Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

LUẬN án TIẾN SĨ - LOGIC KHÁC QUAN của QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN ý THỨC PHÁP LUẬT ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.86 KB, 164 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội công
dân là hai mặt của một quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trách nhiệm cao không chỉ
từ phía Nhà nước, mà còn chủ yếu là trách nhiệm của người dân. Trong đó,
việc tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp quyền trong nhân
dân có tầm quan trọng hàng đầu. Hiểu biết pháp luật ngày càng đầy đủ sẽ
làm tăng niềm tin của người dân vào Nhà nước, vào pháp luật và làm cơ sở
định hướng đúng đắn cho các hành vi của người dân trong xã hội. Người
dân tuân thủ pháp luật chính là tuân thủ những quy định pháp lý bảo vệ lợi
ích của chính bản thân, gia đình và cộng đồng của mình. Một xã hội có kỷ
cương, kỷ luật phải được xây dựng trên ý thức tuân thủ pháp luật ngày càng
cao của mọi người, giáo dục mọi thành viên và các cộng đồng trong xã hội
thói quen và lối sống tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Đó là một nội dung
không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền. Trình độ nhận thức và thực
hành các quyền và nghĩa vụ công dân là điều kiện thiết yếu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực tế ở Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy, sở dĩ pháp
luật chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành cái không thể thiếu khi
điều chỉnh các quan hệ xã hội là vì, một mặt, chúng ta chưa có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, theo kịp sự phát triển của xã hội; mặt khác, ý
thức pháp luật của người dân còn rất nhiều hạn chế.
Tình trạng kỷ cương, phép nước không nghiêm, các loại tội phạm
gia tăng, nhiều cán bộ nhà nước vi phạm pháp luật... là do nhiều nguyên
nhân, trong đó, một phần là do hiểu biết pháp luật không đầy đủ và không
chính xác. Trong mặt bằng dân trí nói chung còn thấp hiện nay, thì dân trí



6

về pháp luật được xem là yếu nhất. Mặt khác, sự thiếu hiểu biết về pháp
luật còn hạn chế đáng kể quá trình phát triển kinh tế, xã hội và việc thực
hiện vai trò làm chủ, vai trò kiểm tra, giám sát của người dân đối với cơ
quan và cán bộ - viên chức nhà nước. Người dân, nhất là ở khu vực nông
thôn, nông nghiệp thiếu hiểu biết các cơ sở pháp lý cần thiết cho việc huy
động vốn, đầu tư vốn, kỹ thuật và sức lao động cho sản xuất, kinh doanh.
Vì thế, nhu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, sống và làm
việc theo Hiến pháp, pháp luật đã và đang được đặt ra một cách cấp bách,
nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, khi chúng ta chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân
và vì dân, một Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thì vấn đề này càng
trở nên quan trọng và cấp thiết. Đảng và Nhà nước ta đã ý thức được rằng:
Điều quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao trình độ dân trí hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp
luật của nhân dân, thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý
thức sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân [14, tr. 91-92].
Như vậy, pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống một cách thực sự,
khi Nhà nước và mỗi công dân hiểu một cách đúng đắn tính chất của pháp
luật, các mối liên hệ của pháp luật với những chuẩn giá trị và các công cụ
điều chỉnh khác của xã hội, có ý thức và hành vi tuân thủ tích cực hệ thống
pháp luật đang tồn tại.
Nhưng, để nâng cao được ý thức pháp luật,chúng ta phải làm như
thế nào? Khi giải đáp vấn đề này, chúng ta cần lưu ý rằng phương pháp
hoạt động của con người thuộc vào hoạt động của nhân tố chủ quan; một
phương pháp hoạt động chỉ đúng và, do đó, có kết quả, khi phù hợp với
khách quan, trong đó, quan trọng nhất là quy luật khách quan của chính sự

vật. Liên quan tới đề tài luận án, việc làm sáng tỏ lôgíc khách quan, quy


7

luật khách quan của quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật
có vai trò quyết định. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới đưa ra được những
phương hướng, giải pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả tác động nhằm
phát triển ý thức pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ thực tiễn lịch sử nhân loại cho thấy, với tư cách là một bộ phận
của ý thức xã hội, ý thức pháp luật cũng có quá trình ra đời, tồn tại và phát
triển. Ngoài việc phải tuân theo những quy luật chung phổ biến, quá trình
này còn bị chi phối bởi những quy luật rất đặc thù. Bởi vì, ý thức pháp luật
của mỗi quốc gia, dân tộc đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, chính
trị, truyền thống dân tộc, văn hóa của các quốc gia, dân tộc đó cùng những
quy luật đặc thù do điều kiện cụ thể đó quy định.
Vì vậy, muốn xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật, trước hết phải
nhận thức đúng quy luật hình thành và phát triển của ý thức pháp luật,
những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình này, trên cơ sở đó, chúng ta mới có
những giải pháp thúc đẩy quá trình này phát triển tích cực, tạo tiền đề cơ
bản cho việc nâng cao ý thức pháp luật của các công dân trong xã hội.
Trong khi vấn đề đặt ra như vậy thì việc nghiên cứu quy luật và tính
quy luật, lôgíc của quá trình hình thành, phát triển ý thức pháp luật ở nước
ta lại chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, chúng tôi chọn đề tài: "Lôgíc
khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở
Việt Nam" để nghiên cứu và trình bày thành công trình khoa học nhằm
giành học vị tiến sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, lĩnh vực ý thức pháp luật đã được một số tác giả nghiên
cứu dưới nhiều góc độ và ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mục

