Tải bản đầy đủ (.doc) (218 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ QUÁ TRÌNH đổi mới CÔNG tác GIÁO dục CHÍNH TRỊ tư TƯỞNG CHO cán bộ ĐẢNG VIÊN ở cơ sở TRONG CUỘC đấu TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN hòa BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.02 KB, 218 trang )

5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân
tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn và gian khổ
nhưng đã giành được thắng lợi rất vẻ vang.
Với những thắng lợi vĩ đại đã giành được trong thế kỷ XX,
nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa
có quan hệ quốc tế rộng rãi, có tiếng nói và vị trí ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ
đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đang bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [36, tr. 12].
Thực tiễn đó khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin (CN M-LN) và tư tưởng Hồ Chí Minh
(TT HCM), cơ sở lý luận khoa học và cách mạng, nền tảng tư tưởng của Đảng
và của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là kết quả và thắng lợi của quá trình tổ
chức giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng, trong đó công tác giáo dục chính trị tư tưởng (GDCTTT) giữ vai trò
quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức chính trị, ý thức tự giác của cán bộ,
đảng viên và nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh
đạo.
Hiện nay, nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện vì
chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là sự nghiệp cách
mạng vĩ đại nhưng đầy khó khăn, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Chúng ta vừa
làm, vừa tìm tòi khảo nghiệm, thể nghiệm và rút kinh nghiệm. Vì vậy, đòi hỏi



6

cán bộ, đảng viên và nhân dân phải nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, thống
nhất ý chí và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc (ĐLDT) và
CNXH, vượt qua mọi khó khăn thách thức giành thắng lợi trong công cuộc
đổi mới.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta được tiến hành trong điều kiện quốc tế có
những thuận lợi và cơ hội lớn, song cũng không ít khó khăn, thách thức với
những nguy cơ không thể xem thường. Một trong những nguy cơ đó là sự phá
hoại về nhiều mặt, với những âm mưu và thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt
rất thâm hiểm của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) bằng chiến lược "Diễn biến
hòa bình" ("DBHB"), trong đó chúng tập trung phá hoại về tư tưởng - văn hóa
coi đó là mũi nhọn của cuộc tiến công. Vì vậy, chúng ta càng cần đẩy mạnh,
tăng cường công tác GDCTTT cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác GDCTTT từ những năm đổi mới (1986) đến nay đã có nhiều
cố gắng đổi mới về cả nội dung, hình thức và phương pháp, góp phần quan
trọng và trực tiếp vào việc nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng. Tuy nhiên, công tác GDCTTT cũng còn những
hạn chế biểu hiện trên những mặt sau:
+ Công tác GDCTTT chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều cấp đặc
biệt là tại cơ sở.
+ Việc đổi mới công tác GDCTTT còn chậm, kể cả nội dung, hình
thức, nhất là phương pháp.
+ Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác GDCTTT ở cấp huyện (quận)
còn thiếu và yếu.
+ Nhiều cơ chế chính sách cụ thể chưa được tháo gỡ, kịp thời, kinh
phí đầu tư hạn hẹp, phương tiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn chưa đáp ứng
yêu cầu của công tác GDCTTT trong tình hình mới.



7

Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ, chưa chịu khó
học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ chính trị. Vì vậy, nhận thức thời cuộc
một cách chung chung, mơ hồ. Một bộ phận chạy theo lợi ích kinh tế, ít quan
tâm đến chính trị. Một số sa ngã, phai nhạt lý tưởng, thậm chí có người phản
bội sự nghiệp cách mạng. Nhưng nguy hại nhất hiện nay là tính tiền phong
gương mẫu, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của một bộ phận đảng viên bị
giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng tới việc thực hiện đường lối chủ trương,
quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho lòng tin của quần
chúng vào Đảng bị ảnh hưởng.
Cách mạng Việt Nam đang ở trong bước ngoặt với những điều kiện và
yêu cầu mới. Kinh nghiệm đã chỉ cho chúng ta thấy rằng: trong những bước
ngoặt quyết định của cách mạng. "Cần có sự thống nhất ý chí và hành động,
nếu nhận thức đúng và giải quyết tốt sẽ thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn,
phát triển mạnh mẽ và bền vững; nhưng nếu nhận thức không đúng, giải quyết
không tốt thì tình hình sẽ phức tạp hơn nhiều" [39, tr. 17].
Để nhận thức đúng và giải quyết tốt đòi hỏi nhiều lĩnh vực công tác
tham gia, trong đó có sự đóng góp lớn của công tác GDCTTT.
Như vậy, yêu cầu khách quan vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay của
cách mạng Việt Nam đòi hỏi cần phải tăng cường mạnh mẽ, đổi mới sâu sắc
và toàn diện công tác GDCTTT. Đây không chỉ là yêu cầu của cách mạng
Việt Nam mà còn là yêu cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
bởi lẽ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa (XHCN), sẽ góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, ĐLDT dân chủ và tiến bộ xã hội; vì Đảng Cộng sản Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài



