Tải bản đầy đủ (.doc) (213 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ đổi mới CÔNG tác GIÁO dục lý LUẬN CHO đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã ở các TỈNH KHU vực NAM bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.33 KB, 213 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người có vai trò hết sức quan trọng
trong các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Vì vậy,
đội ngũ cán bộ này phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai cấp
và bản lĩnh chính trị kiên định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn,
năng lực công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao. Trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ đang
đứng trước những thử thách mới. Đúng như Đảng ta đã nhận định: "Trong
điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài,
cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố
rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách mới" [10, tr.
137]. Trong tình hình thực tế hiện nay "không ít cán bộ đảng viên phai nhạt
lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức, sức chiến đấu của một
bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu" [10, tr. 67]. Vì vậy, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực cho cán bộ chủ chốt theo yêu cầu
giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một trong những vấn đề
quan trọng và cấp bách hiện nay.
Để thực hiện được yêu cầu này, Đảng ta chỉ rõ: "Mọi cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế hoạch thường xuyên
học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động
thực tiễn" [10, tr. 140]. Nghị quyết BCHTW 6 (lần 2) khóa VIII cũng đã nêu
cụ thể một trong những nhiệm vụ nhằm củng cố, chỉnh đốn Đảng, làm cho
Đảng trong sạch, vững mạnh là phải: "Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng
và trong xã hội về chủ nghĩa Mác - Lênin, về tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước" [12, tr. 27].



2

Trong nhiều năm qua Đảng ta đã hết sức quan tâm, chú trọng đến việc
giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, do đó đã đạt được những kết quả nhất định.
Song, bên cạnh đó còn nhiều hạn chế trên các mặt nên chất lượng, hiệu quả
giáo dục chưa cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ, tại Đại hội IX, Đảng ta đã xác định: phải "xây dựng chỉnh
đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng,
hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản
lý các cấp, chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập" [13, tr.
142]. Cụ thể hóa yêu cầu này, nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng đã
chỉ rõ:
Cần đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp
dạy và học lý luận, coi trọng chất lượng và tính hiệu quả. Tổ chức
học tập một cách nghiêm túc, có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng của
dân tộc, của Đảng. Phát huy tính sáng tạo, chủ động của người
học, dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự đọc các tác phẩm lý
luận và văn kiện của Đảng [14, tr. 135-136].
Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) cũng tiếp tục nhấn mạnh:
"Trên cơ sở qui hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo chức danh
và cán bộ nguồn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo, chú ý bồi
dưỡng phẩm chất chính trị,trình độ nghề nghiệp, năng lực thực tiễn, xử lý
tình huống, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong quá trình đào tạo" [15, tr.
231].
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ mới, đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt xã, phường, thị trấn (trong qui chế dân chủ ở cơ sở gọi chung
là cấp xã) nói chung, ở các tỉnh khu vực Nam Bộ nói riêng, so với yêu cầu

hiện tại chưa đáp ứng được, còn yếu và hạn chế trên nhiều mặt. Hạn chế cơ


3

bản của đội ngũ này biểu hiện trên các mặt: trình độ nhận thức chính trị, năng
lực tổ chức quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nhiều cán bộ được
đề bạt, bổ sung vào những cương vị chủ chốt, nhưng chưa qua bồi dưỡng, đào
tạo cơ bản về chuyên môn cũng như lý luận chính trị. Vì vậy, khi xử lý công
việc họ còn tùy tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa, không đúng với đường lối, lập
trường quan điểm giai cấp của Đảng. Để khắc phục tình trạng trên, phải giải
quyết nhiều khâu, song khâu cấp bách nhất hiện nay, như Đảng ta đã xác
định, đó là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục lý luận chính
trị nhằm nâng cao nhận thức chính trị, giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của Đảng cho đội ngũ này trong quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở địa
phương.
Xác định đúng vị trí vai trò của giáo dục lý luận chính trị đối với việc
nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ cho cán bộ chủ chốt cấp xã;
đánh giá đúng thực trạng của công tác này đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp để đổi
mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của các trường chính trị tỉnh ở khu vực
Nam Bộ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Công tác giáo dục lý luận chính trị được Đảng ta xác định là trọng tâm
của công tác tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Vì vậy, đã có nhiều công trình
khoa học đề cập đến vấn đề này như:
- Đề tài: "Đổi mới tư duy lý luận ứng dụng vào việc đổi mới nội dung,
chương trình bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác - Lênin, theo yêu
cầu đổi mới về giáo dục lý luận Mác - Lênin trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ V", (Đề tài cấp bộ do GS. Nguyễn Đức Bình làm chủ nhiệm năm
1991).


