến các nội dung của
thông tin đối ngoại trong đó đã nhấn mạnh phải đổi mới nội dung tuyên
truyền cho phù hợp với yêu cầu mới. Theo đó tuyên truyền về chủ trương,


18
đường lối, chính sách của Việt Nam, thành tựu đổi mới, hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam nhằm mục tiêu để bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước
ngoài hiểu biết đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; qua đó huy động được sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng
quốc tế đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trọng tâm
là phản ánh kịp thời, đầy đủ quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất
nước; chủ trương và chính sách của Nhà nước, tiềm năng và cơ hội đầu tư.
Nhận xét chung, các công trình nghiên cứu đã:
Thứ nhất, đã luận bàn một số quan điểm cơ bản về nguyên lý công tác
tuyên truyền, yêu cầu, nội dung, phương thức công tác tuyên truyền của Đảng
và những vấn đề cơ bản của HNQT. Khẳng định CTTT của Đảng trong những
năm qua đã tập trung tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về HNQT, giúp nhân dân định hướng rõ nét hơn con

đường phát triển của Việt Nam trong thời kỳ HNQT, động viên cổ vũ nhân
dân tham gia HNQT, góp phần vào thành công chung của công cuộc đổi mới.
Thứ hai, đã chỉ ra một số kết quả, hạn chế, thách thức và các giải pháp
nhất định nhằm đổi mới CTTT của Đảng góp phần đưa đất nước HNQT thành
công. Đã đề cập đến một số tác động (tích cực và tiêu cực) của HNQT đối với
CTTT của Đảng, xác định việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
CTTT của Đảng là việc cần thiết, là nhiệm vụ quan trọng, nhưng khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài và bền bỉ.
Tuy nhiên, xung quanh việc nghiên cứu các đề tài, bài viết và sách đã
nêu còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận về CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT cũng như những vấn đề mà HNQT đặt ra với CTTT như:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã có, mới dừng lại ở vấn đề
chung về lý luận cũng như thực tiễn chung của quốc tế, mà chưa phân tích
một cách kỹ càng, thấu đáo tính đặc thù của Việt Nam khi hội nhập. Các công
trình đã có mới tập trung vào ảnh hưởng CTTT tới sự phát triển kinh tế quốc


19
tế mà chưa bàn sâu đến tác động của CTTT tới các lĩnh vực khác. Việc tìm
hiểu tác động của quá trình HNQT đến CTTT của Đảng chưa nhiều.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT ở góc độ khoa học chính trị nói chung và chính trị học nói riêng còn ít.
Trong khi CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT rất cần được nghiên
cứutheo chiều sâu và nghiên cứu từ góc độ của chính trị. Dưới góc độ chính
trị học, việc tiếp cận CTTT của Đảng đang còn là vấn đề cần được nghiên cứu
nhiều hơn, góp phần nâng cao năng lực trong thực thi quyền lực của hệ thống
chính trị đáp ứng yêu cầu đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu CTTT của Đảng chủ yếu là đề xuất
nâng cao chất lượng CTTT của Đảng trong HNQT mà thiếu đi những bài viết,
những nghiên cứu sâu về các yêu cầu mới của HNQT, các tác động của

HNQT để từ đó đòi hỏi CTTT của Đảng phải nâng cao hơn nữa về chất lượng
như thế nào để đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, “tìm kiếm câu trả lời” cần
thiếtvà có thể cho những vấn đề chưa được làm rõ về CTTT của Đảng và đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT ở Việt Nam hiện nay, luận án
này xác định ba nhóm vấn đề chủ yếu cần nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, CTTT của Đảng xem xét từ góc độ chính trị học là gì? CTTT
của Đảng với tính cách là một phương thức thực thi quyền lực chính trị của
Đảng cầm quyền là gì và có những đặc điểm, yêu cầu gì? HNQT ở Việt Nam
cho đến nay đặt ra yêu cầu gì đối với CTTT của Đảng (với tính cách Đảng
cầm quyền)?
Thứ hai, thực trạng và vấn đề đặt ra của CTTT Đảng trong điều kiện
HNQT ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Nguyên nhân và bài học của CTTT
của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay là gì?
Thứ ba, CTTT của Đảng cần phải đổi mới như thế nào (quan điểm, giải
pháp và kiến nghị đổi mới) để đáp ứng các yêu cầu của HNQT?