đích nghiên cứu và các phương pháp sử dụng cụ thể.
Ở nước ngoài, có một số tác giả nghiên cứu về lĩnh vực này ở
những khái niệm cơ bản nhất, điển hình trong số đó là K. T. Belxki với


8

cuốn sách: "Sự hình thành ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa của cá nhân"
xuất bản năm 1982. Trong đó, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về các vấn đề xã hội, tác giả đã phân tích quá trình hình thành ý thức
pháp luật xã hội chủ nghĩa diễn ra thế nào, nó phụ thuộc vào những yếu tố
gì...; Minogue- Martin trong cuốn: "Pháp luật và sự quản lý nhà nước"
xuất bản năm 1993, cũng đã đề cập đến một số vấn đề về ý thức pháp luật.
Ở trong nước, vấn đề này cũng đã đề cập trong một số công trình
khoa học. Có thể chia các công trình đó thành mấy loại sau đây:
Một là, các công trình, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước, cấp Bộ thuộc lĩnh vực khoa học pháp lý hay lĩnh vực khoa học xã
hội nói chung mà ở đó có đề cập đến nội dung của ý thức pháp luật, như:
"Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" (Đề
tài KX-07-17, Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật);
"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay"
của Bộ Tư pháp; "Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng" (Đề tài KHXH 05.05. Chủ nhiệm: GS.TS
Đào Trí Úc)...
Trong các công trình này, các tác giả đã đề cập một số vấn đề rất cơ
bản, như: ý thức và lối sống theo pháp luật; thực trạng hiểu biết pháp luật
và thái độ đối với pháp luật của các tầng lớp dân cư; giáo dục pháp luật và
những vấn đề đang đặt ra v.v...
Hai là, các luận án phó tiến sĩ khoa học pháp lý có nội dung gần gũi
với đề tài, đã được bảo vệ trong nước và ngoài nước như: "Ý thức pháp luật
và giáo dục pháp luật ở Việt Nam" (1977) của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo

dục ý thức pháp luật trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa"
(1988) của Trần Ngọc Đường; "Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay" (1995) của Lê Đình
Khiên... Các luận án này có mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau,


9

nhưng nhìn chung, đều xuất phát từ góc nhìn của khoa học pháp lý mà nêu
ra những khái niệm cơ bản về ý thức pháp luật, về giáo dục pháp luật...
Ba là, các loại sách, báo, tạp chí đã được xuất bản có những bài viết
liên quan đến vấn đề này, như: "Xã hội và pháp luật" của Viện Nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994;
"Đại hội VIII - Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của
khoa học về Nhà nước và Pháp luật" của Viện Nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật xuất bản năm 1997; "Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (1992); "Xây dựng ý thức và lối sống theo
pháp luật" do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên năm 1995; "Xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước và Pháp luật của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam" của
Phùng Văn Tửu, xuất bản năm 1999... Ngoài các cuốn sách chuyên khảo,
còn có nhiều bài báo in trên các tạp chí, như: "Ý thức pháp luật với công
cuộc xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta" của Tân Chi,
Tạp chí Luật học, số 1/1975; "Vai trò của đạo Khổng trong sự hình thành
và sử dụng pháp luật ở Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 3/1993; "Giáo dục pháp luật cho công dân-cơ sở để nâng cao
hiệu quả của quá trình điều chỉnh pháp luật" Lê Quốc Hùng, Tạp chí Cộng
sản, số 2/1999; "Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử
truyền thống" của Vũ Minh Giang, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
3/1993...
Nhìn tổng thể, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công

trình được xuất bản, nhưng cho đến nay ở nước ta, các nghiên cứu ấy đều
xuất phát từ góc nhìn luật học hoặc sử học, chưa có công trình nào đề cập
một cách khái quát nhất về lô gích khách quan của quá trình hình thành và
phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận án.
Lĩnh vực ý thức pháp luật trong bản luận án này được xem xét từ