4

Mục tiêu của đề tài nhằm hình thành một hệ thống giáo trình, giáo
khoa mới về lý luận Mác - Lênin vận dụng ở nước ta.
- Đề tài: "Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành
chương trình trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000" (Chủ nhiệm: Thạc sĩ
Tống Trần Sinh - đề tài cấp Bộ, tháng 4-1995).
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này: đề xuất với Ban Bí thư Trung
ương Đảng và Chính phủ một chương trình học tập trung cấp lý luận chính trị
cho các trường chính trị tỉnh, thành phố, đáp ứng việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã, phường, thị trấn.
- Đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp quận, huyện, thị xã các tỉnh
Nam Bộ", (Chủ nhiệm: Nguyễn Thanh Bình - đề tài cấp Bộ, năm 1996).
Đề tài này đã tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp quận, huyện các tỉnh, thành phố ở Nam Bộ.
Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp thực hiện đổi mới công tác
đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống các trường Đảng Trung ương.
- Đề tài: "Thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ giảng dạy của các trường
chính trị tỉnh, thành phố", (Chủ nhiệm: Thạc sĩ Tống Trần Sinh, năm 1998).
Mục tiêu của đề tài này nhằm đưa ra những căn cứ khoa học để nâng
cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của các trường chính trị tỉnh,
thành phố trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Đề tài mang mã số KX-10-09D do nhóm tác giả: Tô Huy Rứa, Đỗ
Công Tuấn ở Đại học Tuyên giáo: "Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo

giảng viên lý luận - chính trị các trường đại học và cao đẳng" (nghiệm thu
năm 1994) đã đề xuất một khung chương trình tổng thể đào tạo giảng viên các


5

bộ môn lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam cho các trường đại học và cao đẳng. Đồng thời, đề tài cũng đã đánh
giá một cách khái quát năng lực đào tạo của các trường trong hệ thống Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, thực trạng, xu hướng biến đổi đội ngũ
cán bộ giảng dạy các môn học này.
Liên quan đến đề tài của luận án còn có những công trình, đề tài
nghiên cứu về công tác cán bộ như: Đề tài cấp Nhà nước KX.05.11, trong đó
Phân viện Thành Phố Hồ Chí Minh tham gia nhánh đề tài: "Cơ cấu tiêu
chuẩn cán bộ cấp quận, huyện và cơ sở các tỉnh Nam Bộ". Ngoài ra, còn một
số các bài viết khác về giáo dục lý luận chính trị dưới các góc độ khác nhau
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Tuy nhiên, do giới hạn về mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu và đối tượng khảo sát, các đề tài và công trình nghiên cứu nói trên
chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, dưới góc độ CNXHKH đối với
công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã các tỉnh
khu vực Nam Bộ như là một bộ phận hợp thành của động lực xã hội - chính
trị của cách mạng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới hiện
nay. Do đó, có thể khẳng định rằng, công tác giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam Bộ chưa được thực sự quan
tâm và đang còn là một khoảng trống khoa học cần được nghiên cứu một cách
có hệ thống và đầy đủ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích của luận án
Nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về công tác giáo dục lý

luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu
vực Nam Bộ; trên cơ sở đó đề xuất một hệ thống các giải pháp tác động phù
hợp, thông qua các kiến nghị đổi mới nội dung, chương trình, phương thức


6

giáo dục lý luận chính trị, góp phần nâng cao vai trò, phẩm chất và năng lực
của cán bộ cấp xã ở nước ta trong quá trình đổi mới theo định hướng XHCN.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
- Xác định rõ vị trí, vai trò của giáo dục lý luận chính trị đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở nước ta.
- Đánh giá đúng thực trạng, chất lượng, hiệu quả của giáo dục lý luận
chính trị đối với cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh
khu vực Nam Bộ trong những năm qua.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới công tác giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các
tỉnh khu vực Nam Bộ theo yêu cầu tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
4. Giới hạn, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Giới hạn của đề tài: Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã được thực hiện trên một phạm vi rộng với
nhiều nội dung, hình thức khác nhau. Song, theo Quyết định số 88-QĐ/TW
ngày 5/9/1994 của BCHTW về thành lập trường chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và Qui định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 của BCHTW qui
định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng thì các trường chính trị tỉnh,
thành phố là nơi trực tiếp thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị đối
với đối tượng này. Do đó, trong phạm vi của luận án này tác giả chỉ giới hạn
trong việc khảo sát hoạt động giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã ở các trường chính trị tỉnh ở khu vực Nam Bộ

- Cơ sở lý luận của đề tài: Học thuyết Mác - Lênin về vai trò của lý
luận đối với hoạt động thực tiễn; tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ.


7

- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội
học.
Ngoài ra, luận án rất coi trọng các phương pháp nghiên cứu tài liệu
đối với các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp tỉnh và các chuyên đề
khoa học về vấn đề này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ hơn vai trò và những nét đặc thù của giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh
khu vực Nam Bộ.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam Bộ hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục lý luận chính trị đối với các trường chính trị tỉnh thuộc khu
vực Nam Bộ trước yêu cầu đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Góp phần vào nhiệm vụ đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các
tỉnh khu vực Nam Bộ.
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy về Chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH), Xây
dựng Đảng, Xã hội học v.v..., nhất là việc cải tiến nội dung, chương trình

giảng dạy lý luận chính trị trong các trường chính trị ở các tỉnh khu vực
Nam Bộ.
7. Kết cấu của luận án


8

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


9

Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ CÁC YẾU TỐ QUY ĐỊNH
CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ

