Tải bản đầy đủ (.doc) (235 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ kết hợp TÍNH ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ với TÍNH KHOA học TRONG GIẢNG dạy các môn lý LUẬN CHÍNH TRỊ ởcác TRƯỜNG đại học QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.45 KB, 235 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng và khoa học, khoa học và cách mạng là hai đặc tính căn bản có mối liên
hệ thống nhất, nội tại trong học thuyết Mác - Lênin. V.I.Lênin viết: “Sức hấp dẫn không
gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi theo lý
luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao
nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng... kết hợp trong chính bản thân lý
luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít” [47, tr.421].
Tuy nhiên, quá trình giảng dạy LLCT, để đảm bảo tính cách mạng và tính khoa học vốn có
trong bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi hỏi người dạy phải chủ động ĐHCT trên cơ sở
gắn bó nhuần nhuyễn với tính khoa học. Tính chính trị và tính khoa học là hai yêu cầu căn
bản trong một bài giảng, không đạt được yêu cầu ở mặt này thì đồng thời cũng không đáp ứng
được yêu cầu ở mặt kia và ngược lại. Tính khoa học và chức năng ĐHCT trong giảng dạy
LLCT không bài trừ nhau; trái lại, chúng thống nhất và bổ sung cho nhau. Vì vậy, kết hợp
chặt chẽ tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT là trực tiếp thể hiện bản chất
cách mạng và khoa học của học thuyết Mác-Lênin, là vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa
tính Đảng với tính khoa học; giữa lý luận cách mạng với thực tiễn cuộc sống...Do đó, đây là
một yêu cầu tất yếu, là nguyên tắc bảo đảm giảng dạy LLCT vận động đúng phương hướng
chính trị trong đào tạo sĩ quan.
Giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH trong những năm gần đây, đội ngũ giáo viên
LLCT, thông qua nội dung và phương pháp đã thể hiện khá tốt vai trò ĐHCT của mình, giúp
người học tiếp cận nhanh hệ thống quan điểm, tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân, xây
dựng và cũng cố BLCT vững vàng cho đối tượng đào tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
tích cực, người dạy vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định trong nhận thức và vận dụng
nguyên tắc kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học. Biểu hiện rõ nhất là: ĐHCT thông qua nội


dung và phương pháp giảng dạy, còn thể hiện tính chất khiên cưỡng, áp đặt, nhồi nhét tri thức,
dội một chiều. Chưa có sự quan tâm nhiều đến tính khoa học, chưa khai thác tối đa yếu tố
khoa học để hỗ trợ làm tăng sức thuyết phục và niềm tin khoa học vào những quan điểm
chính trị. Do đó, tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân chuyển hoá vào nhận thức, tư


tưởng, niềm tin chính trị của người học chưa thực sự vững chắc. Chất lượng giảng dạy LLCT
chưa thực sự đáp ứng tốt mục tiêu đào tạo sĩ quan. Hơn nữa, hiện nay trước đòi hỏi của nhiệm
vụ xây dựng quân đội về chính trị và yêu cầu đấu tranh bảo vệ, phát triển học thuyết MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, đội ngũ giáo viên LLCT cần
phải nhận thức sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên tắc kết hợp tính ĐHCT với tính
khoa học nhằm đáp ứng tốt nhất chất lượng chính trị trong đào tạo sĩ quan ở các trường
SQBĐH hiện nay. Vì vậy, tác giả cho rằng, việc nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống về sự
“Kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học trong giảng dạy lý luận chính trị ở các
trường sĩ quan bậc đại học Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là vấn đề vừa có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trước mắt vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài trong đào tạo sĩ quan.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Mối quan hệ giữa tính chính trị với tính khoa học trong truyền bá hệ tư tưởng đều được các
giai cấp trong lịch sử vận dụng và giải quyết. Tuy nhiên, do mục đích và lợi ích chính trị của
các giai cấp khác nhau nên cách thức giải quyết vấn đề này cũng rất khác nhau. Giai cấp
thống trị, bóc lột, nhất là khi nó lỗi thời về lịch sử, phản động về chính trị thì việc giải quyết
quan hệ giữa chính trị với khoa học trong truyền bá hệ tư tưởng luôn tạo ra sự xung đột gay
gắt. Ngược lại, giai cấp công nhân với bản chất cách mạng và khoa học, nên việc giải quyết
mối quan hệ giữa tính chính trị và tính khoa học luôn có sự thống nhất, tác động qua lại, thúc
đẩy lẫn nhau một cách tích cực.
Mặc dù, không có những tác phẩm chuyên bàn về sự kết hợp tính định hướng chính trị với
tính khoa học, nhưng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã để lại những quan điểm, tư
tưởng, nguyên tắc có ý nghĩa phương pháp luận khoa học giúp chúng ta có căn cứ và phương


hướng đúng đắn vận dụng và giải quyết mối quan hệ giữa tính chính trị với tính khoa học trong
các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động tuyên truyền,
giảng dạy LLCT. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã cống hiến trọn đời mình cho
cách mạng và sự nghiệp “trồng người”, đã để lại nhiều quan điểm, tư tưởng có ý nghĩa định
hướng phương pháp luận sâu sắc, vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa mang ý nghĩa thiết
thực, cụ thể trong vận dụng và giải quyết mối quan hệ giữa chính trị với khoa học, giữa mục
đích chính trị - thực tiễn với cách thức, phương pháp đào tạo cán bộ cách mạng; giữa yêu cầu

đào tạo với công tác sử dụng cán bộ, giữa lý luận chính trị với thực tiễn cuộc sống...
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện một cách tài tình khả năng và trình độ kết hợp
tính định hướng chính trị với tính khoa học trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ đó,
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
Đảng ta luôn chú trọng xây dựng và triển khai các quan điểm, tư tưởng lớn để định hướng và
chỉ đạo các hoạt động trên lĩnh vực này. Những quan điểm, tư tưởng đó được thể hiện xuyên
suốt trong các nghị quyết Đại hội của Đảng, đặc biệt, gần đây được thể hiện tập trung ở các
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2, lần thứ 3 (Khóa VIII); Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Luật Giáo dục Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...
Về định hướng và ĐHCT trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, gần đây đã có nhiều bài
viết và công trình khoa học đề cập đến, như: Trần Xuân Trường, “Một số vấn đề về định
hướng XHCN”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000; Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên và Nhị Lê, “Một
số vấn đề về định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998; Nguyễn Văn
Oánh, "Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, Số 4, tháng 2/1996;
Hà Xuân Trường, "Định hướng xã hội chủ nghĩa - một khái niệm khoa học", Tạp chí Cộng
sản, Số 7, tháng 4/1996; Trần Xuân Trường, "Về mục tiêu của định hướng xã hội chủ nghĩa",
Tạp chí Cộng sản, Số 7, tháng 4/1996; Nguyễn Phú Trọng, “Định hướng XHCN và con
đường đi lên CNXH ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, Số 5, tháng 3/1996"; Lê Hữu Nghĩa, “Vai