10

cách nhìn triết học, vì thế, toàn bộ nội dung của luận án - từ việc trình bày
khái niệm chung về ý thức pháp luật, các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá
trình hình thành, phát triển ý thức pháp luật đến tính phổ biến và những
điểm đặc thù trong quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở
Việt Nam - đều chỉ để nhằm mục đích làm rõ tính lôgíc khách quan của quá
trình này từ lịch sử. Sẽ có rất nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về thuật
ngữ lôgíc. "Lôgíc" có thể hiểu là cơ chế hình thành và phát triển của bản
thân sự vật; có thể hiểu là quy luật phát triển của sự vật; có thể hiểu là tập
hợp những quy luật mà tư duy phải tuân theo nhằm phản ánh đúng đắn thế
giới khách quan... Trong luận án này, chúng tôi chỉ xem xét lôgíc với tư
cách là lôgíc khách quan, lôgíc nội tại của bản thân quá trình hình thành
và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam. Nó là con đường vận động nội
tại tất yếu của chính quá trình này, xuyên suốt trong chiều dài lịch sử; nó
chỉ thuộc về bản thân quá trình đó, quy định nên sự phát triển của hiện
tượng đó, Theo nghĩa này, xét từ góc độ triết học nó chính là lôgíc của quá
trình đó. Tính lôgíc này chưa phải là tính quy luật chung của quá trình hình
thành và phát triển ý thức pháp luật Việt Nam, vì muốn làm được điều đó,
vấn đề này đòi hỏi phải được xem xét toàn diện hơn, sâu sắc hơn, phải vạch
ra được cơ chế hình thành và phát triển của chính quá trình đó. Trong
khuôn khổ của một luận án tiến sĩ triết học, với khả năng có hạn chúng tôi

chỉ có tham vọng bước đầu chỉ ra con đường vận động nội tại tất yếu của ý
thức pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp phù hợp với
sự phát triển của quá trình này trong thời kỳ lịch sử mới, nhằm tạo được
những tiền đề cơ bản góp phần xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật ở
nước ta hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ phạm vi đã xác định trên, mục đích của luận án là: bước đầu
làm rõ lô gíc khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức


11

pháp luật ở Việt Nam; xuất phát từ lôgíc khách quan đó, nêu ra một số kiến
nghị về giải pháp nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và lối sống
theo pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Xác định nội hàm của khái niệm "ý thức pháp luật", các đặc điểm
và vai trò của ý thức pháp luật đối với sự phát triển xã hội; chỉ ra những
yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp
luật.
- Làm rõ lôgíc khách quan nội tại của quá trình hình thành và phát
triển ý thức pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
- Từ việc làm rõ những vấn đề đang đặt ra, luận án đề cập một số
giải pháp cơ bản giải quyết những vấn đề đó nhằm thúc đẩy quá trình hình
thành, phát triển ý thức pháp luật Việt Nam vận động theo đúng quy luật của
mình để nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ta trong giai đoạn hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong các phần có liên quan đến các nội dung của đề tài.

- Để triển khai nội dung nghiên cứu của mình, tác giả đã vận dụng
tổng hợp các phương pháp của phép biện chứng duy vật, trong đó đặc biệt chú
ý kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử; ngoài ra
cũng chú ý vận dụng các phương pháp hệ thống - cấu trúc, luật học so sánh...
6. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Từ góc độ triết học, đã trình bầy tương đối có hệ thống các yếu tố


12

cơ bản ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật.
- Làm rõ lôgíc khách quan nội tại của quá trình hình thành và phát
triển ý thức pháp luật ở Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển của ý thức pháp luật Việt Nam để nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sức sống mãnh
liệt của những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin khi vận dụng nó
để nghiên cứu những vấn đề trong thực tiễn xã hội nói chung, trong việc
nghiên cứu ý thức pháp luật nói riêng.
- Những kết quả nghiên cứu đạt được trong luận án này góp phần
vào việc nghiên cứu từ phương diện triết học lý luận chung về ý thức pháp
luật; những cơ sở để hình thành, phát triển và nâng cao ý thức pháp luật
như một trong những tiền đề cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu
và giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học về triết học Mác - Lênin, lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật, lôgíc học...
8. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 3 chương, 6 tiết.


13


14

Chương 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT

1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT - MỘT BỘ PHẬN CẤU THÀNH Ý THỨC
XÃ HỘI

1.1.1. Ý thức pháp luật và cơ cấu của nó
1.1.1.1. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội trong xã hội có
giai cấp, nó là phản ánh tồn tại xã hội từ góc nhìn pháp luật.
Trong nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tế xã hội có nhiều
quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.
Theo quan niệm thông thường, người ta không trình bày ý thức
pháp luật với những dấu hiệu đặc trưng của nó (nội hàm của khái niệm) mà
thường đồng nhất ý thức pháp luật với một trong các biểu hiện cụ thể của
nó - đó là ý thức chấp hành những quy định pháp luật ở một cá nhân hay
tập thể nào đó. Do vậy, căn cứ để đánh giá mức độ cao hay thấp của ý thức
pháp luật là ở mức độ của hành vi mà các chủ thể chấp hành những yêu cầu
của các quy định pháp luật. Quan niệm này giúp cho ta có thể đánh giá

được trình độ ý thức pháp luật của một đối tượng cụ thể nào đó, nhưng đó
chỉ là sự nhìn nhận, đánh giá cái bên ngoài, cái hình thức của đối tượng và
rất dễ bị rơi vào phiến diện, chủ quan, mà không thấy được mặt bản chất
cũng như vai trò năng động, sáng tạo của ý thức pháp luật.
Trong nghiên cứu lý luận cũng có ba loại quan điểm khác nhau về ý
thức pháp luật.