20
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN VÀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG

2.1.1. Tuyên truyền và công tác tuyên truyền
2.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đã được nhà thờ
La Mã sử dụng từ gần 400 năm trước, dùng để chỉ hoạt động của các nhà
truyền giáo với mục đích thuyết phục, lôi kéo những người khác đi theo đạo

Ki-tô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền dược sử dụng một cách rộng rãi, để biểu
đạt các hoạt động nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng người khác và định
hướng hành động của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Tiếng La tinh tuyên truyền (prapaganda) có nghĩa là truyền bá, truyền
đạt một quan điểm nào đó. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô, thuật
ngữ tuyên truyền có hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là
sư truyền bá những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học nghệ
thuật, v.v. nhằm phổ biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành
hành động cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là tuyên
truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình thành
trong đối tượng tuyên truyền một thế giới quan, một kiểu xã hội nhất định và
cổ vũ tính tích cực xã hội của con người.
Theo Từ điển Hán - Việt, “tuyên” có nghĩa là tản khắp mọi nơi; “truyền”
có nghĩa là đem của người này trao cho người khác [75]. Theo Từ điển Chính
trị, “Tuyên truyền là giải thích phổ biến một tư tưởng, một học thuyết, một lý
luận chính trị nào đó” [41] để thuyết phục, vận động mọi người làm theo.


21
Có thể hiểu: tuyên truyền là phổ biến, giải thích một học thuyết, một tư
tưởng, một quan điểm nào đó nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối tượng
tuyên truyền truyền một thế giới quan, nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối
sống,thông qua đó mà ảnh hưởng tới thái độ, tính tích cực của con người
trong thực tiễn xã hội.
2.1.1.2. Khái niệm công tác tuyên truyền
Khi nhận thấy tầm quan trọng của tuyên truyền đối với đời sống xã hội,
con người đã hình thành cho mình một quy trình thực hiện đầy đủ, toàn diện
và hiệu quả hơn việc tuyên truyền và đã hình thành công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền với tư cách là một hành động góp phần thực hiện
nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị; đây là hoạt động đặc thù

bởi nó tác động vào đối tượng vốn rất phức tạp là nhận thức, tư tưởng của con
người. Chính vì thế, CTTT vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, phản ánh một
cách tập trung những cách thức làm thay đổi nhận thức thức, thái độ và hành
vi vốn rất phức tạp của con người.
Công tác tuyên truyền xuất hiện và tồn tại trong xã hội loài người, là
một hoạt động xã hội, cả chủ thể và khách thể tham gia đều là con người. Đối
tượng tác động của nó là ý thức con người và rộng hơn là ý thức xã hội. Hoạt
động tuyên truyền là hoạt động của con người tác động đến con người. Tuyên
truyền phục vụ nhiệm vụ phát triển xã hội (với nghĩa rộng) và cũng chịu ảnh
hưởng từ môi trường xã hội. Tuyên truyền phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội, khi xã hội phát triển sẽ tạo những điều kiện và yêu cầu mới cho
hoạt động tuyên truyền, làm cho hoạt động tuyên truyền phát triển. Sự hình
thành và phát triển của ngôn ngữ và phương tiện truyền thông từ sơ khai đến
hiện đại (với máy tính, internet, vệ tinh nhân tạo, cáp quang...) tuyên truyền
ngày càng giúp cho con người tiếp cận các nguồn thông tin to lớn và nhanh
chóng hơn.


×