trò của chính trị trong việc bảo đảm định hướng XHCN”, Tạp chí Cộng sản, Số 5, tháng
3/1996... Các nghiên cứu đã đưa ra quan niệm về định hướng và định hướng chính trị cơ bản
thống nhất. Khẳng định: định hướng chính trị ở nước ta hiện nay là định hướng xã hội chủ
nghĩa, định hướng con đường và mục tiêu phát triển tiến lên CNXH. Cụ thể hơn, các công
trình và bài viết đều khẳng định tính tất yếu và cấp thiết phải định hướng xã hội chủ nghĩa
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội... Từ đó các nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của chủ thể
định hướng, đưa ra các giải pháp từ nhiều phương diện khác nhau nhằm đảm bảo các lĩnh vực
vận động đúng mục tiêu của cách mạng XHCN.
Kế thừa và vận dụng các kết quả nghiên cứu trên, tác giả luận án cho rằng, ĐHCT trong

giảng dạy LLCT, nhất là giảng dạy LLCT ở các trường quân đội hiện nay là một tất yếu.
Về mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với khoa học trong hoạt động truyền bá hệ tư
tưởng, trong giáo dục LLCT, đã có một số công trình khoa học trong và ngoài nước của các
tập thể tác giả và cá nhân tiếp cận, đề cập với các góc cạnh khác nhau, phạm vi nghiên cứu
khác nhau. Liên quan đến luận án có những công trình như: M.I.Ca-li-nin “Bàn về giáo dục
Cộng sản”, Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1956, “giáo dục Cộng sản”, Nxb Thanh niên, Hà Nội,
1977; X.G.Lu-Cô- Nhin và V.V.Xê-rê-bri-an-ni-cốp, “Phương pháp giáo dục các môn khoa
học xã hội”, (Khổng Doãn Hợi dịch), Nxb QĐND, Hà nội, 1981; I.N.Sca-đốp, “Những vấn đề
huấn luyện và giáo dục trong các trường quân sự”, Tập 1, Nxb QĐND, Hà Nội, 1985;
Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp “Phương pháp luận công tác giáo dục tư tưởng”, (Khổng Doãn Hợi dịch),
Nxb QĐND, Hà Nội, 1984; V.A.Xu-khôm-lin-xky, “Bàn về giáo dục”, Nxb Tiến bộ
Mátxcơva 1973... Có thể nói, các Nghiên cứu đã đề cập nhiều nội dung khác nhau trong hoạt
động giáo dục lý luận chính trị. Trong đó, đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của
V.I.Lênin về những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác tư tưởng, lý luận. Từ đó, chỉ ra
những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục, huấn luyện, trong giảng dạy LLCT cho các đối
tượng cụ thể. Các nguyên tắc này có mối quan hệ thống nhất, biện chứng, trong đó nguyên tắc
tính đảng, tính khoa học đều được khẳng định là nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa và tầm quan


trọng đặc biệt trong hoạt động truyền bá hệ tư tưởng và trong giáo dục lý luận chính trị, bảo
đảm giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thống nhất giữa
tính đảng với tính khoa học trong giáo dục lý luận chính trị được bắt nguồn từ bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin vì chủ nghĩa Mác - Lênin vốn từ khi ra đời đã
kết hợp bản chất cách mạng và khoa học một cách nội tại và khăng khít. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có một nghiên cứu chuyên biệt về kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa
học trong giảng dạy lý luận chính trị cho một đối tượng cụ thể.
Ở nước ta trong những năm gần đây, về mối quan hệ biện chứng giữa tính chính trị và tính
khoa học trong các hoạt động lãnh đạo của Đảng, trong truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng hàng đầu trong chiến lược giáo dục và đào
tạo, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm

của Đảng, thu hút tâm huyết nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân đội
thuộc chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn. Liên quan đến luận án có nhiều công trình
khoa học như: “Cách mạng và khoa học”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977; “Cách mạng
và sáng tạo”, Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin, 1986; “Cách mạng và khoa học xã
hội” của Nguyễn Khánh Toàn; “Một số vấn đề về khoa học chính trị” Viện Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Nhà xuất bản Hà Nội; Đào Duy Tùng, “Một số vấn đề về công tác tư tưởng”, Nxb
CTQG, Hà Nội, 1999; Nguyễn Đức Bình, “Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và văn
hóa” Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Trần Trọng Tân, “Góp phần đổi mới công tác lý luận, tư
tưởng hiện nay”; Đậu Thế Biểu “Phát huy bản chất cách mạng và khoa học của Đảng trong
giai đoạn cách mạng mới”, bài in trong sách "Cách mạng và sáng tạo", Nhà xuất bản Sách
giáo khoa Mác - Lênin, 1986; Trần Hữu Tiến, “Đổi mới công tác tuyên truyền chính trị trong
điều kiện hiện nay”; Đặc biệt, một số công trình khoa học, bài viết đã đi sâu đề cập đến tính
thống nhất giữa khoa học với chính trị và chỉ rõ sự đòi hỏi khách quan phải kết hợp giữa
chúng với nhau trong những lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn: Ngô Thành Dương (chủ biên), “ Sự
thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong phương pháp lãnh đạo” Nxb Sự thật


Hà Nội, 1982; Trần Thị Anh Đào, “Mối quan hệ biện chứng giữa tính cách mạng và tính
khoa học trong họat động lãnh đạo của Đảng”, Luận án tiến sĩ Triết học (1999); Trần Hữu
Tiến, “Kết hợp tính khoa học và tính chính trị trong nghiên cứu lý luận”, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 3/1992; Lê Hữu Nghĩa “Khoa học và chính trị", Tạp chí quốc phòng toàn dân, số
11/1992.
Các Nghiên cứu đã tiếp cận đi từ mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa tính cách mạng
và tính khoa học trong lý luận Mác - Lênin đến khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa tính
chính trị và tính khoa học trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Đảng, của giai cấp công
nhân. Trong đó, có hoạt động giảng dạy lý luận chính trị. Đặc biệt, đi vào từng lĩnh vực hoạt
động cụ thể, sự thống nhất giữa hai tính chất cần có sự kết hợp thông qua vai trò của chủ thể
hoạt động, điều này đã được tác giả Trần Hữu Tiến chỉ rõ: trong nghiên cứu lý luận, "Vấn đề
đặt ra đối với chúng ta không chỉ là lý giải về sự "thống nhất trong bản chất" giữa cách mạng
và khoa học, mà chủ yếu là làm rõ trong những điều kiện chủ quan và khách quan cho phép

hai tính gắn bó với nhau"[94, tr.16]. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có công trình khoa học
nào đi sâu bàn về sự kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học trong giảng dạy
LLCT, nhất là giảng dạy LLCT ở các nhà trường quân đội hiện nay.
Trong quân đội cũng có nhiều công trình và bài viết liên quan đến đề tài. Như: Phạm Xuân
Hảo (Chủ nhiệm), "Định hướng chính trị - xã hội cho đội ngũ học viên đào tạo sĩ quan hiện
nay", Đề tài khoa học cấp viện - Viện KHXH-NV Bộ Quốc phòng, 2003; Lê Minh Vụ (chủ
nhiệm), “Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học quân sự”, Đề tài khoa học
cấp Bộ Quốc phòng, Nxb QĐND, Hà Nội, 1999; Vũ Quang Lộc (chủ biên), “Mối quan hệ
giữa nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở các trường
quân đội”, Nxb QĐND, Hà Nội, 2001... Các nghiên cứu đã khai thác, làm rõ nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn, góp thêm nhiều giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục và đào tạo cán bộ quân đội nói chung, trong đó có giảng dạy LLCT. Tuy nhiên, chưa có
một công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu một cách chuyên biệt cơ sở lý luận và giải


pháp kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH Quân
đội nhân dân Việt Nam. Vì vậy, tác giả luận án cho rằng, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cơ bản, cấp thiết, cần được quan tâm đầu tư nghiên cứu nghiêm túc nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
* Mục đích của luận án:
Luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong
giảng dạy LLCT, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp tính ĐHCT với tính
khoa học góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH
hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận án:
- Làm rõ các khái niệm ĐHCT, “tính ĐHCT”, “tính khoa học” và quan niệm về sự kết
hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT; đồng thời, làm rõ cơ sở khách quan
và vai trò của sự kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT ở các trường
SQBĐH hiện nay.