8

Công tác GDCTTT được Đảng ta xác định: Đây là một trong những
công tác trọng tâm. Vì vậy, nhiều Nghị quyết của Đảng đã nêu ra yêu cầu,
phương hướng cải tiến, đổi mới công tác GDCTTT. Các đồng chí lãnh đạo
của Đảng qua các thời kỳ đã có những bài viết, bài nói, những tác phẩm có tính
chất tổng kết, chỉ đạo, như các đồng chí: Đỗ Mười, Đào Duy Tùng, Lê Khả
Phiêu và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, các bài viết của các đồng chí Nguyễn
Đức Bình, Nguyễn Phú Trọng. Các đồng chí lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn
hóa: Nguyễn Khoa Điềm, Trần Trọng Tân, Hữu Thọ, Hà Học Hợi, Đào Duy
Quát... Đây là nguồn tư liệu để tác giả luận án nghiên cứu.
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương trong tổng kết hàng năm, nhất
là tổng kết 5 năm đã có những đánh giá về tình hình tư tưởng và công tác tư
tưởng, trong đó có một phần về công tác GDCTTT...
- Vụ Giáo dục lý luận chính trị của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương trong hoạt động chỉ đạo đã tiến hành những đợt khảo sát thực tế; tổng
kết rút kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở (một nhiệm
vụ chính của công tác GDCTTT). Qua đó, đã góp phần cải tiến, đổi mới từ
khâu xây dựng đến việc chỉ đạo thực hiện các chương trình giáo dục lý luận
chính trị, bước đầu đã có những đổi mới về hình thức và phương pháp.... được
cơ sở thực hiện và vận dụng mang lại những kết quả tích cực.
- Đề tài khoa học "Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tư tưởng" thuộc chương trình KHXH 05-02 do PGS Hà Học Hợi làm chủ
nhiệm đã đi sâu nghiên cứu tương đối toàn diện các vấn đề thuộc lĩnh vực
công tác tư tưởng mà tác giả luận án có thể nghiên cứu.
- Về chiến lược "DBHB" đã có những công trình của cá nhân và tập
thể nghiên cứu được công bố rộng rãi hoặc lưu hành nội bộ... Gần đây, có một

số cán bộ nghiên cứu đã hoàn thành về cơ bản tài liệu: chống "DBHB" trên
mặt trận tư tưởng - văn hóa của các thế lực thù địch trong tình hình mới và tài


9

liệu "Phân tích âm mưu thủ đoạn "Diễn biến hòa bình" chống phá về tư
tưởng - văn hóa". Những tài liệu trên đã tổng hợp phân tích các số liệu tập
hợp cả trong nước và ngoài nước sẽ giúp cho tác giả luận án rõ hơn nhiều vấn
đề về mức độ, thủ đoạn và tính chất quyết liệt trong cuộc đấu tranh chống
"DBHB" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
- Một số luận án tiến sĩ với các đề tài như:
+ Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng trong quân đội
trước yêu cầu của cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay, Tác giả
Nguyễn Văn Cần, Học viện Chính trị Quân sự, 2001.
+ Luận án PTS của Nguyễn Đình Đức với đề tài: Những yếu tố khách
quan và chủ quan tác động tư tưởng chính trị của sinh viên. Thực trạng và
giải pháp, Hà Nội năm 1996....
- Một số tài liệu, sách báo nước ngoài cũng đã đề cập một số vấn đề có
liên quan đến đề tài:
+ "Những nguyên lý tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản" (2 tập), của tập
thể tác giả Liên Xô trình bày, được Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin Việt
Nam dịch và xuất bản vào năm 1983.
+ Gần đây, các học giả Trung Quốc cũng có một số bài nghiên cứu,
đáng lưu ý có bài của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch
Dân phát biểu tại Hội nghị công tác chính trị tư tưởng, ngày 28/6/2000 đã
được giới thiệu trên Tạp chí "Thông tin công tác tư tưởng" số 10 - năm 1999.
Những công trình, những bài viết đã tiếp cận với công tác GDCTTT ở
nhiều khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào
tổng kết một cách toàn diện, chuyên sâu công tác GDCTTT nhất là trong

những năm đổi mới, đặc biệt nghiên cứu dưới góc độ của phong trào cộng
sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc - tức là nghiên cứu vai trò


10

của công tác GDCTTT trong việc tác động vào phong trào chính trị - xã hội ở
cơ sở, đưa yếu tố tự giác vào phong trào cách mạng của quần chúng.
Vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện vấn đề sẽ góp
phần làm rõ vai trò công tác GDCTTT, trong việc nâng cao nhận thức chính
trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc và tiến bộ xã
hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án
- Góp phần làm rõ vị trí, vai trò của công tác GDCTTT nhằm nâng cao
tính tự giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân, thực hiện nhiệm vụ chính trị,
góp phần đấu tranh làm thất bại chiến lược "DBHB" của CNĐQ.
- Làm rõ quá trình đổi mới công tác GDCTTT, thành tựu và hạn chế.
- Đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
GDCTTT ở cơ sở, đấu tranh chống "DBHB".
Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có các nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số khái niệm có liên quan: tư tưởng, chính trị, chính trị
tư tưởng, công tác GDCTTT, công tác giáo dục lý luận chính trị...
+ Làm rõ, khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công tác GDCTTT
trong việc nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện
nhiệm vụ chính trị, đấu tranh làm thất bại chiến lược "DBHB" của CNĐQ.
+ Trình bày quá trình đổi mới công tác GDCTTT của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Phân tích thực trạng của công tác GDCTTT hiện nay ở cơ sở,
thành tựu và hạn chế, nguyên nhân.