1.1. KHÁI NIỆM VỀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ

1.1.1. Lý luận và vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn
1.1.1.1. Lý luận
Nói về lý luận, Hồ Chí Minh đã định nghĩa rất đơn giản và dễ hiểu là:
"Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính" [38, tr. 233].
Như vậy, về thực chất, lý luận chính là "hệ thống những tri thức đã
được khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên
hệ cơ bản của hiện thực" [54, tr. 341]. Hay nói một cách hoàn chỉnh, "lý luận

là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người; là toàn bộ
những tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các
tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách
quan của các sự vật" [54, tr. 342].
Vì vậy, lý luận không thể chỉ là sự mô tả hiện thực khách quan, là sự
sao chép giản đơn các kinh nghiệm trong thực tiễn, mà trên cơ sở phản ánh
hiện thực của thực tiễn, nó phát hiện ra những quy luật vận động và dự báo
những xu hướng, những vấn đề được đặt ra cần giải quyết trong thực tiễn.
Đương nhiên, trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn chính
là yếu tố xâm nhập, nền tảng, có tác động quyết định cho sự hình thành lý


10

luận. Lý luận và thực tiễn nằm trong một thể thống nhất gắn bó, cái này là
tiền đề tồn tại và phát triển của cái kia, luôn tác động lẫn nhau trong quá trình
phát triển. Thực tiễn đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành lý luận.
Trong mỗi bước phát triển, hoạt động thực tiễn lại làm nảy sinh những yêu
cầu mới, đòi hỏi được nghiên cứu khái quát phản ánh và do đó bổ sung vào lý
luận những nhận thức mới. Nhờ đó lý luận hoàn thiện và phát triển hơn.
Ngược lại, trong mỗi hoạt động thực tiễn, lý luận luôn hướng dẫn, mở đường
cho thực tiễn phát triển bằng những tổng thể tri thức nhất định. Không có hoạt
động thực tiễn nào đơn thuần là kinh nghiệm cụ thể, cũng như không có hệ
thống tri thức lý luận nào không xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn. Như Mác
đã nói: "Trong một dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo một
mức độ mà cách mạng là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy" [31, tr.
582].
Vì vậy, giữa lý luận và thực tiễn không thể tuyệt đối hóa một mặt nào.
Tuyệt đối hóa thực tiễn sẽ dẫn đến sự sùng bái chủ nghĩa kinh nghiệm, coi
kinh nghiệm vượt lên tất cả, có kinh nghiệm là có thể thành công, có thể giải

quyết được mọi việc. Sẽ là hoàn toàn sai lầm khi nghĩ như vậy. Như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ" [38, tr. 234]. Ngược lại, do tính gián tiếp, trừu tượng
hóa cao trong phản ánh hiện thực của nó, lý luận dễ xa rời thực tiễn, trở thành
ảo tưởng giáo điều. Do đó, mặc dù coi trọng lý luận nhưng không thể cường
điệu, tuyệt đối hóa lý luận, tách rời lý luận với thực tiễn, phải tôn trọng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức và hoạt động.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc này, Hồ Chí Minh đã viết: "Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [41, tr. 496].
So với kinh nghiệm, lý luận là một trình độ cao hơn về chất. Tri thức


11

lý luận được tổng kết, khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó được thể hiện
bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận. Vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: "Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích tụ lại trong quá
trình lịch sử" [41, tr. 497].
Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm, nhưng nó không hình thành một cách tự phát và không phải mọi lý
luận đều được hình thành từ kinh nghiệm thông thường. Lý luận được xây
dựng trên cơ sở trình độ khái quát cao, nắm vững một cách sâu sắc những mặt
bản chất nhất trong mối quan hệ giữa sự vật và hiện tượng, từ đó rút ra những
vấn đề mang tính quy luật trong sự vận động của thế giới khách quan và xã
hội. Do đó, theo Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là: đem quy sự vận động
bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
1.1.1.2. Vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn
Với những đặc trưng cơ bản trên, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối

với hoạt động thực tiễn, như Lênin đã từng khẳng định: "Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng" [29, tr. 30]. Hay cụ
thể hóa hơn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra: "Không có
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [38, tr. 234]. Vai trò của lý luận
đối với hoạt động thực tiễn thể hiện rất rõ:
- Giúp con người nhận thức đúng đắn thế giới khách quan, xã hội, có
định hướng đúng trong hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động đặc biệt của con người tác động
vào thế giới khách quan nhằm cải tạo, biến đổi nó phục vụ cho con người,
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để hoạt động này có hiệu quả, con
người cần phải nhận thức đúng đắn thế giới khách quan cùng với những quy
luật vận động nội tại của nó, trên cơ sở đó hướng sự vận động đi theo đúng
quỹ đạo thúc đẩy xã hội phát triển. Lý luận khoa học đã trang bị đầy đủ những


12

tri thức cần thiết cho con người để thực hiện điều này.
- Có khả năng dự báo, đưa ra những phương hướng, giải pháp hiệu
quả cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học với việc nghiên cứu, phát hiện ra xu hướng vận
động phát triển của các sự vật, hiện tượng không những giúp con người nhận
thức được quy luật vận động của thế giới khách quan, của xã hội mà còn có
khả năng dự báo, vạch ra những phương hướng, biện pháp để thực hiện việc
cải tạo, biến đổi nó đi theo những mục tiêu đã định nhằm phục vụ cho lợi ích
của con người, của xã hội. Vì vậy, lý luận không chỉ giúp con người nhận
thức được thế giới, mà còn giúp con người cải tạo thế giới, thực hiện hoạt
động thực tiễn một cách hiệu quả. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: "Lý luận như cái kim chỉ Nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta
trong công việc thực tế" [38, tr. 233].