- Phân tích, đánh giá thực trạng sự kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy
LLCT ở các trường SQBĐH và chỉ ra mâu thuẫn của vấn đề này.
- Xác định mục tiêu, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kết hợp tính ĐHCT với
tính khoa học trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận chủ yếu là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về định hướng phát triển chiến lược con
người; về công tác đào tạo cán bộ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài


cho đất nước, trực tiếp là các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ
Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về đào tạo cán bộ, sĩ quan quân đội trong giai đoạn hiện
nay.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận án chủ yếu dựa vào quá trình nghiên cứu, khảo sát thực trạng kết hợp tính
ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT ở các học viện (có đào tạo SQBĐH) và
các trường SQBĐH. Dựa vào kết quả khảo sát chất lượng toàn diện của đội ngũ giáo
viên LLCT; chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ sĩ quan trẻ vừa mới tốt nghiệp
đang công tác tại các đơn vị cơ sở. Tác giả còn tham khảo kết quả điều tra xã hội học
của nhiều công trình khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu; các báo cáo tổng kết
của các trường đại học trong quân đội và các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Bộ
Giáo dục - đào tạo.
* Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng hệ phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu mối quan hệ thống nhất, biện chứng và yêu cầu kết
hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong giảng dạy LLCT. Ngoài ra, luận án còn sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu như: kết hợp giữa lịch sử và lôgíc; phân
tích, tổng hợp; khái quát hoá, trừu tượng hoá; điều tra xã hội học; hệ thống- cấu trúc; và
phương pháp chuyên gia... để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.

5. Những đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về sự kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học và
đặc thù của nó trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH.


- Khảo sát, phân tích thực trạng kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học, đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học trong
giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
Những luận giải có tính cơ bản, hệ thống sự kết hợp tính ĐHCT với tính khoa học
trong giảng dạy LLCT có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy LLCT ở các học viện, trường đại học trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu: Phần mở đầu; phần nội dung (gồm 3 chương, 6 tiết); phần kết
luận; danh mục các công trình của tác giả; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ KẾT HỢP TÍNH ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ VỚI TÍNH
KHOA HỌC TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG SĨ
QUAN BẬC ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về sự kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học trong giảng
dạy lý luận chính trị ở các trường sĩ quan bậc đại học Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Tính định hướng chính trị và tính khoa học trong giảng dạy lý luận chính trị
* Tính định hướng chính trị và biểu hiện của nó trong giảng dạy lý luận chính trị
Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, các
dân tộc, các quốc gia và các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của chính trị là vấn đề giành, duy trì
và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị còn bao hàm cả sự tham gia rộng rãi của quần
chúng nhân dân vào bộ máy nhà nước; là tổng hoà các phương châm, mục tiêu, nguyên tắc
xác định bởi những lợi ích cơ bản của các giai cấp, đảng phái, nhà nước, được họ tuân thủ
trong công việc đối nội, đối ngoại; trong hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện đường lối vạch



ra và đạt được mục tiêu đã định trước. Bất kỳ một vấn đề chính trị hay một mối liên hệ chính
trị nào cũng đều liên quan đến lợi ích của các giai cấp, nhà nước, các quốc gia, dân tộc, nhất
là trong điều kiện và xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Những tư tưởng chính trị và thể chế chính
trị tương ứng xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước, nó là một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng được thiết lập trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Chính trị do kinh tế
quyết định, là biểu hiện tập trung của kinh tế, nhưng chính trị có tính độc lập tương đối, có vai
trò tác động trở lại kinh tế. Việc hình thành một quan điểm, tư tưởng chính trị đúng đắn trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội là điều kiện cơ bản để giải quyết có hiệu quả những nhiệm
vụ trên các lĩnh vực đó. Tuy nhiên, chính trị chỉ trở thành lực lượng cải tạo xã hội, thúc đẩy xã
hội phát triển tiến lên khi chính trị phản ánh đúng đắn quy luật khách quan của lịch sử và
những nhu cầu phát triển tất yếu của xã hội.
Xét về cấu trúc, chính trị bao gồm hệ tư tưởng chính trị, ý thức chính trị gắn với một cơ
cấu, thiết chế bộ máy chính trị tương ứng và những hành vi chính trị, hoạt động chính trị của
các cá nhân và cộng đồng xã hội nhất định. Mọi hoạt động của các nhân tố, bộ phận trong hệ
thống cấu trúc chính trị luôn luôn được qui tụ và được định hướng theo một phương hướng
chính trị – xã hội cụ thể của một giai cấp, nhà nước xác định.
Định hướng là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Uỷ ban Khoa học xã hội định nghĩa
ngắn gọn: “Định hướng là xác định phương hướng”[106, tr.469]. Từ điển Littre của Pháp viết:
Định hướng là “nghệ thuật nhận biết được mình đang ở đâu bằng cách xác định những điểm then
chốt”. Theo định nghĩa này, hoạt động định hướng có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tự giác,
nhận thức quy luật khách quan của chủ thể định hướng, đòi hỏi chủ thể không chỉ nắm vững xu
thế, quy luật vận động khách quan của sự vật, hiện tượng mà còn phải khám phá càng nhiều càng
tốt những đặc điểm cơ bản của quá trình vận động từ điểm xuất phát đến mục tiêu cần đạt được.
Từ đó, chủ thể xác định những vấn đề cốt lõi, then chốt, làm căn cứ, chỗ dựa cho mọi hoạt động
định hướng đúng đắn, khoa học và hiệu quả.