11

+ Trình bày yêu cầu khách quan đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, tăng
cường công tác GDCTTT ở cơ sở.
+ Đề xuất những giải pháp chủ yếu để đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác GDCTTT ở cơ sở.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu quá trình thực hiện công tác GDCTTT cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân nhằm nâng cao tính tự giác cách mạng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, đấu tranh chống "DBHB".
Thời gian nghiên cứu quá trình đổi mới công tác GDCTTT chủ yếu
thực hiện từ năm 1986 đến nay, có phần liên hệ với thời gian trước đó để so
sánh. Nghiên cứu trên phạm vi cả nước nhưng chọn một số địa phương tiêu
biểu đại diện cho các khu vực, các vùng, miền để khái quát.
Nội dung của công tác GDCTTT tiến hành rất rộng và toàn diện, luận
án tập trung nghiên cứu vấn đề cơ bản, cốt lõi là giáo dục lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Công tác GDCTTT có nhiều hình thức phương pháp, luận án đi sâu
nghiên cứu hình thức và phương pháp tổ chức giáo dục, bồi dưỡng, mà hiện
nay Đảng ta đang tiến hành để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên. Đó
là công tác giáo dục lý luận chính trị.
Tình hình đội ngũ cán bộ thực hiện công tác giáo dục lý luận chính trị
ở cơ sở (Ban Tuyên giáo, Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện).
- Về chiến lược "DBHB", luận án đi sâu nghiên cứu một số nội dung,
thủ đoạn và phương thức hoạt động của CNĐQ và các thế lực thù địch sử
dụng chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nhất là

trong những năm gần đây...
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


12

Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của CN M-LN, TT HCM,
đường lối, quan điểm của Đảng về công tác GDCTTT. Tác giả luận án đi sâu
nghiên cứu qua các báo cáo tổng kết, sơ kết của Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương và các cơ quan chức năng theo dõi chỉ đạo và thực hiện công tác
GDCTTT ở Trung ương và địa phương.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tác giả luận án
vận dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, lịch sử và lôgíc, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp thống kê, so
sánh để làm rõ nội dung.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần làm rõ khái niệm về công tác GDCTTT, mối quan
hệ giữa công tác GDCTTT với các lĩnh vực khác của công tác tư tưởng.
Bước đầu đưa ra những nguyên tắc, tiêu chí đánh giá hiệu quả của
công tác GDCTTT ở cơ sở. Đề xuất những giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả của công tác GDCTTT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, góp phần đấu tranh làm
thất bại chiến lược "DBHB" của các thế lực thù địch.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án góp thêm kinh nghiệm để đội ngũ cán bộ thực hiện công tác
GDCTTT, nhất là ở cấp cơ sở có thể tham khảo, vận dụng nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên thực hiện thắng lợi đường lối đổi
mới, đấu tranh làm thất bại chiến lược "DBHB".
Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác

nghiên cứu, giảng dạy triết học, chính trị học, xây dựng Đảng, công tác tư
tưởng trong hệ thống các trường Đảng và trường Nhà nước.
8. Kết cấu của luận án


13

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án có 3 chương, 9 tiết.


14

Chương 1
CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG VỚI VIỆC
NÂNG CAO TÍNH TỰ GIÁC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN Ở CƠ SỞ ĐẤU TRANH CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH"

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TƯ TƯỞNG

Thuật ngữ "công tác giáo dục chính trị tư tưởng" đã được sử dụng rất
phổ biến trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều tài liệu, sách
báo trong nước và nước ngoài cũng đề cập. Đó là một thuật ngữ được nhiều
môn khoa học sử dụng như: Xây dựng Đảng, Công tác vận động quần chúng,
Chính trị học,... Tùy theo tính chất, đặc điểm, mục đích, yêu cầu nghiên cứu
mà có cách khai thác và tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm
về công tác GDCTTT chưa được xác định rõ, kể cả tài liệu của Liên Xô trước
đây, cũng như ở nước ta hiện nay. Trong đề tài cấp Nhà nước: "Đổi mới và
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng", mã số KHXH 05-02, bước

đầu đề cập đến một hệ thống khái niệm, nhưng cũng chưa có khái niệm về
công tác GDCTTT. Đây là một khó khăn cho tác giả luận án. Nhưng mặt
khác, trong thực tế hàng ngày, chúng ta thường sử dụng thuật ngữ này theo
nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, cần phải làm rõ về nội dung khái niệm để đạt
hiệu quả trong công tác.
Dưới góc độ của phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc, luận án tiếp cận với công tác GDCTTT như một công cụ, một
phương thức để đưa yếu tố tự giác vào phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thông qua hoạt động của đội tiền phong của
giai cấp - đó là Đảng Cộng sản.
Với cách tiếp cận đó cho thấy, công tác GDCTTT luôn luôn gắn liền
với cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Lịch sử xã hội loài người từ


15

khi phân chia giai cấp đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu
tranh đó, các giai cấp đều tiến hành công tác GDCTTT, coi đó là vũ khí sắc
bén, một phương thức hữu hiệu nhằm giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của
mình, làm cho nó trở thành hệ tư tưởng thống trị trong toàn xã hội để bảo vệ
lợi ích và duy trì sự thống trị của chủ thể hệ tư tưởng.
Để hiểu rõ khái niệm, nội dung của công tác GDCTTT cần làm rõ một
số khái niệm như chính trị, tư tưởng... và một số vấn đề có liên quan đến
chính trị tư tưởng.
1.1.1. Khái niệm về chính trị và một số vấn đề của chính trị
Trước hết, cần thấy rằng, chính trị là một lĩnh vực đặc biệt, rất phức
tạp, nó liên quan đến lợi ích trực tiếp của các giai cấp và các lực lượng xã hội
nên có nhiều cách tiếp cận và nhìn nhận khác nhau. Trong Từ điển bách khoa
triết học của Liên Xô trước đây cho rằng: Chính trị theo nguyên nghĩa của nó,
là những công việc của Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn liền với những

quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
- Trong Từ điển triết học giản yếu của Việt Nam, Nhà xuất bản Đại
học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản năm 1987, cho rằng: Chính trị là
lĩnh vực hoạt động gắn liền với mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và
các tập đoàn xã hội khác nhau mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và sử dụng
chính quyền nhà nước.
- Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển Việt Nam, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội xuất bản năm 1994, cho rằng: Chính trị là những vấn đề
thuộc về tổ chức điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và quan
hệ quốc tế về mặt nhà nước giữa các nước với nhau...
Những quan niệm trên đã nêu lên bản chất chính trị là tính giai cấp,
mối quan hệ và mục tiêu của các giai cấp, các lực lượng chính trị trong việc