- Tạo điều kiện cho con người có niềm tin, sức mạnh vật chất trong
hoạt động thực tiễn.
Nói về vai trò của lý luận đối với thực tiễn, Mác cũng đã chỉ rõ: "Vũ khí
của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng có thể
trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [31, tr.
580]. Thực tế đã xác minh điều đó. Lý luận là dạng hoạt động tinh thần, thuộc
hình thái ý thức xã hội, nhưng khi vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn, nó
đã thực sự trở thành sức mạnh vật chất. Nhờ có lý luận chỉ dẫn cho hoạt động
thực tiễn, con người hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình, trên thực
tế, tăng thêm sức mạnh vật chất để chiến thắng tất cả những khó khăn trở
ngại, đạt được những mục tiêu cơ bản trong cách mạng. Dưới góc độ chính trị
- xã hội, Mác nói, điều này còn có một ý nghĩa rộng lớn hơn. Đó là, khi nhận
thức đúng đắn quy luật vận động của xã hội, quần chúng lao động biết phải


13

đấu tranh với ai, chống lại thế lực nào, bằng con đường, biện pháp nào thì dù
họ có yếu cũng trở thành một lực lượng có sức mạnh vô địch có thể nhấn
chìm mọi thế lực phản động, để giải phóng mình và mở đường cho xã hội
phát triển. Trên ý nghĩa quan trọng đó, Lênin cũng đã từng khẳng định: "Chỉ
có Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò của một chiến sĩ tiên phong" [29, tr. 32].
1.1.2. Lý luận chính trị và chất lượng, hiệu quả giáo dục lý luận
chính trị
1.1.2.1. Lý luận chính trị
Lý luận chính trị ra đời và được hình thành trên cơ sở nền tảng tư
tưởng của học thuyết mác-xít, một hệ thống hoàn chỉnh và khoa học với
những quan điểm triết học, kinh tế học và chính trị xã hội.

Được xây dựng trên cơ sở tiếp thu một cách chọn lọc những tinh túy
của các khoa học triết học, kinh tế chính trị học cổ điển và chủ nghĩa xã hội
không tưởng cùng với sự tổng kết kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân thế giới, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một biến chuyển
cách mạng vĩ đại trong khoa học về tự nhiên và xã hội.
Đánh giá về học thuyết của Mác, Ăngghen khẳng định, Mác đã nêu ra
hai phát hiện vĩ đại nhất, đó là: quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết về
giá trị thặng dư. Bằng phát hiện thứ nhất, Mác đã thực hiện một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới, chỉ ra quy luật phát triển
của xã hội loài người. Với phát hiện thứ hai, Mác đã vạch rõ quy luật riêng
biệt của sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của xã hội
tư bản nói chung. Toàn bộ học thuyết tư tưởng của Mác cấu thành ba bộ phận:
triết học, kinh tế chính trị học và CNXHKH, dựa trên cơ sở khoa học là phép
duy vật biện chứng, hay nói như Lênin, phép biện chứng duy vật chính là
linh hồn của chủ nghĩa Mác. Chính vì vậy, học thuyết của Mác không chỉ


14

giải thích thế giới một cách khoa học, đúng đắn mà còn có khả năng cải tạo
thế giới. Đánh giá về những giá trị của học thuyết Mác, Lênin đã khẳng định:
"… lý luận đó là lý luận lần đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng
thành khoa học; lý luận đó đã dựng lên những cơ sở vững chắc cho khoa học ấy
và vạch rõ con đường mà chúng ta cần phải theo" [28, tr. 230], "Lý luận đó đã
chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của một Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng… là tổ
chức cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh
đó mà mục đích cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và tổ chức
xã hội XHCN" [28, tr. 231].
Với sức mạnh khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác luôn tìm thấy
sức sống, sức sáng tạo của mình trong đời sống thực tiễn cách mạng và không

ngừng được bổ sung, phát triển ngày càng phong phú bằng những luận điểm,
kết luận khoa học mới trở thành lý luận tiên phong dẫn dắt phong trào cách
mạng thế giới. Từ một học thuyết mang tính tư tưởng, với tính khoa học và
cách mạng, học thuyết vĩ đại của Mác đã trở thành vũ khí lý luận giúp cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh cải tạo xã hội, đưa xã hội
ngày càng phát triển.
Trên nền tảng tư tưởng học thuyết mác-xít, V.I. Lênin đã phát triển một
cách sáng tạo học thuyết của Mác trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. V.I. Lênin
đã chứng minh rằng, trong những điều kiện mới, cách mạng XHCN có thể
giành thắng lợi ở một nước và một số nước trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa;
đồng thời với phát hiện đó, ông đã xây dựng thành công học thuyết về nhà
nước, đặc biệt về đảng của giai cấp công nhân, coi đó là điều kiện cơ bản
quyết định thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản cũng như cách mạng XHCN.
Với những cống hiến vĩ đại của mình, Lênin đã góp phần tiếp tục phát triển,
hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Với sự kết hợp của chủ nghĩa Mác và sự phát triển
chủ nghĩa Mác bởi V.I. Lênin, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời. Lý luận chính trị
được hình thành trên nền tảng học thuyết khoa học, cách mạng vĩ đại này.