Định hướng là khái niệm có mối quan hệ gắn bó với khái niệm “con đường đi lên” hay

“phương hướng phát triển”, nhưng giữa chúng không đồng nhất với nhau. “Con đường đi lên”
hay “phương hướng phát triển” phản ánh trạng thái, xu hướng vận động, phát triển khách
quan của sự vật, hiện tượng mà chủ thể nhận thức được, còn định hướng thể hiện sâu sắc vai
trò của chủ thể trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan, chủ động xác lập mục tiêu, tích cực
tìm tòi các biện pháp để thúc đẩy sự vật vận động hướng đích, phù hợp với thực tiễn lịch sử,
đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Việc nắm chắc thực tiễn, phân tích đánh giá đúng đắn những
điều kiện cụ thể, dự báo những ảnh hưởng tốt, xấu có thể xảy ra, vừa là yêu cầu nội tại, vừa là
điều kiện cơ bản bảo đảm định hướng đúng đắn và có tính khả thi trong hiện thực.
Trong xã hội còn có giai cấp và nhà nước, giai cấp nắm chính quyền sử dụng quyền
lực nhà nước, chủ động xác lập hệ thống mục tiêu, phương hướng, tiến hành tổ chức,
điều khiển mọi hoạt động của đời sống xã hội, đặt ra và không ngừng bổ sung các quy
phạm pháp luật, các nguyên tắc, luật lệ, quy chế nhằm tạo ra một khuôn khổ hành lang
pháp lý, buộc mọi cá nhân, mọi tổ chức chính trị- xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động khác
nhau phải tuân theo phương hướng chính trị - xã hội của giai cấp nắm chính quyền, phù
hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp nắm quyền lực nhà nước, đó chính là những hoạt động
định hướng mang tính chính trị, tính giai cấp sâu sắc.
ĐHCT là quá trình hoạt động của chủ thể chính trị trong xác lập mục tiêu, phương hướng,
xây dựng những điều kiện, lực lượng, biện pháp nhằm tổ chức, điều tiết, duy trì sự phát triển ổn
định nhất định của chế độ - xã hội cụ thể.
Nội dung cốt lõi của ĐHCT là định hướng về quan điểm, lập trường, tư tưởng, làm cho hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị chiếm vị trí ưu thế, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống chính
trị - xã hội. Do đó, ĐHCT phản ánh tính giai cấp, tính lịch sử sâu sắc, gắn với điều kiện kinh
tế - xã hội xác định. Chế độ xã hội khác nhau, ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, thì tính chất,
nội dung, đặc điểm của ĐHCT cũng không giống nhau.


Hiện nay, tình hình chính trị thế giới có những biến động to lớn, nhưng nội dung cơ bản của
thời đại không thay đổi, loài người vẫn trong xu hướng vận động phát triển tiến lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN. Do đó, ĐHCT theo quan điểm, lập trường giai cấp công nhân là định hướng
về mục tiêu và con đường đi lên XHCN; là đấu tranh loại bỏ sự xác lập địa vị thống trị của quan

hệ sản xuất TBCN và kiến trúc thượng tầng chính trị tư sản; từng bước xác lập địa vị làm chủ xã
hội của đông đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công
nhân; là xây dựng chế độ xã hội mới - XHCN phù hợp với nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, phù hợp với quy luật vận động và phát triển khách quan của “lịch sử tự nhiên”.
Nhận thức sâu sắc tình hình nhiệm vụ cách mạng và xu hướng phát triển tất yếu của thời
đại mới, ngay từ khi ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động định hướng phong
trào cách mạng Việt Nam theo con đường XHCN. Đó là việc nhanh chóng xác lập phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài cho cách mạng. Trong “Chính cương
vắn tắt” của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo đã được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng ngày 3/2/1930 khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để tiến tới xã hội cộng sản”[68, tr.1]. Cương lĩnh chính trị tháng 10/1930 do đồng chí Trần
Phú soạn thảo cũng khẳng định: “Trong lúc đầu cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc
cách mạng tư sản dân quyền... bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường
XHCN”[23, tr.93-94]. Có thể thấy, ngay từ đầu mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH đã
được đặt ra và nhanh chóng trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối của cách mạng
Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã tổng kết và
một lần nữa rút ra kết luận “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đó là bài học
xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”[18, tr.4]. Nhờ có ĐHCT
đúng ngay từ đầu và giữ vững định hướng trong suốt quá trình cách mạng nên ở mỗi thời kỳ


lịch sử, nhất là thời kỳ đổi mới, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn cho
phép đất nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng XHCN.
Bên cạnh thành tựu đạt được do đổi mới đúng ĐHCT, cũng còn có biểu hiện chệch hướng
XHCN trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Sự chệch hướng đó không chỉ diễn ra ở
các phong trào hiện thực trên các lĩnh vực mà còn diễn ra trong cả nhận thức, tư tưởng, lý luận.
Nguồn gốc của sự chệch hướng không chỉ bắt nguồn từ sự bảo thủ, trì trệ, tự phát theo con

đường TBCN hoặc chủ quan, nóng vội, duy ý chí... mà còn do kẻ thù chủ động tìm mọi thủ
đoạn làm chệch hướng chính trị của cách mạng. Điều đó nói lên tính chất phức tạp, lâu dài, gian
khổ của cuộc đấu tranh giữa tự giác ĐHCT theo con đường XHCN và tự phát theo con đường
TBCN. Vì vậy, định hướng XHCN hiện nay là một nguyên tắc bất di bất dịch trong cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc nhằm bảo đảm cho các lĩnh vực của cuộc sống vận động theo
đúng mục tiêu xác định. Nhận thức sâu sắc về tính tất yếu, vai trò, tầm quan trọng của định
hướng XHCN, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tiếp tục khẳng định: “Phải giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình đổi mới kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách
mạng với linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới, đi lên CNXH là tất yếu ở nước
ta”[17, tr.52-53].
Chính trị và ĐHCT có vai trò to lớn chi phối đến các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Hoạt động giáo dục và đào tạo phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chịu sự quy định của điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội. Giảng dạy LLCT là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược giáo dục
và đào tạo của Đảng và Nhà nước, tất yếu phải tuân thủ phương châm, nguyên tắc giáo dục,
huấn luyện theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng. Kết quả giáo dục - đào tạo, giảng dạy LLCT phải nhằm phục vụ sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. V.I.Lênin cho rằng: “Mục đích của văn hoá chính trị, của


nền giáo dục chính trị là đào tạo nên những người cộng sản chân chính”[57, tr.479]. Đây là vấn đề
có tính quy luật trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta.
LLCT là những tri thức khoa học trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng; là khoa học về chính trị, phản ánh quan điểm, tư tưởng, mục
đích chính trị- thực tiễn của giai cấp công nhân. Vì vậy, bản thân LLCT vốn đã chứa đựng
tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân sâu sắc. Tuy nhiên, trong giảng dạy LLCT,
người học thấm nhuần tính Đảng, tính giai cấp công nhân ở mức độ nào, sự trưởng thành về
mặt chính trị đến đâu còn phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động ĐHCT của người dạy. Như vậy,
tính đảng, tính giai cấp vốn có trong bản thân LLCT không đồng nhất với tính đảng, tính giai
cấp trong giảng dạy LLCT. Tuy có sự thống nhất, nhưng không phải cứ giảng dạy LLCT là tự