16

giành quyền điều khiển nhà nước. Mặt khác, để đánh giá sự tiến bộ của xã hội
thông qua việc thực hiện dân chủ mà dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất, triệt để
nhất là quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước. Vì vậy, Lênin cho
rằng: Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước;
"chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản" [63, tr. 482].
Khi xem xét nguồn gốc, bản chất chính trị về mặt lợi ích, Lênin lại cho rằng:
chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Khi tiếp cận chính trị với tư cách hình thức hoạt động nhằm duy trì
quyền lực chính trị có thể thấy: chính trị là những hoạt động tổ chức, điều
hành, quan hệ của bộ máy của Đảng, của Nhà nước. Vì vậy chính trị có thể
hiểu là:
Những hoạt động của một số cá nhân, một giai cấp, một chính đảng,
một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành bộ máy nhà

nước, giành quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị được thể hiện bằng việc tổ chức ra nhà nước để
thống trị xã hội theo quan điểm của một giai cấp nhất định, nhằm bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp mà quyền lợi đó biểu hiện tập trung đầy đủ nhất là lợi
ích kinh tế. Tùy theo tính chất, đặc điểm và sự tiến bộ của giai cấp thực hiện
cuộc đấu tranh cách mạng mà nền dân chủ được thực hiện sâu sắc và triệt để
đến mức độ như thế nào đối với toàn xã hội. Mức độ và sự tiến bộ đó thể hiện
bằng sự tham gia của quần chúng nhân dân vào việc thực thi quyền lực của
nhà nước, giành quyền lực chính trị.
Mặt khác, khi tiếp cận chính trị với tư cách là những hoạt động để
giành và giữ chính quyền, hoạt động chính trị có những dạng sau: hoạt động
của một tổ chức, một đảng của giai cấp nhằm hình thành quan điểm, đường
lối để giành và giữ chính quyền; những hoạt động tổ chức thực hiện - hiện
thực hóa quan điểm, đường lối; những hoạt động nhằm nâng cao tính tự giác
của quần chúng để nhận thức đường lối, quan điểm của Đảng.


17

- Những hoạt động giáo dục về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh
của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển
bộ máy nhà nước.
- Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng,
tổ chức quần chúng thực hiện đường lối và những nhiệm vụ chính trị nhất
định. Đó là quá trình tác động, nâng cao nhận thức của quần chúng cách mạng
về mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ với những hình thức, phương pháp và
phương tiện thích hợp của các giai cấp nhằm quy tụ, tập hợp quần chúng đi
theo mình để thực hiện mục tiêu của cuộc đấu tranh giai cấp đặt ra.
Như vậy, có thể thấy, chính trị là vấn đề đa dạng, phức tạp, nhiều mối
quan hệ, nhiều lĩnh vực nghiên cứu xem xét và sử dụng theo mục đích, yêu cầu

riêng của từng môn khoa học. Song, điều quan trọng của tất cả những vấn đề
liên quan đến chính trị, thực hiện được mục đích của chính trị, tức là giành được
quyền lực chính trị của giai cấp này hoặc giai cấp khác đối với toàn xã hội.
Vậy, có thể hiểu chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các cộng
đồng xã hội trong vấn đề chính quyền nhà nước; là sự tham gia của nhân dân
vào các công việc của nhà nước; là tổng hợp những phương thức, phương
pháp, những hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái để giành, giữ
và điều khiển hoạt động của nhà nước để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.
Để đạt được mục đích đó đòi hỏi các giai cấp phải tiến hành công tác
giáo dục nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, làm cho quần
chúng nhận thức đầy đủ về mục đích, đường lối, nhiệm vụ của cách mạng.
Từ đó, tổ chức quần chúng thực hiện đường lối và những nhiệm vụ nhất định
theo yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Điều đó có nghĩa là
làm cho hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội để duy trì và bảo vệ chế độ kinh tế hiện đang
tồn tại hoặc ngược lại, nó hướng dẫn cuộc đấu tranh để xóa bỏ cái trật tự
thống trị xã hội đang có nhưng đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lịch sử,


18

cùng với nó là xóa bỏ tình trạng kinh tế tương ứng để giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp.
Với góc độ của môn Phong trào cộng sản, công nhân và phong trào
giải phóng dân tộc, qua thực tiễn của Việt Nam luận án tiếp cận đến chính trị
với tư cách là những hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - nhằm giác ngộ, nâng cao nhận
thức cho quần chúng nhân dân trong đó cán bộ, đảng viên cơ sở, lực lượng
nòng cốt của cách mạng Việt Nam để lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân
thực hiện mục đích của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam XHCN.
1.1.2. Khái niệm về tư tưởng
Thuật ngữ "Tư tưởng" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: Idéa (hình
tượng). Cho đến nay, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm
nay. Từ điển Triết học giản yếu năm 1987 định nghĩa: Tư tưởng là hình thức
phản ánh thế giới bên ngoài, trong đó bao hàm sự ý thức về mục đích và triển
vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài... Mọi tư tưởng
đều được rút ra từ kinh nghiệm. Chúng là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh
xuyên tạc hiện thực...
Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1994 cho rằng: Tư tưởng là quan
điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan, đối với xã
hội (nói tổng quát) và vì vậy có tư tưởng tiến bộ, tư tưởng lạc hậu.
Trong Tạp chí Cộng sản số 3/1993, mục Tìm hiểu khái niệm cho rằng:
Tư tưởng là những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tượng được
phản ánh trong ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con người đối với thế giới
xung quanh. Tư tưởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con
người quyết định. Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong cơ sở kinh tế,
trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội.