15

Với nền tảng là học thuyết Mác - Lênin, các bộ môn lý luận chính trị ở
nước ta được hình thành, bao gồm ba bộ phận cơ bản: Triết học, Kinh tế
chính trị học, CNXHKH, và được mở rộng thêm với việc nghiên cứu về Lịch
sử Đảng, Xây dựng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước - pháp luật và
một số môn lý luận cơ bản khác.
Cùng với các lý luận khoa học khác, lý luận chính trị đã thực sự trở
thành một khoa học hướng dẫn cho Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai
cấp công nhân lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động hoàn thành
sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình.

1.1.2.2. Giáo dục lý luận chính trị và chất lượng, hiệu quả của quá
trình này
Để chủ nghĩa Mác - Lênin được tuyên truyền sâu rộng trong Đảng,
trong quần chúng, phải tiến hành việc giáo dục lý luận chính trị. Đây là công
việc hàng đầu của các Đảng cộng sản nhằm thực hiện thành công mục tiêu
xây dựng CNXH, CNCS trên đất nước mình.
Giáo dục là một "quá trình đào tạo con người một cách có mục đích,
nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động
sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội
những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người." [55, tr. 120].
Giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận nằm trong sự nghiệp giáo
dục đó, nó trực tiếp truyền thụ và trang bị cho người học thế giới quan Mác Lênin, nhân sinh quan, đạo đức cách mạng. Từ thế giới quan, nhân sinh quan
cách mạng đó, người học có khả năng tư duy khoa học, có năng lực sáng tạo
trong trong hoạt động thực tiễn, củng cố lòng tin vào lý tưởng, mục tiêu cách
mạng, vào đường lối của Đảng.
Do đó, giáo dục lý luận chính trị là quá trình đào tạo, bồi dưỡng
nhằm hình thành cho người học thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa thông qua việc truyền thụ những nguyên lý lý luận của chủ


16

nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, giúp cho người học có tư duy khoa học,
đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.
Để đạt được những yêu cầu giáo dục trên, giáo dục lý luận chính trị
phải đảm bảo truyền thụ cho người học những tri thức khoa học sau:
- Lý luận Mác - Lênin (bao gồm ba bộ môn cơ bản: Triết học, Kinh tế
chính trị học, CNXHKH).
- Các môn lý luận chính trị cơ bản: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử
Đảng, Xây dựng Đảng, Nhà nước pháp luật.

- Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
Đó chính là những nội dung cơ bản trong giáo dục lý luận chính trị.
Đương nhiên với từng đối tượng cụ thể, yêu cầu của nội dung chính trong
giáo dục có thể ở các mức độ khác nhau.
Trong giáo dục lý luận chính trị, vấn đề được quan tâm hàng đầu của
quá trình này là chất lượng, hiệu quả giáo dục. Chất lượng giáo dục lý luận
chính trị là một tổng thể các tiêu chí nói lên mức độ truyền đạt trang bị của
chủ thể giáo dục, mức độ khả năng lĩnh hội vận dụng của khách thể, được thể
hiện thông qua các kết quả giảng dạy, học tập ở trong nhà trường, qua nội
dung, chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục. Nội dung, chương trình
giáo dục phải trang bị đầy đủ những tri thức cần thiết, đáp ứng được những
yêu cầu của hoạt động thực tiễn để học viên có thể vận dụng một cách hiệu
quả vào công tác thực tiễn. Hình thức, phương pháp giáo dục phải phù hợp để
học viên có thể nắm vững những lý luận cơ bản, hiểu biết những tri thức đó
một cách sâu sắc. Cuối cùng, tất cả điều đó phải được thể hiện bằng thành
tích, kết quả học tập cụ thể của học viên phản ánh một cách chính xác, trung
thực mức độ giảng dạy và học tập. Đó chính là chất lượng giáo dục.


17

Hiệu quả giáo dục lý luận chính trị thể hiện ở kết quả vận dụng kiến
thức của học viên vào công tác thực tiễn sau khi ra trường. Vì vậy có thể nói,
hiệu quả giáo dục là khả năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã được
học tập của người học vào hoạt động thực tiễn. Trong giáo dục lý luận chính
trị điều này được thể hiện rất rõ: Đó là năng lực chỉ đạo trong hoạt động thực
tiễn, khả năng xử lý những tình huống cụ thể ở địa phương, là phẩm chất, đạo
đức, tư cách của người cán bộ v.v…
Chất lượng và hiệu quả giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chất

lượng giáo dục quyết định hiệu quả giáo dục. Hiệu quả giáo dục là sự thể hiện
chất lượng giáo dục. Không thể nói chất lượng giáo dục tốt, khi đào tạo ra
một đội ngũ cán bộ chỉ có bằng cấp mà hạn chế, yếu kém trong năng lực công
tác. Vì vậy có thể nói, chất lượng giáo dục là điều kiện, còn hiệu quả giáo dục
mới là mục đích của giáo dục. Vì vậy giáo dục lý luận chính trị cũng như giáo
dục nói chung, không phải chỉ được đánh giá bằng chất lượng đơn thuần, mà
phải bằng hiệu quả giáo dục. Hay nói khác đi, hiệu quả chính là thước đo
quan trọng nhất của chất lượng giáo dục và giáo dục lý luận chính trị. Nói đến
tầm quan trọng của hiệu quả giáo dục, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Lý luận cốt để
áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý
luận suông" [38, tr. 234].
1.1.3. Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt - yêu cầu
quan trọng hàng đầu đối với mỗi Đảng cộng sản
1.1.3.1. Về sự cần thiết phải giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
Giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt là yêu cầu cơ bản quan
trọng hàng đầu đối với mỗi Đảng cộng sản. Hồ Chí Minh đã nói: "Cán bộ là
cái gốc của công việc" [38, tr. 269]. Do đó, họ cần phải được học tập lý luận
chính trị. Chỉ trên cơ sở được học tập, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin họ
mới có đầy đủ năng lực trí tuệ, hiểu biết một cách sâu sắc đường lối của