15

Loại quan điểm thứ nhất cho rằng: "Ý thức pháp luật là một dạng
cụ thể của hệ thống ý thức xã hội, nó phản ánh những quy luật khách quan,
nó tác động đến mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống của xã hội " [85, tr.
11]. Quan niệm này có tính khái quát, nhưng lại quá chung làm cho phạm
vi phản ánh của ý thức pháp luật quá rộng, nó chưa nêu lên được nét đặc
trưng của ý thức pháp luật.
Loại quan điểm thứ hai thường chỉ nhấn mạnh mặt này hay mặt kia
của ý thức pháp luật. Chẳng hạn, "ý thức pháp luật - đó là trình độ hiểu biết
của các tầng lớp nhân dân về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối
với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối
với hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội" [91, tr. 609]. Quan niệm này
tập trung nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật.
Quan niệm khác tập trung nhấn mạnh bản chất giai cấp của ý thức pháp
luật. Theo đó, "ý thức pháp luật là tổng hòa những quan điểm, quan niệm, tình
cảm về mặt pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và nhân dân Xô
viết do giai cấp công nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những yêu cầu
khác của pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân" [98,
tr.73].
Loại quan điểm thứ ba đề cập đến ý thức pháp luật một cách đầy
đủ, toàn diện hơn. Ngoài việc chỉ ra được tính chất, cơ cấu và nội dung của

ý thức pháp luật, quan niệm này còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ
phổ biến, tất yếu của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội. Theo quan
niệm này:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng
thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm
của con người (cá nhân, tầng lớp, giai cấp) thể hiện thái độ của
họ đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật


16

trong tương lai, về hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp
của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức [90, tr. 79].
Trên cơ sở tổng hợp các quan niệm về ý thức pháp luật đã nêu ở
trên, có thể rút ra được những dấu hiệu bản chất trong nội hàm của khái
niệm ý thức pháp luật như sau:
- Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội được
quyết định bởi các nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội.
- Ý thức pháp luật là sự phản ánh một cách tích cực và sáng tạo của
con người về tồn tại xã hội từ góc nhìn pháp luật. Vì thế, mặc dù bị quy
định bởi tồn tại xã hội, nhưng trình độ của ý thức pháp luật không chỉ phụ
thuộc trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn phụ thuộc vào các nhân tố
chủ quan của con người.
- Quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật cũng tuân
theo con đường chung của quá trình nhận thức. Nó cũng xuất phát từ quá
trình nhận thức cảm tính với những xúc cảm, tâm trạng, thái độ, tình cảm
của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác. Sau đó, là
quá trình nhận thức lý tính với các khái niệm, quan điểm, học thuyết về các
vấn đề đó.
- Nội dung của ý thức pháp luật là sự thể hiện thái độ của con

người, sự đánh giá của con người đối với pháp luật; nó là quan niệm về
quyền và nghĩa vụ, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi xử
sự, về tính công bằng hay không công bằng của những quy phạm pháp luật.
- Ý thức pháp luật mang tính giai cấp trong nội dung cơ bản của mình.
Từ việc khái quát các dấu hiệu bản chất trong nội hàm của khái
niệm ý thức pháp luật trên, có thể đi đến một định nghĩa ngắn gọn về ý thức
pháp luật như sau:


17

Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ
đối với pháp luật của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có
giai cấp.
1.1.1.2. Cơ cấu của ý thức pháp luật
Việc phân tích, làm rõ được cơ cấu của ý thức pháp luật là tiền đề
quan trọng giúp ta có thể tìm ra những phương thức phù hợp tác động để
nâng cao ý thức pháp luật. Vì thế, việc tìm hiểu về cơ cấu của ý thức pháp
luật có ý nghĩa rất quan trọng. Có thể hình dung cơ cấu của ý thức pháp
luật là cấu tạo bên trong của ý thức pháp luật, trong đó giữa các yếu tố cấu
thành của nó vừa thống nhất với nhau, vừa có tác động ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau và với các hiện tượng khác trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ý thức pháp luật có cơ cấu rất phức tạp. Dựa trên các cơ sở khác nhau
có thể chia ý thức pháp luật ra thành những bộ phận cấu thành khác nhau.
Mỗi cách phân chia như thế có ý nghĩa nhất định trong nhận thức bản chất,
đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật.
- Căn cứ vào cấp độ của sự phản ánh, ý thức pháp luật bao gồm hai
bộ phận là tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
* Tâm lý pháp luật