19

Tư tưởng biểu hiện lợi ích vật chất của các giai cấp trong xã hội. Tư
tưởng mang tính lịch sử, không có tư tưởng tồn tại vĩnh viễn và chung cho
mọi người.
Trong đề tài cấp nhà nước KHXH-05-02 cho rằng: Tư tưởng theo
nghĩa rộng, nghĩa chung nhất là một hình thái của ý thức xã hội được hình
thành một cách bền vững, sâu sắc trong tâm trí con người, có tác dụng lôi
cuốn mạnh mẽ, hướng dẫn hành động của con người trong một thời gian
tương đối dài. Tư tưởng hướng hành động tới đích đã vạch ra.

Tư tưởng theo nghĩa hẹp là một hình thái cụ thể của ý thức xã hội, ý
thức cá nhân con người, phản ánh tính chất phong phú, đa dạng trong ý thức
và hướng hành động của con người. Nói đến tư tưởng có thể là tư tưởng
chung của cộng đồng, của một giai cấp hay của một bộ phận nhỏ của giai cấp.
Nhưng tư tưởng cũng có thể là tư tưởng của cá nhân con người (xem một số
khái niệm thuộc lĩnh vực tư tưởng văn hóa, Đề tài KX 05-02).
Như vậy, những luận điểm trên cho thấy sự đa dạng, đa diện của tư
tưởng, nhưng cái chung nhất của tư tưởng là sự phản ánh khái quát hiện thực
khách quan trong ý thức, biểu hiện những lợi ích của con người, của giai cấp
và của xã hội. Đó là ý thức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng khái quát, phản
ánh lợi ích của một con người, một tập đoàn, một giai cấp, một dân tộc, một
thời đại nhất định. Sự phản ánh đó có thể đúng và chưa đúng, thậm chí có thể
sai. Vì vậy, có tư tưởng tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội; có tư tưởng lạc
hậu và cả tư tưởng phản động, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Do đó, trong
xã hội có giai cấp luôn có sự đấu tranh giữa các giai cấp về mặt tư tưởng để
truyền bá tư tưởng của giai cấp mình nhằm mục đích tập hợp quần chúng,
giác ngộ họ theo quan điểm tư tưởng của giai cấp mình, tạo nên sức mạnh
hành động, giành thắng lợi trong đấu tranh giai cấp.
Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Tất cả các cuộc đấu tranh trong lịch sử không kể nó diễn ra trên địa hạt chính trị, tôn giáo, triết học, hay trên bất cứ


20

một địa hạt chính trị tư tưởng nào khác - thực ra chỉ biểu hiện ít nhiều rõ rệt
của cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội" [73, tr. 373]. Nội dung của
cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực chính trị tư tưởng chủ yếu là cuộc đấu
tranh giữa hai ý thức hệ tư tưởng: hệ tư tưởng của giai cấp thống trị và hệ tư
tưởng của giai cấp bị thống trị.
Vậy, hệ tư tưởng là quá trình phát triển của tư tưởng xã hội được các
nhà tư tưởng của giai cấp khái quát hóa, hệ thống hóa tư tưởng của giai cấp

mình thành lý luận và các học thuyết chính trị - xã hội, là cơ sở để vạch ra
cương lĩnh, đường lối cũng như các chủ trương, chính sách của các giai cấp;
đồng thời, nó còn là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng
của giai cấp đối lập. Ph. Ăngghen cho rằng: Hệ tư tưởng là một quá trình do
con người mệnh danh là nhà tư tưởng đã hoàn thành một cách có ý thức. Khi
nói tư tưởng có thể có tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, một giai
cấp,... nhưng khi nói đến hệ tư tưởng thì bao giờ cũng thuộc về một giai cấp
nhất định (hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư sản, hệ tư tưởng vô sản,...).
Trong đó mỗi cá nhân con người trong mỗi thời đại nhất định có một bộ phận
tự nhận thức nhưng phần lớn do giáo dục, truyền bá, phổ biến của chủ thể hệ
tư tưởng. Hệ tư tưởng trong xã hội có giai cấp phản ánh lợi ích của các giai
cấp thông qua đội ngũ các nhà tư tưởng của giai cấp, nhưng hệ tư tưởng có
tính độc lập tương đối. Hệ tư tưởng tiến bộ, hệ tư tưởng khoa học có tác dụng
chỉ ra con đường phát triển của thời đại của một giai cấp, một dân tộc,... và
ngược lại, hệ tư tưởng lạc hậu, phản động, ngụy biện, phản khoa học sẽ cản
trở sự phát triển của lịch sử của thời đại cũng như của mỗi dân tộc.
Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng chân
chính thể hiện lợi ích sống còn của giai cấp công nhân, lợi ích đó phù hợp
với lợi ích của đa số nhân dân lao động đang khát khao hòa bình, ĐLDT và
tiến bộ xã hội; là hệ thống thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện
chứng về xu thế vận động phát triển của xã hội, về mục tiêu và nhiệm vụ cao