18

Đảng, chủ trương, chính sách của Chính phủ, phổ biến, truyền đạt rộng rãi
trong quần chúng nhân dân, hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện một
cách có hiệu quả. Không những thế việc học tập lý luận chính trị còn giúp cán
bộ rèn luyện, hình thành cho mình bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng, hoàn thành những mục tiêu cách mạng của Đảng.
Về sự cần thiết phải giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt, Mác - Ăngghen cũng đã từng đề cập đến. Các ông chỉ rõ sự cần thiết đó

vì những lý do sau:
- Để học thuyết Mác thấm sâu vào trong cuộc sống, phát huy được
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thì cần phải có những con người vận dụng
và thực hành nó. Vì "tư tưởng căn bản không thể thực hiện tốt được cái gì
hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng
thực tiễn" [32, tr. 181], đó là "bộ phận đứng trên xã hội", và bản thân họ "...
bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục" [33, tr. 10]. Vì, để trở
thành những nhà lãnh đạo giỏi, có khả năng xoay chuyển tình thế, thúc đẩy xã
hội phát triển, họ cần phải hiểu biết, nắm vững lý luận chính trị và có nghĩa
vụ phải nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nó. Về vấn đề này Lênin cũng đã
từng nói: "... cần phải làm sao để những tư tưởng đó (chủ nghĩa Mác) bắt rễ
sâu hơn vào một giới được rèn luyện hơn, và phải làm cho đội tiên phong
ấy… thấm nhuần những tư tưởng đó" [27, tr. 559].
Như vậy Mác, Ăngghen và Lênin - những lãnh tụ thiên tài của giai
cấp công nhân đã chỉ ra rất rõ: muốn chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi,
trở thành hiện thực trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải có lực lượng tiên
phong của giai cấp công nhân, đó là những cán bộ lãnh đạo. Đội ngũ này phải
được giáo dục, nhận thức, hiểu biết một cách sâu sắc về lý luận của chủ nghĩa
Mác. Trên cơ sở đó họ được nâng cao về bản lĩnh chính trị, năng lực chỉ đạo
hoạt động thực tiễn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
- Mác, Ăngghen và Lênin coi việc giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính


19

trị cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Đảng
cộng sản, đồng thời coi đây là điều kiện dẫn đến mọi thắng lợi của các phong
trào cách mạng. Về điều này, Ăngghen đã từng nói khi nhận xét về giai cấp
vô sản, cũng như khi nói đến nguyên nhân chậm phát triển của phong trào
công nhân ở Anh. Ông cho rằng, nhờ được giáo dục lý luận chính trị, giai cấp

vô sản "... sẽ có khả năng đảm nhận vai trò lãnh đạo nhờ sự hơn hẳn về lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn của mình" [25, tr. 484] và "… sự thờ ơ đối với
mọi lý luận, một trong những nguyên nhân chủ yếu giải thích tại sao phong
trào công nhân Anh tiến rất chậm, mặc dầu tổ chức tuyệt vời của một số công
đoàn cá biệt" [33, tr. 632].
- Bên cạnh việc tăng cường học tập, nghiên cứu lý luận, những cán bộ
lãnh đạo của Đảng còn cần phải phổ biến cho quần chúng nhân dân những
vấn đề mà mình đã rút ra được từ việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác,
đưa lý luận đó vào trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt đối với những người
làm công tác tư tưởng. Như Lênin đã nói:
Không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm
công tác lý luận.., cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư
tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự
nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân những kết luận
của lý luận đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại [26, tr. 382].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng đã hết sức quan tâm, chú trọng đến công
tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ. Người coi đây là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho Đảng vững mạnh, cho cách mạng giành được thắng lợi. Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "... Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa Mác
làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải làm theo chủ nghĩa
ấy" [37, tr. 259]. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho việc thực hiện truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã cho mở lớp bồi dưỡng lý
luận chính trị cho cán bộ. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc) với cuốn


20

sách giáo khoa lý luận đầu tiên - tác phẩm "Đường Kách mệnh" do chính
mình biên soạn, Người đã tổ chức lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
những hạt giống của cách mạng Việt Nam. Bằng những hạt giống này, với