Tâm lý pháp luật chính là nấc thang đầu tiên của nhận thức con
người về những vấn đề liên quan đến pháp luật. Sự tồn tại của tâm lý pháp
luật chính là sự thể hiện của tâm lý con người một cách trực diện với các
hiện tượng tồn tại bên ngoài có liên quan đến pháp luật. Tâm lý pháp luật là
kết quả của nhận thức trực tiếp, mang nhiều yếu tố chủ quan.
Về đại thể, tâm lý pháp luật được hình thành như sau: Trong đời
sống pháp luật, hành vi của con người không diễn ra một lần, mà thường
lặp đi lặp lại nhiều lần; từ đó, nảy sinh nhu cầu điều chỉnh các hành vi xử


18

sự của con người. Nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh hành vi của
con người trong đời sống cộng đồng vốn tồn tại khách quan, nhưng các cá
nhân khác nhau nhìn nhận và nảy sinh tâm lý về nhu cầu đó khác nhau. Do
đó, tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm
trạng, cảm xúc đối với đời sống pháp luật. Từ đó dần dần hình thành nên
những hiểu biết về pháp luật. Chính sự hiểu biết về pháp luật giữ một vai
trò quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật. Như chúng ta đã biết,
tri thức là phương thức tồn tại của ý thức; sự hình thành và phát triển của ý
thức liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức thế giới, tích lũy
những tri thức, những hiểu biết về thế giới. Không nằm ngoài quy luật này,
ý thức pháp luật cũng chỉ được hình thành trên cơ sở của những tri thức. Tri
thức pháp luật càng đầy đủ thì trình độ của ý thức pháp luật càng cao. Rõ
ràng, với tư cách là chủ thể của các quan hệ pháp luật, công dân cũng như
các cơ quan tổ chức cần phải hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình để làm
căn cứ cho những quyết định và lựa chọn những gì cần phải làm và những
gì là bị cấm đoán. Đây chính là những cơ sở đầu tiên của hành vi có ý thức,
tự giác tuân theo pháp luật. Tri thức pháp luật đồng thời còn là yếu tố hình
thành tình cảm đối với pháp luật. Đó là sự tin tưởng hay không tin tưởng,

quan tâm hay thờ ơ đối với pháp luật. Nếu không nảy sinh từ những tri thức
pháp luật thì ý thức pháp luật, nếu có, cũng chỉ phản ánh một niềm tin
phiến diện, mù quáng mà thôi [95, tr. 511].
* Hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan điểm, tư tưởng, lý
thuyết phản ánh những vấn đề liên quan đến pháp luật một cách sâu sắc, có
hệ thống, toàn diện dựa trên lập trường của một giai cấp nhất định. Có thể
thấy rằng hệ tư tưởng pháp luật là sự nhận thức ở trình độ lý luận, có tính
hệ thống về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng


19

pháp luật. Nó là cơ sở để sáng tạo ra các giá trị pháp luật; phổ biến các tư
tưởng, quan điểm pháp luật trong xã hội.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một quốc gia bao giờ cũng là
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Vì thế, mỗi học thuyết, quan niệm, tư
tưởng, trường phái pháp lý đều chứa đựng trong nó những tư tưởng về
quyền lợi kinh tế, chính trị - xã hội và ý chí của một giai cấp nhất định.
Chúng nẩy sinh, tồn tại, phát triển hoặc bị thủ tiêu - tất cả đều phụ thuộc vào
những hoàn cảnh nhất định. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ của xã
hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của đông đảo các lực lượng khác
trong xã hội thì tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng
pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ nét; ngược lại, nó sẽ mang tính lạc hậu.
Nhưng cho dù là tiến bộ hay lạc hậu thì trong quá trình đang tồn tại,
các hệ tư tưởng này luôn có xu hướng chuyển hóa mạnh mẽ thành ý thức
pháp luật của toàn xã hội và luôn được lấy làm cơ sở lý luận của các đề
tài, các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý. Vì thế, nó có ảnh hưởng to
lớn đối với quá trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật trong
toàn xã hội.

* Mối quan hệ giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật
Giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật có quan hệ biện
chứng. Tâm lý pháp luật ra đời một cách tự phát, nhưng nó chịu sự chi phối
của hệ tư tưởng pháp luật. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân
phụ thuộc vào đặc điểm và trình độ nhận thức về pháp luật của cá nhân đó.
Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của
tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật của cá nhân là tiền đề của những tư
tưởng pháp luật mà cá nhân đó có thể đạt tới, tâm lý pháp luật là nguồn sữa
nuôi sống hệ tư tưởng. Lênin viết: "Thiếu cảm xúc, con người không thể và
không bao giờ tìm kiếm được chân lý" [46, tr. 112]. Điều đó cho thấy việc