nhiên nội dung, phương pháp của người dạy khắc chứa đựng tính đảng, tính giai cấp mà
không cần đến nhân tố tích cực từ người dạy. Vì thực tế có bài giảng, giáo viên thể hiện rất tốt
tính Đảng, tính giai cấp, nhưng cũng có giáo viên thể hiện chưa tốt, thậm chí, đôi khi một vài
trường hợp còn có biểu hiện sai lệch tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân. Do đó,
nhất thiết và không thể không chú trọng đến hoạt động ĐHCT của người dạy. Cần khẳng
định, ĐHCT trong giảng dạy LLCT là một yêu cầu tất yếu, một nguyên tắc bất di bất dịch, có
giá trị cụ thể hoá và làm sâu sắc thêm tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân vốn có
trong LLCT, góp phần nâng cao chất lượng chính trị đào tạo sĩ quan. Hơn nữa, hiện nay, trước
xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế phát triển, các yếu tố, các quá trình chính trị-xã hội ngày
càng có xu hướng xích lại gần nhau, đan xen vào nhau. Ranh giới giữa bản chất với hiện
tượng; giữa chính trị với kinh tế; giữa chính trị với nhân quyền, nhân đạo...rất mỏng manh,
nhất là khi kẻ thù lợi dụng thì rất khó phân biệt, đôi khi còn ra sự nhận thức mơ hồ về chính
trị. Điều đó càng cho thấy tính cấp thiết của ĐHCT trong giảng dạy LLCT và ý nghĩa của nó
đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay.
ĐHCT trong giảng dạy LLCT là thông qua nội dung, phương pháp, thao tác sư phạm của
người dạy để định hướng về nhận thức, tư tưởng, quan điểm, lập trường chính trị của giai


cấp công nhân... cho người học phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Do đó, ĐHCT là hoạt
động phản ánh sâu sắc vai trò chủ quan của người giáo viên trong quá trình truyền đạt tri thức
LLCT. Vai trò đó được thể hiện trước tiên ở việc chủ động quán triệt phương hướng, mục
tiêu, yêu cầu đào tạo, xác lập hệ thống nội dung kiến thức, phương pháp sư phạm nhằm làm
cho người học nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Đội ngũ giáo viên LLCT càng nhận
thức sâu sắc mục tiêu, yêu cầu đào tạo, càng nắm vững đặc điểm đối tượng đào tạo, đối tượng
và phương pháp bộ môn khoa học họ đảm nhiệm, làm chủ toàn bộ nội dung, phương pháp
giảng dạy thì chất lượng, hiệu quả của ĐHCT càng lớn. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải nhận
thức sâu sắc về vai trò của ĐHCT, coi đó là một nguyên tắc, một nhiệm vụ chính trị xuyên
suốt mang tính cấp bách trong giảng dạy LLCT hiện nay, từ đó chuẩn bị đầy đủ mọi yếu tố,
trước hết là nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm thực hiện ĐHCT theo mục tiêu mô hình

đào tạo đã xác định.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể đi đến quan niệm về ĐHCT trong giảng dạy LLCT như
sau:
ĐHCT trong giảng dạy LLCT là hoạt động của giáo viên trong quán triệt, thực hiện mục
tiêu, yêu cầu đào tạo, trong thiết kế nội dung, lựa chọn các hình thức, phương pháp, phương
tiện giảng dạy phù hợp nhiệm vụ, đối tượng đào tạo, nhằm định hướng xây dựng những phẩm
chất chính trị - xã hội phù hợp mục tiêu, yêu cầu đào tạo
Nhìn chung, chất lượng và hiệu quả của ĐHCT phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố chủ quan vai trò người dạy. Song, ĐHCT lại chứa đựng bên trong nội dung khách quan, phản ánh tính
tất yếu của nhiệm vụ chính trị trong giáo dục và đào tạo sĩ quan; phản ánh đặc điểm cụ thể về
mục tiêu, đối tượng đào tạo và điều kiện sư phạm cụ thể. Nội dung khách quan của ĐHCT qui
định trở lại đối với các mặt hoạt động của chủ thể giảng dạy, đòi hỏi chủ thể giảng dạy phải
tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững đặc điểm cụ thể trong thực hiện ĐHCT. Truyền đạt
nội dung mang tính áp đặt, chủ quan, bất chất quy luật sẽ không đem lại kết quả tích cực trong


ĐHCT. Như vậy, ĐHCT trong giảng dạy là sự thống nhất chặt chẽ giữa yêu cầu tự thân của
họat động giảng dạy LLCT với vai trò năng động, tự giác, sáng tạo của chủ thể giảng dạy.
ĐHCT và tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT là hai khái niệm gần gũi nhau nhưng không đồng
nhất. Giữa chúng có mối quan hệ thống nhất, biện chứng tác động qua lại, quy định lẫn nhau,
chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện sư phạm xác định. Tính ĐHCT luôn gắn liền và phụ
thuộc tất yếu vào các hoạt động định hướng của chủ thể giảng dạy. Nghĩa là, ĐHCT được tổ chức,
thực hiện như thế nào thì tính ĐHCT cũng được phản ánh trên các mặt hoạt động sư phạm một
cách tương ứng. Ngược lại, tính ĐHCT trong giảng dạy luôn phản ánh một cách trung thực và
trực tiếp các hoạt động ĐHCT của chủ thể. Tính ĐHCT càng sâu sắc bao nhiêu thì càng chứng
minh chủ thể đã thể hiện được khả năng, trình độ ĐHCT tốt bấy nhiêu. Chẳng hạn, nếu chủ thể
giảng dạy chủ động, tự giác ĐHCT một cách vững chắc, mang tính khoa học cao, tính thực tiễn,
tính chiến đấu sâu sắc ở cả mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy thì tính
chất chính trị của định hướng đó được thể hiện ở sự chuyển biến tích cực về nhận thức, tư tưởng,
về trình độ giác ngộ, thái độ, quan điểm niềm tin chính trị ở người học. Do vậy, muốn tăng cường
tính ĐHCT theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy LLCT, nhất thiết phải bắt đầu từ

sự quan tâm ĐHCT trên tất cả các mặt, các nhân tố, bộ phận trong quá trình giảng dạy LLCT. Có
thể thấy, tính ĐHCT trong giảng dạy là tính chất chính trị trên các mặt hoạt động sư phạm của
chủ thể giảng dạy, nó được thể hiện ở tất cả các khâu, các nhân tố, nhưng trước hết là ở nội dung,
phương pháp và hiệu quả đạt được trong giảng dạy LLCT. Thông qua nội dung, phương pháp,
thao tác sư phạm của mình, giáo viên quán triệt, vận dụng các nguyên tắc tính Đảng Cộng sản,
tính khoa học, tính thực tiễn, tính chiến đấu... làm cho người học chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, tư tưởng, tình cảm và hành động cách mạng. Từ những quan niệm chung nêu trên có thể
vận dụng làm rõ quan niệm về tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT như sau:
Tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT là tính chất chính trị của hoạt động sư phạm, được
thực hiện trên cơ sở giáo viên quán triệt, vận dụng các nguyên tắc, phương châm giáo dục
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta vào trong nội dung và


phương pháp giảng dạy nhằm xây dựng, phát triển những phẩm chất chính trị - xã hội
cần thiết cho người học, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Biểu hiện của tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH
Giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận hữu
cơ trong chương trình giáo dục và đào tạo của quốc gia. Tính ĐHCT của hoạt động giảng dạy
LLCT được thể hiện tập trung nhất ở mục đích chính trị - đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan của
Đảng trong quân đội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng chiến
đấu của Đảng và quân đội, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì nước, vì dân...
Giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH là truyền thụ những kiến thức khoa học trong nội dung,
chương trình các môn LLCT theo qui định và hướng dẫn của Bộ Giáo dục- đào tạo, Bộ quốc phòng,
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là hệ thống tri thức lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm
các môn: Triết học Mác- Lênin; Kinh tế chính trị học Mác- Lênin; CNXH khoa học; Công tác
Đảng, công tác chính trị; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Nhà nước và
pháp luật; Tâm lý giáo dục học quân sự; Lịch sử Văn hoá dân tộc; Dân tộc học, Tôn giáo học; Xã
hội học quân sự...

Tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT được thể hiện rất phong phú, đa dạng trên nhiều nội
dung và hình thức khác nhau, ở đây luận án tập trung bàn về một số nội dung biểu hiện
chủ yếu trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH
Một là, quán triệt nguyên tắc tính Đảng cộng sản, tính giai cấp công nhân trong toàn bộ
quá trình giảng dạy LLCT.
Tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân trong giảng dạy LLCT là những khái niệm có
mối quan hệ thống nhất biện chứng, đan xen vào nhau, chứa đựng trong nhau, trong mối quan
hệ xác định giữa chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Tuy nhiên, thống nhất nhưng không đồng


nhất. Mỗi tính chất có tính độc lập tương đối, phản ánh một khía cạnh nhất định của tính chính
trị trong giảng dạy. Trong đó, tính Đảng Cộng sản là hạt nhân cốt lõi, linh hồn sống của tính
giai cấp công nhân; đồng thời, tính Đảng phản ánh sự thống nhất chặt chẽ giữa tính cách mạng,
tính khoa học, tính sáng tạo; giữa lý luận với thực tiễn; giữa lý thuyết với thực hành; giữa mục
tiêu đào tạo với phương pháp đào tạo. Ngược lại, tính giai cấp công nhân có nội hàm rộng hơn,
phạm vi bao quát lớn hơn tính Đảng Cộng sản. Chẳng hạn, khi giảng dạy, người dạy có thể
trình bày nhiều quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng chưa hẳn đã đạt được
tính Đảng Cộng sản vì những quan điểm, tư tưởng đó thiếu sự gắn bó với tính khoa học, xa rời
thực tiễn, lý luận suông, chung chung...
Tính Đảng Cộng sản, tính giai cấp công nhân là nguyên tắc lớn chỉ đạo mọi hoạt động
giảng dạy LLCT, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nội dung và bản chất của ĐHCT. V.I.Lênin
đã nhận xét: Không có nội dung tư tưởng rõ ràng và được cân nhắc kỹ lưỡng thì công tác cổ
động sẽ rỗng tuếch. Biểu hiện tập trung nhất của việc vận dụng nguyên tắc này trong giảng
dạy LLCT là hướng toàn bộ nội dung và phương pháp vào đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan có
đầy đủ phẩm chất chính trị và năng lực công tác, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ chính trị được giao. Quán triệt tính Đảng cộng sản, tính giai cấp công nhân là xuất phát từ
bản chất, mục đích chính trị- thực tiễn của lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng. Nguyên tắc này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Các ông cho rằng: trong xã hội có giai cấp, mọi hệ tư
tưởng đều mang bản chất giai cấp, phản ánh quan điểm lập trường, thái độ, lợi ích của một

giai cấp nhất định. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã công khai thừa nhận học thuyết của mình
mang tính Đảng, tính giai cấp công nhân, thể hiện rõ quan điểm và bảo vệ lợi ích của giai cấp
công nhân.
Tính Đảng, tính giai cấp trong giảng dạy LLCT chịu sự quy định của hệ tư tưởng giai cấp
công nhân, nghĩa là việc truyền bá, hiện thực hoá chủ nghĩa Mác- Lênin cũng không ngoài
mục đích phục vụ lợi ích giai cấp công nhân, mục tiêu lý tưởng của Đảng. Tính Đảng cộng


sản, tính giai cấp công nhân đòi hỏi người dạy phải là người tuyệt đối trung thành với lý
tưởng của giai cấp công nhân, đứng vững trên lập trường, thế giới quan Mác- Lênin, phương
pháp luận khoa học để tìm hiểu, lý giải, đánh giá các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã
hội, làm cho nội dung bài giảng sống động, hấp dẫn, lôi cuốn và thuyết phục người nghe.
Tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT thể hiện thông qua chương trình nội dung và hệ
phương pháp giảng dạy, làm cho người học nhận thức đúng, đủ và sâu sắc những nguyên lý,
luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
nắm vững tinh thần bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết này. Trên cơ sở đó, người
học từng bước nâng dần trình độ giác ngộ chính trị, củng cố thế giới quan, phát triển phương
pháp luận khoa học, bồi dưỡng và nâng cao quan điểm lập trường giai cấp công nhân, làm cơ
sở khoa học xây dựng BLCT vững vàng, niềm tin khoa học sâu sắc, phát triển tư duy chính trị
nhanh nhạy, sắc xảo, năng lực giải quyết các vấn đề chính trị- xã hội đặt ra trên tinh thần tính
Đảng cộng sản, tính giai cấp công nhân.
Quán triệt nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp công nhân trong giảng dạy LLCT cũng đồng
thời đòi hỏi người dạy phải nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận cách
mạng với thực tiễn cuộc sống. Đây vừa là một nội dung quan trọng, vừa là nhân tố quy định
tính hiệu quả thực tế của tính Đảng, tính giai cấp trong ĐHCT. Giảng dạy LLCT ở các trường
SQBĐH nhằm góp phần đào tạo những sĩ quan tương lai có khả năng hoạt động thực tiễn một
cách năng động, sáng tạo để phục vụ Đảng, Tổ quốc và nhân dân, chứ không phải tạo ra
những “quan cách mạng”, chỉ nói mà không làm, chỉ giỏi lý thuyết mà không thạo thực hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học lý luận “là để làm việc, làm người, làm cán bộ chứ không
phải học để trang sức”[75, tr.497]. Do đó, ngay trong truyền thụ lý luận phải tập trung luận

giải làm sáng tỏ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, làm rõ sự phát triển mới về
chức năng nhiệm vụ của quân đội nhằm xây dựng phương hướng chính trị- giai cấp đúng đắn,
nâng cao năng lực nhận thức thực tiễn liên quan đến chức trách, nhiệm vụ trong tương lai của
đối tượng đào tạo.