21

cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội mà cuộc đấu tranh đó cuối cùng
là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập, xây dựng và không ngừng phát
triển xã hội XHCN, một chế độ đảm bảo đầy đủ, toàn diện quyền làm chủ
của con người.
Hệ tư tưởng Mác - Lênin sở dĩ có ảnh hưởng lớn đến ý thức xã hội, vì

nó chỉ rõ con đường và những biện pháp để xây dựng CNXH, một chế độ xã
hội vì con người và giải phóng con người. CNXH hiện thực đã tỏ rõ tính ưu
việt của nó trong thực tế. Cho đến nay, dẫu rằng chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu đã sụp đổ khiến cho CNXH thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái
trào, song điều đó không có nghĩa đó là sự sụp đổ của chính CNM-LN. Kẻ thù
của CNXH thì hí hửng reo lên: đây là sự sụp đổ "tất yếu", không thể tránh
khỏi của một chế độ "lỗi thời"... và chúng quả quyết rằng đó là sự sụp đổ của
CNM-LN - một học thuyết sai lầm, đầy ảo tưởng; rằng CNXH là một bước đi
lầm lạc của lịch sử tất nhiên phải sụp đổ...
Chúng ta hiểu rằng, sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các
nước Đông Âu vừa qua là một tổn thất lớn chưa từng có đối với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng như các dân tộc
trên thế giới đang đấu tranh cho độc lập tự do. Nhưng đây không phải là lần
đầu tiên phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới lâm vào khủng hoảng. Kinh nghiệm thực tế cho ta thấy, sau những
lần gặp khó khăn, thậm chí có bước thụt lùi tạm thời của phong trào cách
mạng, giai cấp công nhân có thêm những bài học kinh nghiệm và lấy lại sức
để có bước phát triển với tầm cao mới mạnh mẽ hơn, rộng lớn hơn; chắc chắn
rằng qua "trận động đất chính trị", "trận cuồng phong chính trị" như một số
học giả phương Tây đã viết, những người cộng sản sẽ rút ra những kinh
nghiệm bổ ích và cần thiết, sẽ khôn ngoan hơn, vững vàng hơn nữa về bản
lĩnh chính trị để đưa phong trào XHCN phục hồi và phát triển vì đó là quy
luật của lịch sử không gì ngăn cản nổi.


22

Chúng ta hãy đánh giá lịch sử cách mạng thế giới cũng như lịch sử
Việt Nam đúng như những gì đã diễn ra gần một thế kỷ qua cho thấy:
- Nếu không có hệ tư tưởng Mác - Lênin, không có Cách mạng tháng

Mười Nga, thì chắc chắn nhân loại sẽ không có sự thay đổi như ngày nay.
Mặc dù, hiện nay chỉ còn một số nước XHCN với sự phát triển khác nhau,
nhưng nó vẫn tồn tại như là một lực lượng mà CNĐQ ra sức chống phá với
mọi âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc nhưng vẫn không loại bỏ được CNXH.
- Nếu không có CNM-LN, hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, thâm nhập vào Việt Nam thông qua sự truyền bá,
giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cán bộ cách mạng của
Đảng, dân tộc Việt Nam sẽ không có thắng lợi to lớn, vị thế và uy tín quốc tế
ngày càng được nâng cao như hiện nay.
Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhưng điều
đó không có nghĩa là sự sụp đổ của hệ tư tưởng Mác - Lênin, trên một ý nghĩa
nhất định sẽ càng làm cho chúng ta thấy rõ tính khoa học và cách mạng của
học thuyết đó. Bởi vì, học thuyết đó là sự gắn bó không thể tách rời, sự thống
nhất hữu cơ bên trong giữa phương pháp và lý luận, giữa thế giới quan và
phương pháp luận mà linh hồn sống của nó là phép biện chứng duy vật. Điều
đó cho thấy CNM-LN luôn luôn là học thuyết mở, luôn được bồi đắp và phát
triển. Với đặc tính đó, hệ tư tưởng Mác - Lênin luôn luôn đề cao và có khả
năng tự phê phán, nó không phải là mảnh đất cho sự giáo điều rập khuôn,
cứng nhắc. Điều này chúng ta có thể tìm thấy trong các tác phẩm của Mác Ăngghen cũng như Lênin sau này.
Qua tổng kết sự kiện lịch sử đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850,
Mác - Ăngghen nêu rõ: Lịch sử đã chứng minh rằng chúng tôi và tất cả những
ai nghĩ giống như chúng tôi đều sai lầm. Lịch sử đã chỉ rõ rằng trạng thái phát
triển kinh tế trên lục địa bấy giờ còn rất lâu mới chín muồi để xóa bỏ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.


23

Năm 1872, Mác - Ăngghen đã nhận định rằng: Mặc dầu hoàn cảnh đã
thay đổi nhiều trong 25 năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những

nguyên lý trình bày trong Tuyên ngôn này, vẫn còn hoàn toàn đúng. Ở đôi
chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã
giải thích rõ rằng: Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên
lý đó phải tùy thuộc hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá
câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này,
ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt cũng phải viết khác đi vì lịch sử đã thay
đổi. Từ đó, Mác - Ăngghen rút ra kết luận về sự cần thiết phải thay đổi
phương pháp đấu tranh.
Bước sang thế kỷ thứ XX, Lê-nin kế tục sự nghiệp của Mác-Ăngghen,
đã phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới - khi chủ nghĩa tư bản
(CNTB) đã chuyển sang CNĐQ. Lê-nin kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác
trên những nguyên lý cơ bản, trong bản chất khoa học và cách mạng của nó.
Nhưng, căn cứ vào hoàn cảnh đã thay đổi, Lênin đã đưa ra những nhận định,
những kết luận, những dự đoán mới, trong đó có những dự đoán trái ngược
với dự đoán của Mác- Ăngghen. Lý do đưa Lê-nin đi đến những kết luận
mới, những dự đoán mới, vì hoàn cảnh lịch sử đã có những thay đổi, đã xuất
hiện những khả năng mới do điều kiện mới tạo ra. Trong điều kiện đó mà
vẫn nói như Mác đã nói trước đây thì đấy chính là sự phản mácxít.
Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội
chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành người lạc hậu đối với cuộc sống [51, tr. 232].
Chính vì sự máy móc, rập khuôn, cứng nhắc trong quá trình xây dựng
CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây đã dẫn đến sai lầm, đó là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của chế độ XHCN.