20

coi tâm lý pháp luật là giai đoạn thấp và hệ tư tưởng pháp luật là giai đoạn
cao của ý thức pháp luật chỉ là một sự phân chia tương đối. Trong thực tế,
chúng là những bộ phận tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
- Căn cứ vào trình độ nhận thức, ý thức pháp luật được phân chia
thành ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận.
* Ý thức pháp luật thông thường
Ý thức pháp luật thông thường phản ánh mối liên hệ bên ngoài của
hiện tượng pháp luật với tư cách là các sự kiện riêng biệt của hiện thực đời
sống pháp luật. Nó ra đời một cách trực tiếp, tự phát từ hoạt động giao tiếp
hàng ngày, trong quá trình con người sống và va chạm với các sự kiện, hiện
tượng pháp luật. Nó thể hiện kinh nghiệm của chủ thể nhận thức về việc xử
lý các thông tin pháp luật, về khả năng giải thích các sự kiện pháp luật. Nó
mang tính kinh nghiệm là chủ yếu, thiếu sâu sắc và ổn định. Tuy nhiên,
không vì thế mà đồng nhất nó với tâm lý pháp luật cũng như đồng nhất ý
thức pháp luật thông thường với ý thức pháp luật tầm thường, ít có giá trị.

Ngược lại, mặc dù là ý thức pháp luật thông thường, nhưng nó có ý nghĩa
xã hội rất quan trọng: nó giúp cho con người xử lý nhanh chóng, kịp thời,
có hành vi phù hợp với những đòi hỏi của những quy định pháp luật ở mức
chung nhất. Thực tế cho thấy, trong đa số các trường hợp, ý thức pháp luật
thông thường lại góp phần nâng cao sự hiểu biết pháp luật của quần chúng
sớm hơn là ý thức pháp luật lý luận. Có thể coi ý thức pháp luật thông
thường là điều kiện, là cơ sở để phát triển ý thức pháp luật lý luận.
* Ý thức pháp luật lý luận
Ý thức pháp luật lý luận là nhận thức pháp luật ở mức độ sâu sắc,
có hệ thống. Ý thức pháp luật lý luận được đặc trưng trước hết ở chỗ, ý
thức pháp luật tồn tại dưới dạng lý luận, quan điểm về bản chất của pháp


21

luật, về sự tác động qua lại giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội khác,
về vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Để có ý thức pháp luật lý luận,
ngoài những điều kiện giáo dục chung như đối với ý thức pháp luật thông
thường, còn phải qua một quá trình đào tạo, học tập có hệ thống, qua
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn nhất định.
Ý thức pháp luật lý luận là yếu tố quyết định tốc độ, phương hướng
phát triển của ý thức pháp luật thông thường, đồng thời, nó có chức năng
dự báo, lập kế hoạch xây dựng chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, giáo dục, đào tạo, phổ biến kiến thức pháp luật.
Cần lưu ý rằng trong ý thức pháp luật lý luận cũng có ý thức pháp
luận lý luận khoa học và ý thức pháp luật phi khoa học.
- Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật, có thể chia ý thức pháp
luật thành: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật giai cấp, ý thức pháp
luật xã hội.
* Ý thức pháp luật cá nhân

Là tâm lý, tư tưởng pháp luật của mỗi cá nhân trong xã hội. Ý thức
pháp luật của mỗi cá nhân trong xã hội rất phong phú, đa dạng, nó phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố (như điều kiện sống, hoàn cảnh gia đình, môi
trường giáo dục, trình độ học vấn v.v.).
* Ý thức pháp luật giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật giai cấp là sự phản ánh vị
thế của từng giai cấp trong xã hội tương ứng. Các giai cấp khác nhau có
những điều kiện sinh hoạt vật chất, lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của
mỗi giai cấp quy định, lên ý thức pháp luật của các giai cấp có nội dung và
hình thức phát triển khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ý thức pháp luật của
các cá nhân thuộc một giai cấp nhất định, về bản chất, là biểu hiện mức độ
này hay mức độ khác ý thức giai cấp của họ.


22

* Ý thức pháp luật xã hội
Ý thức pháp luật xã hội là tổng thể những tư tưởng, tình cảm chung
của các cá nhân, các cộng đồng trong xã hội, nó phản ánh những vấn đề của
pháp luật. Ý thức pháp luật này xuất phát từ ý thức pháp luật cá nhân,
nhưng không phải là tổng số giản đơn các năng lực phản ánh của các cá
nhân, mà là một chỉnh thể mới về chất của những ý thức pháp luật cá nhân;
nó được hình thành nhờ sự tác động, cọ xát của ý thức pháp luật cá nhân
với cá nhân, cá nhân với tập thể, với cộng đồng xã hội. Nó toàn diện hơn
rất nhiều so với ý thức pháp luật cá nhân, giai cấp và chịu sự quyết định bởi
ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội..
Ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật giai cấp và ý thức pháp
luật cá nhân có mối liên hệ qua lại với nhau, trong đó mỗi loại ý thức pháp
luật có vai trò, vị trí, đặc điểm khác nhau. Ý thức pháp luật xã hội thể hiện
và phản ánh trong ý thức pháp luật giai cấp, đến lượt mình, ý thức pháp giai