phong trào "vô sản hóa" chủ nghĩa Mác - Lênin đã được tuyên truyền sâu
rộng trong giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Trong suốt
quá trình chỉ đạo cách mạng sau này, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở
cán bộ phải không ngừng học tập lý luận cách mạng và vận dụng sáng tạo lý
luận đó vào trong hoạt động thực tiễn. Người nói: "... mỗi cán bộ, mỗi đảng
viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế, phải
chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông" [38, tr. 234-235].
Vì theo Người, phải có lý luận mới hiểu được mọi công việc trong xã hội,
trong phong trào, để từ đó đề ra được chủ trương đúng và hành động đúng.
Mặt khác, học tập lý luận không chỉ nhằm không ngừng nâng cao
trình độ lý luận chính trị, mà còn để hình thành trong mỗi cán bộ những tư
tưởng, đạo đức cách mạng, giúp cho họ trở thành những con người vừa hồng
vừa chuyên - những tiêu chuẩn cơ bản mà mỗi người cán bộ phải có. Đương
nhiên, để việc học tập có hiệu quả cao phải có động cơ, phương pháp học tập
đúng đắn, phải có nội dung, chương trình học tập phù hợp, việc học tập phải
thật sự thiết thực phục vụ cho công tác trong hoạt động thực tiễn.
1.1.3.2. Đảng ta với vấn đề giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta đã nói:
Đảng ta tổ chức trường lý luận cho cán bộ là để nâng cao
trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm
vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể
làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách
mạng của mình [31, tr. 492].
Như vậy, mục tiêu trước hết mà vì nó Đảng phải đẩy mạnh công tác


21

giáo dục lý luận chính trị là để tạo ra sức mạnh cho Đảng, đảm bảo cho Đảng
lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Vì muốn mạnh, muốn hoàn thành nhiệm vụ

chính trị của mình thì Đảng phải tự trang bị cho mình lý luận Mác - Lênin,
một lý luận cách mạng khoa học; Đảng phải giáo dục mỗi cán bộ, đảng viên
của Đảng quán triệt, nắm vững những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa đó và thực
hành nó trong hoạt động thực tiễn. Với tinh thần đó, Đảng ta đã xác định rất
rõ mục tiêu của công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng là:
- Phải coi việc nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin cho cán bộ,
đảng viên là một việc làm thường xuyên của Đảng.
Đảng ta xác định phải tăng cường giáo dục lý luận Mác - Lênin cho
cán bộ, đảng viên. "Bởi vì lý luận Mác - Lênin soi đường cho toàn Đảng
trong công tác lãnh đạo cách mạng" [2, tr. 154]. Mặt khác, tăng cường giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên còn mang một ý nghĩa hết sức
quan trọng là nhằm củng cố khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, như Đại
hội III đã xác định: "Việc nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin trong cán bộ
và đảng viên là điều kiện chủ yếu để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, làm cho sự đoàn kết ấy có cơ sở khoa học thực sự vững chắc" [2, tr.
154]. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là yếu tố quyết định sự sinh tồn của
một Đảng. Sự đoàn kết đó chỉ thật sự được tăng cường trên cơ sở thống nhất
về tư tưởng và nó chỉ thực sự bền chặt khi được xác lập trên cơ sở khoa học.
Do đó để có sự thống nhất về tư tưởng, phải nâng cao trình độ lý luận chính
trị trong toàn Đảng. Đó là điều kiện cơ bản để củng cố tăng cường sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải "... thấy rõ rằng thái độ
của mình đối việc học tập và nghiên cứu lý luận Mác - Lênin chính là một
vấn đề thuộc về tính Đảng, một vấn đề có quan hệ đến sinh mạng của Đảng"
[4, tr. 154].
Ngoài mục tiêu cơ bản trên, công tác giáo dục lý luận của Đảng còn


22

nhằm đến một mục tiêu hết sức quan trọng đó là nâng cao năng lực, trình độ

của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Đối với
cán bộ chủ chốt - những người trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, trong
hoạt động thực tiễn, điều kiện cơ bản không thể thiếu là phải có năng lực
chuyên môn cao, bao gồm cả năng lực về lý luận và thực tiễn. Chỉ có như vậy
mới chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Muốn vậy, cán bộ phải được học
tập, đào tạo để nâng cao trình độ, trong đó giáo dục lý luận chính trị là một
yêu cầu cơ bản.
Do đó, đối với giáo dục lý luận chính trị ngoài việc tăng cường giáo
dục, học tập cho toàn Đảng, Đảng đặc biệt chú trọng đến đội ngũ cán bộ chủ
chốt. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã xác định rất rõ
điều này. Đại hội đã chỉ rõ:
Việc tổ chức học tập lý luận Mác - Lênin một cách hệ thống
trước hết trong cán bộ cao cấp và trung cấp là rất cấp bách để đảm
bảo cho cán bộ, đảng viên ta nắm được những hiểu biết cơ bản về
chủ nghĩa Mác - Lênin và biết sử dụng những hiểu biết đó vào việc
xem xét và giải quyết những vấn đề cụ thể… [4, tr. 154].
Vấn đề này càng được thể hiện rõ hơn trong các Nghị quyết về công
tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng. Nghị quyết số 210 của Ban Bí thư
(khóa III), Nghị quyết số 23 của BCHTW (khóa III) đã thể hiện rất rõ điều
này. Để nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đi đến thực hiện tiêu
chuẩn hóa từng loại cán bộ, Nghị quyết 210 của Ban Bí thư (khóa III) đã đề ra
nhiệm vụ biên soạn giáo trình và tiến hành giáo dục cán bộ, đảng viên theo
bốn cấp chương trình cơ bản: cơ sở, sơ cấp, trung cấp, cao cấp; tổ chức hệ
thống trường Đảng, ngoài trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương còn có các
trường Đảng trung cấp đào tạo theo các ngành kinh tế, các trường Đảng tỉnh,
trường Đảng huyện... Đồng thời, đề ra nhiệm vụ qui hoạch cán bộ với nội
dung quan trọng là tiêu chuẩn hóa trình độ lý luận chính trị của mỗi loại cán