24


Thực tế đó cho thấy, hệ tư tưởng Mác - Lênin có giá trị to lớn đối với
tiến trình phát triển của lịch sử thế giới cũng như đối với dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam luôn xác định CNMLN, TT HCM là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của cách
mạng.
Tuy nhiên, Đảng ta đã nhiều lần nêu rõ: trung thành với CNM-LN
nhưng phải biết vận dụng sáng tạo và phát triển nó vào hoàn cảnh cụ thể. Có
như vậy học thuyết đó mới có sức sống.
1.1.3. Công tác GDCTTT - chức năng và nhiệm vụ
- Về công tác GDCTTT:
Xét về mặt cấu trúc của khái niệm, thuật ngữ chính trị tư tưởng là từ
ghép giữa chính trị và tư tưởng được sử dụng ở đây như một bổ ngữ của công
tác giáo dục nhằm phân biệt làm rõ nội dung của giáo dục. Theo cách diễn đạt
hiện nay: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra (Từ điển
tiếng Việt năm 1994). Trong thực tế ta thấy có: giáo dục kinh tế, giáo dục lao
động, giáo dục đạo đức, giáo dục quân sự v.v...
Với cách tiếp cận về chính trị và tư tưởng như phần trên đã trình bày,
bản chất của công tác GDCTTT là quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống của một đảng, một giai cấp, một tổ chức vào quần chúng, nhằm giác
ngộ nâng cao nhận thức tư tưởng của họ về quan điểm, đường lối chính trị, để
quy tụ tập hợp quần chúng tham gia vào quá trình đấu tranh cách mạng để
giành và bảo vệ, thực thi quyền lực chính trị nhằm đáp ứng, thỏa mãn các nhu
cầu về lợi ích. Những lợi ích đó có thể là lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần, lợi
ích kinh tế... trong đó, lợi ích kinh tế là mục đích sâu xa nhất, cốt lõi nhất


25

phản ánh quan hệ đấu tranh giữa các giai cấp, nhưng lại được thể hiện ở mục

tiêu trực tiếp trước mắt là lợi ích chính trị.
Điều đó có nghĩa, trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp giành quyền
lực chính trị tức là quyền lực nhà nước, một công cụ duy trì quyền lực chính
trị của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Vấn đề chính
quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Đó là lợi ích chính trị đầu
tiên của cuộc đấu tranh giai cấp mà các giai cấp lãnh đạo phong trào cách
mạng đều hướng tới, tìm mọi cách để giành lấy. Tuy nhiên, trong xã hội cũng
như ngay trong một giai cấp, nhận thức về nhu cầu, lợi ích đó không hoàn
toàn giống nhau về mức độ. Do đó, các giai cấp đều thông qua các tổ chức
chính trị của mình để xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng (nhà tư tưởng), xây
dựng hệ thống tổ chức cùng các thiết chế tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư
tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong toàn xã hội, thông
qua nhiều con đường, nhiều hình thức và phương pháp khác nhau để đưa hệ
tư tưởng đó tác động vào nhận thức của quần chúng nhân dân, lực lượng cơ
bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Sự tác động của chủ thể tư tưởng
đến các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng để đạt được mục tiêu đã đề ra,
đó là hoạt động tư tưởng hay còn được gọi là công tác tư tưởng.
Như vậy, công tác tư tưởng thực chất là hoạt động trên toàn bộ lĩnh
vực đời sống tinh thần xã hội của con người; là hoạt động có mục đích của
một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư
tưởng vào quần chúng nhân dân, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích
của chủ thể tư tưởng.
Hiện nay, khái niệm về công tác tư tưởng còn có những ý kiến khác
nhau về cách tiếp cận nhưng đã thống nhất trên những nét cơ bản:
- Đó là quá trình bao gồm từ việc sáng tạo, phát triển hệ tư tưởng.


26

- Việc vận dụng sáng tạo, phát triển hệ tư tưởng để xây dựng cương

lĩnh chính trị, đường lối cách mạng, chiến lược, sách lược của một giai cấp,
một chính đảng.
- Việc giáo dục truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng
nhằm giác ngộ, nâng cao tính tự giác và thúc đẩy hành động cách mạng của
quần chúng nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Chủ thể của công tác tư tưởng bao gồm: chủ thể của hệ tư tưởng (một
giai cấp, một chính đảng), các cơ quan và các thiết chế tư tưởng được chủ thể
của hệ tư tưởng lập ra, có chức năng nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, giáo dục,
truyền bá, bảo quản, lưu giữ hệ tư tưởng.
Khách thể của công tác tư tưởng là ý thức và các hành vi của cá
nhân, tập thể của các giai tầng trong xã hội; là quá trình tư tưởng và các
quan hệ xã hội trong đó con người là khách thể của sự tác động của công tác
tư tưởng. Tuy nhiên, mỗi con người đều gắn với nhau trong một kết cấu giai
tầng xã hội là lực lượng cách mạng, đối tượng chủ yếu chịu sự tác động của
công tác tư tưởng.
Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình tư tưởng, công tác tư
tưởng có những hình thái cơ bản sau: công tác lý luận, công tác tuyên truyền,
công tác cổ động. Trong đó, công tác lý luận tương ứng với quá trình sáng
tạo, phát triển hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để xây dựng cương lĩnh,
đường lối chính trị... của Đảng; công tác lý luận là lĩnh vực hoạt động nhằm
phát triển và làm sâu sắc hệ tư tưởng của giai cấp, đi sâu vào bản chất của các
hiện tượng của tự nhiên và xã hội, từ đó tìm ra những giải pháp và phương
thức hành động đúng đắn. Đối với chúng ta, đó là lĩnh vực công tác nhằm
phát triển, vận dụng sáng tạo CNM-LN, TTHCM để phục vụ cho công cuộc
đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN; đồng thời đấu tranh kiên