cấp in dấu ấn nên ý thức pháp luật cá nhân và ý thức pháp luật xã hội.
1.1.2. Chức năng, các đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật
1.1.2.1. Chức năng của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, sự vận động
của các yếu tố trong cơ cấu bản thân nó cũng rất đa dạng và phong phú. Vì
vậy, việc phân chia chức năng của ý thức pháp luật cũng có những quan
điểm khác nhau. Chúng tôi tán thành với quan điểm cho rằng ý thức pháp
luật có bốn chức năng sau:
* Chức năng phản ánh
Từ khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp, nhà nước thì những vấn
đề về pháp luật cũng nảy sinh. Thực tiễn đã cho thấy, không thể duy trì sự
tồn tại của nhà nước, nếu nó không được đảm bảo bởi những cơ chế của


23

pháp luật. Những xung đột trong đời sống xã hội đã đặt ra nhu cầu khách
quan phải có những quy phạm chung để điều tiết các quan hệ xã hội, điều
tiết sự ứng xử của nhà nước, của các tổ chức xã hội và các công dân nhằm
duy trì và giữ vững ổn định xã hội. Từ đó, nhu cầu cần có pháp luật, cần
tuân thủ pháp luật được nảy sinh và phát triển. Ý thức pháp luật ra đời. Như
vậy, ý thức pháp luật chính là sự phản ánh đời sống xã hội ở những khía
cạnh liên quan đến luật pháp. Trình độ ý thức pháp luật được phản ánh qua
hệ thống văn bản pháp luật, tình trạng pháp chế, văn hóa pháp lý; hoạt động
tổ chức, thi hành và áp dụng pháp luật; thái độ của các tầng lớp nhân dân
đối với pháp luật; các tài liệu, các ấn phẩm thông tin pháp lý... Sự phản ánh
này, ngoài việc phụ thuộc vào khách thể của sự phản ánh (đời sống hiện
thực), còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố chủ quan (như trình độ nhận
thức, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về ý thức pháp luật...).
* Chức năng nhận thức

Ý thức pháp luật là sự nhận thức về những vấn đề của pháp luật
trong thực tiễn xã hội. Thông qua nhận thức đó mà con người có được
những tri thức về pháp luật; từ đó, hình thành các quan điểm, quan niệm,
lòng tin về pháp luật. Để thực hiện được quá trình này, chủ thể nhận thức bằng hành động có ý thức, có mục đích của mình - tiến hành phân tích hiện
thực pháp luật và nhận thức được cái bản chất của hiện thực đó. Vậy, quá
trình phát triển của ý thức pháp luật chính là quá trình tăng cường sự nhận
biết, quá trình tích lũy tri thức pháp luật, từ đó, hình thành nên những hành
vi pháp luật.
* Chức năng mô hình hóa
Như trên đã phân tích, từ quá trình nhận thức, tiếp thu những tri
thức về pháp luật, con người thông qua hoạt động của mình để hình thành
nên các mô hình hành vi nhất định (trong thuật ngữ luật học, người ta gọi


24

đó là các quy tắc xử sự chung). Đó là các mô hình cần thiết và tất yếu để
các quan hệ xã hội phát triển có kết quả. Chức năng này được thể hiện rõ
nhất trong các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật theo
những ý tưởng, mô hình, dự án định sẵn.
* Chức năng điều chỉnh
Khi con người đã có nhận thức một cách toàn diện, chính xác, bản
chất về đời sống pháp luật đang tồn tại thì quá trình nhận thức tiếp theo là
"từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn". Lúc này, ý thức pháp luật có tác
dụng chỉ đạo hành vi pháp luật thực tiễn. Nếu ý thức pháp luật đúng thì
hoạt động thực tiễn pháp luật mang tính tích cực, thúc đẩy sự phát triển,
còn ngược lại, hoạt động thực tiễn pháp luật sẽ mang tính tiêu cực, kìm
hãm sự phát triển. Nói trực tiếp hơn, trong lĩnh vực của ý thức pháp luật, có
thể hình dung như sau: từ nhận thức về đời sống pháp luật, ý thức pháp luật
thực hiện chức năng điều chỉnh của mình bằng cách tác động tới hành vi

pháp luật của con người; thông qua yếu tố tư tưởng, tâm lý, giúp cho con
người tự điều chỉnh hành vi pháp luật của mình sao cho phù hợp với pháp
luật, với các nguyên tắc của pháp luật
1.1.2.2. Các đặc điểm của ý thức pháp luật
Ý thức xã hội bao gồm nhiều hình thái ý thức, trong đó có ý thức
pháp luật. Sở dĩ có thể coi ý thức pháp luật lại là một hình thái ý thức xã
hội; là vì, trong tồn tại xã hội (sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội) [31, tr. 567] bao gồm rất nhiều các lĩnh vực. Trong
xã hội có giai cấp, ở lĩnh vực nào ý thức xã hội cũng có sự hiện diện của
các sự kiện, các hiện tượng pháp lý. Trong quá trình tồn tại, những sự kiện,
hiện tượng pháp lý này được con người nhận thức và hình thành lên ý thức
pháp luật. Ý thức pháp luật cũng chính là sự phản ánh tồn tại xã hội từ góc
độ của luật pháp. Vì thế, nó là một trong các hình thái của ý thức xã hội.