23


bộ ở các chức vụ. Với tinh thần của Nghị quyết 210, Nghị quyết 23 của
BCHTW (khóa III) đã cụ thể hóa và xác định mục tiêu đến năm 1980 về học
tập lý luận đối với mỗi loại cán bộ, trong đó qui định rất rõ:
Đại bộ phận cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý cao cấp, trung
cấp, phải học xong chương trình lý luận cao cấp, đại bộ phận cán
bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý sơ cấp học xong chương trình lý
luận trung cấp. Tất cả cán bộ cơ sở học xong chương trình sơ cấp
và một bộ phận học xong chương trình trung cấp [5, tr. 22].
Các quyết định tiếp theo của Đảng về công tác giáo dục chính trị, như
Quyết định số 15 (ngày 2/1/1983) của Ban Bí thư (khóa V) "Về công tác các
trường Đảng", Quyết định số 30 (ngày 8/12 /1983) "Về tăng cường công tác
giáo dục lý luận chính trị tại chức cho cán bộ, đảng viên" đều là sự cụ thể hóa
và tiếp tục hoàn chỉnh, phát triển cao hơn tinh thần của các nghị quyết trên
với mục tiêu không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta càng coi trọng hơn công tác nghiên
cứu lý luận, cũng như giáo dục lý luận chính trị trong Đảng, Đảng coi đây là
một điều kiện quan trọng để hoàn thành những nhiệm vụ chính trị khó khăn,
phức tạp trong giai đoạn này. Nghị quyết 01 của BCT "Về công tác lý luận
trong giai đoạn hiện nay" (ngày 28/3/1992) đã khẳng định rất rõ: "Chưa bao
giờ thực tiễn đặt ra những đòi hỏi bức xúc đối với công tác lý luận như hiện
nay… lý luận thực sự khoa học là cơ sở để nâng cao vai trò tiên phong lãnh
đạo của Đảng trong hoạt động thực tiễn, là cơ sở để giáo dục lý tưởng, nâng
cao niềm tin" [8, tr. 26] và đặt ra yêu cầu:
Các cấp ủy Đảng phải thật sự coi trọng lý luận, thường
xuyên tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận, tăng cường giáo dục để
nâng cao trình độ lý luận cho đảng viên theo kịp yêu cầu của công
cuộc đổi mới. Bản thân cán bộ lãnh đạo phải có chế độ thường
xuyên học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận [8, tr. 27].



24

Đặc biệt trong những năm gần đây, đứng trước hiện trạng "... suy thoái
về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ
phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn" [12, tr.
24], Đảng đã xác định việc học tập lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên
trở thành chế độ bắt buộc, coi "tinh thần và kết quả học tập lý luận chính trị
là một tiêu chuẩn để xem xét, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ" [12, tr. 24]. Cùng với
các nghị quyết về công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận chính trị, các
nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ như Nghị quyết 225 của BCT "Về
công tác cán bộ trong giai đoạn mới" (ngày 20/3/1973), Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đều nhấn mạnh đến
việc nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ là một trong những tiêu
chuẩn phải có đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Như vậy, toàn bộ nghị quyết của Đảng về công tác giáo dục lý luận
chính trị, cũng như công tác cán bộ là một tổng thể hoàn chỉnh từ mức độ thấp
đến những yêu cầu cao, phù hợp với quá trình phát triển của cách mạng nhằm đào
tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao, năng lực tư
duy hoàn thiện, có khả năng đảm đương, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời kỳ
mới.
- Phải thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
lý luận chính trị cho cán bộ
Tại Đại hội IX, Đảng ta đã xác định phải: "Xây dựng chỉnh đốn hệ
thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý
các cấp, chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập" [13, tr.
142].
Cụ thể hóa yêu cầu này, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng
cũng đã chỉ rõ: "Cần đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp

dạy và học lý luận, coi trọng chất lượng và tính hiệu quả" [14, tr. 135]. Kết


25

luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) tiếp tục nhấn mạnh: "Trên cơ sở
qui hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo chức danh và cán
bộ nguồn, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo…" [15, tr. 231].
Từ những yêu cầu trên của Đảng đối với công tác giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ cho thấy, Đảng ta không chỉ quan tâm, đẩy mạnh giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ về mặt số lượng trên diện rộng, mà còn đặc
biệt chú trọng đến chất lượng công tác này. Đảng coi đây là yêu cầu quan
trọng hiện nay. Vì chỉ trên cơ sở nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lý
luận chính trị, mới có thể nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
trên các mặt năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như phẩm chất, đạo
đức cách mạng. Những tiêu chuẩn cơ bản không thể thiếu đối với cán bộ lãnh
đạo trong thời kỳ mới.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ,
Đảng yêu cầu phải chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập,
đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học lý luận.
Tất cả sự quan tâm, chú trọng của Đảng đối với công tác giáo dục lý
luận chính trị ở trên cho thấy Đảng ta đã nhận thức hết sức đúng đắn vai trò
của lý luận đối với hoạt động thực tiễn, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ chủ
chốt - lực lượng nòng cốt của Đảng.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG
CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NÀY

1.2.1. Một số quan niệm về cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã

Về cán bộ, Hồ Chí Minh đã từng đưa ra khái niệm rất cụ thể. Theo
Người, cán bộ là "người đem đường lối chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng được rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của


×