27

quyết bác bỏ những luận điệu sai trái của CNĐQ và các thế lực thù địch trong

chiến lược "DBHB" nhằm bảo vệ và phát triển CNM-LN, TT HCM.
Công tác tuyên truyền và công tác cổ động tương ứng với quá trình
truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước tới quần chúng nhân dân, cổ vũ, động viên, thúc đẩy họ hành
động thực hiện mục tiêu của cách mạng do Đảng đề ra. Nhưng giữa công tác
tuyên truyền và công tác cổ động cũng có sự khác nhau, điều này đã được
Lênin phân biệt:
Người tuyên truyền, nếu bàn về vấn đề thất nghiệp chẳng
hạn thì phải giải thích bản chất tư bản chủ nghĩa của các cuộc
khủng hoảng, vạch rõ cái gì làm cho các cuộc khủng hoảng là
không thể tránh khỏi trong xã hội hiện đại, vạch rõ sự cần thiết phải
cải biến xã hội ấy thành xã hội xã hội chủ nghĩa... Cũng nói vấn đề
ấy (vấn đề thất nghiệp - TG), người cổ động sẽ lấy một thí dụ nào
nổi bật nhất và được thính giả biết rõ nhất - ví dụ như một gia đình
thất nghiệp bị chết đói, nạn ăn mày tăng lên, v.v... rồi dựa vào sự
việc mà tất cả mọi người đều biết ấy, người cổ động sẽ đem hết sức
ra làm cho "quần chúng" có một ý niệm duy nhất: ý niệm về sự mâu
thuẫn phi lý giữa tự tăng thêm của cải và sự tăng thêm nghèo khổ;
người cổ động ra sức khêu gợi sự bất bình, sự phẫn nộ của quần
chúng đối với sự bất công rõ rệt ấy, và để cho người tuyên truyền
giải thích đầy đủ mâu thuẫn ấy [52, tr. 84-85].
Như vậy, công tác lý luận là cơ sở, nền tảng của công tác tư tưởng,
quyết định phương hướng, nội dung của công tác tuyên truyền và cổ động.
Công tác tuyên truyền tiếp nối công tác lý luận làm cho lý luận có sức sống
mạnh mẽ, thể hiện sinh động trong thực tiễn. Công tác cổ động là khâu cuối
cùng quyết định việc chuyển hóa lý luận đã được nhận thức, niềm tin đã được
xây dựng và củng cố thành hành động cách mạng.


28


Mỗi hình thái của công tác tư tưởng vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau,
vừa có tính độc lập tương đối do yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của công tác tư
tưởng đặt ra và giao cho nó thực hiện. Trong quá trình hoạt động thực hiện
nhiệm vụ, các hình thái đó đã sử dụng các hình thức, phương pháp và phương
tiện khác nhau. Nhưng giữa các hình thái đó lại có những mối liên hệ nội tại
với nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau, kết quả của công tác này là tiền đề của
công tác kia và ngược lại. Vì vậy, sự phân chia, phân cấp giữa các hình thái
của công tác tư tưởng mang tính chất tương đối. Ngoài ba hình thái cơ bản
trên, trong mỗi hình thái đó lại còn có nhiều lĩnh vực công tác khác có tính
chuyên sâu phù hợp tính chất, đối tượng tác động, mục tiêu của nhiệm vụ...
nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn của công tác tư tưởng. Trong
đó, công tác GDCTTT thuộc hình thái của công tác tuyên truyền, một trong
ba hình thái của công tác tư tưởng. Như vậy, công tác GDCTTT là một bộ
phận của công tác tư tưởng.
Từ sự phân tích trên, xem xét công tác GDCTTT trong mối quan hệ
của các hình thái công tác tư tưởng, cũng như những nội dung của công tác
GDCTTT do Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành gồm những nội dung sau:
- Đó là quá trình tổ chức giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân đến với quần chúng nhân dân mà thực chất là quá trình truyền bá,
giáo dục CNM-LN, TT HCM, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm và những
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Đó chính là quá trình tác động vào nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân bằng cách trình bày, giải thích những vấn đề cơ bản về lý luận
chính trị, về đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, nhằm từng bước xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, thực hiện thắng lợi mục tiêu
ĐLDT và CNXH.



29

- Như vậy, chủ thể của công tác GDCTTT là Đảng Cộng sản Việt
Nam mà trực tiếp là cấp ủy đảng các cấp và các cơ quan chức năng như Ban
Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Tuyên giáo các ngành, các địa phương,
các cơ quan chính trị trong lực lượng vũ trang. Ở cấp huyện có Ban Tuyên
giáo quận, huyện và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị...
- Đối tượng (khách thể) của công tác GDCTTT là cán bộ, đảng viên
và nhân dân nói chung (đối tượng cụ thể mà luận án đề cập là cán bộ, đảng
viên thuộc sự quản lý của đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc huyện ủy, quận ủy
và tương đương).
Mục đích cơ bản của công tác GDCTTT mà Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định là truyền bá, giáo dục CNM-LN, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh,
góp phần làm cho nó trở thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống
tinh thần xã hội, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới
quan và phương pháp luận đúng đắn, nhân sinh quan cộng sản, để từ đó khắc
phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao nhận thức chính trị; giáo dục đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho họ
ngày càng nắm chắc và biết vận dụng vào thực tế cuộc sống, thực hiện thắng
lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị, cổ vũ, động viên, khơi dậy nhiệt tình cách
mạng, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cách mạng cải tạo, xây
dựng xã hội mới XHCN. Về mục đích của công tác GDCTTT và việc học tập
lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ:
a) Học để mà sửa chữa: Hăng hái theo cách mạng, điều đó
rất hay nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng. Vì
thế, cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành
động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được.



×