Tính Đảng cộng sản, tính giai cấp công nhân cũng thể hiện ở sự tuân thủ và vận dụng nguyên
tắc khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Trình bày những quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, người giáo viên phải phân
tích, giải thích đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, phải đặt những quan điểm đó vào trong những
mối liên hệ xác định, trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Có như vậy, người học mới hiểu hết
những giá trị lịch sử, ý nghĩa lý luận, thực tiễn của vấn đề học tập cũng như xây dựng nhận thức,
niềm tin khoa học về học thuyết Mác - Lênin về sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong đường lối,
chiến lược, sách lược của Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử. Giáo viên càng nhận thức và vận dụng
triệt để nguyên tắc tính Đảng thì càng có khả năng sử dụng được nhiều tri thức khoa học một cách
khách quan hơn, chính xác hơn trong huấn luyện và giáo dục học viên; đồng thời, nhận thức và tôn
trọng quy luật khách quan, vận dụng linh hoạt nguyên tắc khoa học là điều kiện tốt nhất để thực
hiện tính ĐHCT trong giảng dạy.
Tính Đảng, tính giai cấp công nhân trong giảng dạy LLCT còn thể hiện ở việc đấu tranh phê
phán những quan điểm sai trái, phản động, phản khoa học. Đấu tranh vạch trần bản chất chính trị
của quan điểm, tư tưởng phản động, phản khoa học, thù địch với chủ nghĩa Mác-Lênin và CNXH là
một nguyên tắc cơ bản trong giảng dạy LLCT. Do đó, cùng với việc luận giải làm sáng tỏ tính cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, người dạy phải làm rõ cơ sở giai cấp-xã hội, nguồn
gốc, bản chất chính trị của các quan điểm phản diện; phải lập luận, chứng minh có sức thuyết phục,
tránh tình trạng nêu ra rồi phê phán một cách chung chung, vô căn cứ; phải có sự chuẩn bị kỹ càng
và gắn chặt với nội dung học tập cụ thể, bài giảng cụ thể, lồng ghép vào nội dung giảng dạy để đấu
tranh phê phán nhằm định hướng nhận thức, tư tưởng, quan điểm đúng đắn cho người học về nội
dung học tập. Qua đó, củng cố quan điểm lập trường giai cấp công nhân, xây dựng BLCT, nâng cao
khả năng và phương pháp đấu tranh tư tưởng, lý luận, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trên
mặt trận chính trị, tư tưởng, nhất là trong điều kiện hiện nay.

Hai là, tính hiệu quả chính trị thực tế của hoạt động giảng dạy LLCT.


Đặc trưng cốt lõi nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin là “cải tạo hiện thực khách quan”.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một học thuyết mà là một cuộc vận
động”[2, tr.399].
Hiệu quả chính trị thực tế của hoạt động giảng dạy LLCT là sự chuyển biến trong nhận
thức, tư tưởng, tình cảm, là sự giác ngộ chính trị và chuyển hoá thành hành động cách mạng
của người học. Hiệu quả đó được thể hiện trước hết ở ý thức trách nhiệm chính trị, hoàn thành
tốt nhiệm vụ học tập, góp phần hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Trang bị tri thức LLCT
không chỉ nhằm tăng khối lượng kiến thức một cách thuần tuý mà cần chú trọng xây dựng thế
giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học, nâng cao năng lực nhận thức các vấn đề chính
trị- xã hội và năng lực hoạt động nghề nghiệp trong lực lượng vũ trang. Đặc biệt, từ trang bị
kiến thức, tập trung xây dựng phương hướng chính trị-xã hội vững vàng để trong mọi hoàn
cảnh, mọi tình huống họ không chao đảo, dao động trước những diễn biến phức tạp.
Hiệu quả chính trị thực tế của hoạt động giảng dạy LLCT còn được biểu hiện ở mức độ
chuyển hoá kiến thức lý luận, tình cảm cách mạng thành lý tưởng, niềm tin chính trị.
Lý tưởng và niềm tin chính trị có được chủ yếu dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng ta. Mục tiêu lý tưởng
chiến đấu của mỗi quân nhân cách mạng, của người sĩ quan quân đội phù hợp với mục tiêu lý
tưởng chiến đấu của Đảng, của quân đội. Đó là sự tận trung với nước, tận hiếu với dân, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và CNXH. Niềm tin cộng sản là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa nhận thức sâu sắc chân lý của chủ nghĩa Mác- Lênin với tình cảm và đạo đức
cách mạng được nâng lên và hun đúc thành ý chí cách mạng. Người có niềm tin cách mạng là
người có khả năng tự mình đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin, có khả năng
phân tích khoa học các quá trình, hiện tượng xã hội. Để người học có được niềm tin và lý
tưởng chính trị. một mặt, người dạy phải có phẩm chất chính trị, niềm tin chính trị sâu sắc,
đạo đức cách mạng trong sáng, đặc biệt phải có năng lực sư phạm giỏi, thể hiện nội dung và
phương pháp giảng dạy thực sự khoa học, chất lượng cao, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Mặt



khác, người học phải có thái độ, động cơ, phương pháp học tập đúng đắn, khoa học. “Phải tự
nguyện, tự giác xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ chuyên môn
phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao
tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập”[75,
tr.499].
Một nội dung quan trọng biểu hiện về hiệu quả tính ĐHCT trong giảng dạy LLCT là năng
lực vận dụng lý luận vào thực tiễn cuộc sống của người học. Năng lực vận dụng lý luận vào
thực tiễn là tiêu chuẩn quan trọng nhất cần phải chiếm lĩnh trong giảng dạy LLCT, đây được
coi là khâu cuối cùng của quá trình giảng dạy LLCT. Nắm vững bản chất cách mạng, khoa
học của chủ nghĩa Mác- Lênin đã khó, việc vận dụng kiến thức vào hoạt động thực tiễn còn
khó khăn hơn nhiều. Bởi vậy, trong giảng dạy, giáo viên vừa phải định hướng người học nắm
thực chất các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phải chỉ ra cách thức vận dụng lý luận
vào điều kiện cụ thể, đặc biệt, sự vận dụng lý luận của Đảng ta vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Dùng lý luận để soi sáng thực tiễn lịch sử, nhất là thực tiễn liên quan trực tiếp đến hoạt
động nghề nghiệp của họ, kể cả thực tiễn của chính bản thân họ trên các mặt nhận thức, tư
tưởng, quan điểm, lập trường và hành vi hàng ngày của họ. Cùng với việc giúp người học
nắm thực chất lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, trong giảng dạy cần chú trọng trang bị cho họ
phương pháp luận mác-xít để phân tích sâu sắc các vấn đề, các tình huống, nhất là tình huống
chính trị- xã hội liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của họ. Calinin cho rằng: “một người
mác xít chỉ có giá trị khi nào họ biết vận dụng phương pháp mácxít để giải quyết các vấn đề
cụ thể”[13, tr.493]. Do đó, trên cơ sở trang bị tri thức LLCT, người dạy giúp người học biết
dựa vào quy luật khách quan, nhận thức và giải quyết đúng đắn mâu thuẫn, định hướng đúng
đắn công việc, ra quyết định chính xác, giải quyết vấn đề có chủ đích, có mục tiêu cụ thể.
* Tính khoa học và biểu hiện của nó trong giảng dạy LLCT
Từ điển tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng, 1997) định nghĩa: Khoa học với tính cách là một danh
từ dùng để chỉ hệ thống tri thức phản ánh đúng đắn qui luật tự nhiên, xã hội và tư duy con


người, giúp con người có khả năng vận dụng để cải tạo hiện thực. Với tính cách là một tính

từ, khoa học chỉ tính chất nhận thức và hành động của con người phù hợp với những đòi hỏi
của khoa học (khách quan, chính xác, có hệ thống...) để nhận thức và hành động của họ phù
hợp với chân lý khách quan, với thực tiễn cuộc sống có khả năng cải tạo hiện thực hiệu quả
nhất. Với quan niệm như vậy, ta thấy tính khoa học trong giảng dạy LLCT trước hết đòi hỏi
người dạy phải lựa chọn nội dung thể hiện sự tôn trọng chân lý, diễn đạt chính xác chân lý.
Đồng thời, phải nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề có tính qui luật trong quá
trình giảng dạy. Đó là những vấn đề phản ánh bản chất, đặc trưng cốt lõi, chi phối sự vận
động và phát triển cũng như mục đích, hiệu quả đạt được của quá trình giảng dạy LLCT. Bao
gồm: một là, sự phụ thuộc tất yếu của hoạt động giảng dạy LLCT vào mục đích, lợi ích chính
trị của Đảng, của giai cấp công nhân nói chung và yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong
giai đoạn cách mạng mới nói riêng. Hai là, sự phụ thuộc của các nhân tố, bộ phận, các khâu,
các bước trong quá trình giảng dạy vào đặc điểm của đối tượng đào tạo, trước hết là đặc điểm
về nhận thức, tư tưởng, tâm, sinh lý, thái độ, quan điểm. Ba là, sự tác động khách quan của
tình hình kinh tế- xã hội, điều kiện và môi trường sư phạm cụ thể đến quá trình giảng dạy
LLCT...
Như vậy, giảng dạy LLCT là loại hình hoạt động rất phong phú, đa dạng, chứa đựng đồng
thời nhiều khía cạnh hoạt động khác nhau, đan xen vào nhau. Nó vừa là hoạt động mang tính
mục đích chính trị – thực tiễn sâu sắc, vừa là hoạt động mang tính khoa học sáng tạo. Chính
trị của giai cấp công nhân là chính trị cách mạng, phù hợp với qui luật vận động và xu hướng
phát triển tất yếu của xã hội loài người. Vì vậy, chủ thể giảng dạy càng nhận thức và vận dụng
đúng đắn các qui luật khách quan trong quá trình sư phạm, càng thể hiện sự trung thành và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bao nhiêu, thì càng làm cho
đối tượng đào tạo nhanh chóng giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chính trị bấy nhiêu. Ph.Ăngghen
viết: “Khoa học càng được tiến hành dũng cảm và kiên quyết thì nó càng phù hợp với lợi ích
và nguyện vọng của giai cấp công nhân”[3, tr.451].


Từ những điều phân tích trên, có thể quan niệm tính khoa học trong giảng dạy LLCT như
sau:
Tính khoa học trong giảng dạy LLCT là tính chất hợp qui luật của nhận thức và hoạt

động của chủ thể giảng dạy tác động đến đối tượng đào tạo, nhằm xây dựng, phát triển
những phẩm chất, năng lực cần thiết cho người học, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào
tạo.
Biểu hiện tính khoa học trong giảng dạy LLCT ở các trường SQBĐH.
Học thuyết Mác- Lênin là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, ra đời từ nhu cầu cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và trở thành hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
Học thuyết Mác- Lênin là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh chống lại CNTB- chế độ bóc lột cuối cùng trong lịch sử, nhằm giải
phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại và con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, khỏi nghèo
nàn, lạc hậu. Học thuyết Mác- Lênin tự thân đã mang tính khoa học sâu sắc, bởi nó được xây
dựng không phải từ những mong muốn chủ quan hay những suy nghĩ tư biện của C.Mác và
Ph.Ăngghen mà trên cơ sở phân tích đúng đắn các quy luật vận động khách quan và những
mâu thuẫn nội tại của lịch sử xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định.
Cùng với tính cách mạng, tính khoa học là đặc trưng bản chất, vốn có trong lý luận MácLênin, nhưng không phải cứ giảng dạy LLCT là tính khoa học ở các quan điểm trong học
thuyết này được đem lại cho người học một cách trọn vẹn và tự nhiên, vì nó còn phụ thuộc
vào khả năng truyền đạt của chủ thể và khả năng tiếp nhận của người học như thế nào. Thực
tế, có những giáo viên truyền thụ nội dung đã làm sáng rõ tính khoa học trong các quan điểm
lý luận, nhưng cũng có những giáo viên giảng dạy chưa đem lại cho người học sự hiểu biết
đúng, đủ về bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi giáo viên nhận
thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề có tính quy luật trong những điều kiện sư phạm cụ
thể thì tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin được thể hiện tốt, chất lượng


giảng dạy LLCT được nâng cao. Ngược lại, nếu chủ thể không tôn trọng quy luật khách quan,
vận dụng không linh hoạt, sáng tạo thì tính khoa học và tính cách mạng bị giảm sút, thậm chí
bị triệt tiêu. Vì vậy, khi nói tính khoa học trong giảng dạy LLCT là nói đến những đòi hỏi
khách quan từ thực tiễn giảng dạy mà giáo viên cần phải đáp ứng. Song, tính khoa học có mối
quan hệ chặt chẽ với hoạt động của chủ thể và phụ thuộc trực tiếp vào trình độ, năng lực sư
phạm của chủ thể giảng dạy. Tính khoa học trong giảng dạy LLCT được biểu hiện cụ thể ở
những khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất; tính khách quan, chính xác, có hệ thống về tri thức LLCT, phù hợp với đối
tượng và mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Xét về nguyên tắc và phương pháp luận, có thể khẳng định, chỉ có trên cơ sở giáo viên luôn quán
triệt sâu sắc những yêu cầu thực tiễn, bám sát mục tiêu, mô hình và đối tượng đào tạo, cũng như
việc nắm vững đối tượng, phương pháp giảng dạy bộ môn khoa học mình đảm nhiệm thì mới có thể
đạt được tính khoa học trong xác lập, lựa chọn, sử dụng nội dung giảng dạy LLCT.
Tính khoa học trong nội dung giảng dạy được thể hiện trước hết ở việc trang bị cho học viên
một khối lượng kiến thức có tính hệ thống, toàn diện, hiện đại và chính xác về các lĩnh vực hoạt
động cơ bản của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp quân sự. Hệ thống tri
thức đó phản ánh sự tích hợp những tinh hoa văn hoá nhân loại, lịch sử dân tộc, lịch sử truyền thống
xây dựng và chiến đấu của quân đội ta. Những vấn đề lý luận cơ bản được sắp xếp đưa vào giảng
dạy phải thể hiện tính liên thông, liên kết có mối quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh hưởng hỗ trợ nhau
tạo thành một chỉnh thể thống nhất, chứa đựng nội dung khoa học sâu sắc. Nội dung đó vừa bảo
đảm tính cụ thể, chân thực của sự vật hiện tượng, vừa chứa đựng sự khái quát hoá cao, sâu sắc và
mang tính phổ quát, có như vậy mới đem lại cho người học sự cuốn hút mạnh mẽ, sức hấp dẫn và
tính thuyết phục cao, tạo được nhận thức đúng đắn, hình thành quan điểm tư tưởng rõ ràng và niềm
tin khoa học vững chắc.


×