25

Là một trong những hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật cũng
tuân thủ những quy luật của ý thức xã hội nói chung. Đó là ý thức pháp luật
của thời đại nào chính là sự phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó. Do vậy,
ý thức pháp luật cũng chịu tác động của các điều kiện sản xuất vật chất của
xã hội đó. Mọi sự biến đổi của nền kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng dẫn
đến sự biến đổi trong pháp luật, trong ý thức pháp luật.
Trong lý luận, cũng có ý kiến cho rằng ý thức pháp luật không phải
là hình thái ý thức độc lập, mà là một yếu tố thuộc hình thái ý thức chính
trị. Do vậy, chỉ cần giáo dục ý thức chính trị là tự nhiên có ý thức pháp luật.
Thực tiễn chỉ ra rằng nhiều người có ý thức chính trị cao nhưng chưa hẳn
đã có ý thức pháp luật cao. Điều đó chứng tỏ không phải có ý thức chính trị
là mặc nhiên có ý thức pháp luật. Thực ra, một mặt, ý thức pháp luật có
quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác, mặt khác, nó cũng có những

nét đặc thù, độc lập tương đối so với các hình thái ý thức xã hội khác. Tính
độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, các hình thái ý thức xã hội khác nhau không những phản
ánh trạng thái đang tồn tại của các quan hệ xã hội mà còn phản ánh khuynh
hướng phát triển của nó. Sự phản ánh vượt trước đối với các quan hệ xã hội
phụ thuộc vào trình độ nhận thức các quy luật khách quan. Cùng với khả
năng phản ánh vượt trước đó, ý thức pháp luật cũng có khả năng lạc hậu
hơn so với trình độ phát triển của tồn tại xã hội. Thực tế chứng minh rằng
tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức nói chung, trong đó có ý thức
pháp luật do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài - đặc
biệt là trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi mà thói quen và truyền thống
đóng vai trò to lớn. Tuy nhiên, trong điều kiện nhất định, tư tưởng pháp
luật, đặc biệt là các tư tưởng pháp luật tiến bộ, khoa học có thể vượt lên
trên sự phát triển của tồn tại xã hội, mở ra con đường phát triển tiếp theo
cho tồn tại xã hội.


26

Thứ hai, ý thức pháp luật có sự tác động qua lại với các hình thái ý
thức xã hội khác. Các hình thái ý thức xã hội đều phản ánh và đánh giá các
hiện tượng xã hội theo cách của mình. Trong quá trình đó, các hình thái ý thức
xã hội tác động lẫn nhau, từ đó, các chủ thể của các hình thái ý thức xã hội
hình thành các hành vi phù hợp. Trong tổng thể các hình thái ý thức xã hội, ý
thức pháp luật có quan hệ gần gũi nhất với ý thức chính trị và ý thức đạo đức.
Nếu ý thức chính trị là sự phản ánh những nguyên tắc trong quan hệ
lẫn nhau giữa các tập đoàn xã hội đối với quyền lực nhà nước thì ý thức
pháp luật lại là những phạm trù phản ánh quan hệ cá nhân với nhà nước với
tư cách là những chủ thể mang quyền lợi và có nghĩa vụ. Tuy khác nhau
như vậy, nhưng chúng lại có quan hệ rất mật thiết, ảnh hưởng và gắn bó lẫn

nhau; trong đó, ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, là cái chi phối
ý thức pháp luật, Ngược lại, ý thức pháp luật lại là sự phản ánh những yêu
cầu chính trị dưới góc độ pháp luật. Đó là lý do vì sao có quan điểm cho
rằng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị.
Quan hệ của ý thức pháp luật và ý thức đạo đức thì lại khác. Ý thức
đạo đức là phản ánh mối quan hệ giữa các cá nhân và những quan điểm,
theo đó, con người tự ý thức về mình. Trong ý thức đạo đức không có khái
niệm quyền mà chỉ có khái niệm nghĩa vụ. Nhưng, nghĩa vụ trong ý thức
đạo đức cũng là những nghĩa vụ mang tính nội tâm và tự nguyện. Trái lại,
các khái niệm về nghĩa vụ, công bằng, thiện - ác trong ý thức pháp luật lại
được đưa lên cấp độ đạo luật của Nhà nước, nếu không thực hiện, hoặc vi
phạm nó, sẽ có những biện pháp cưỡng chế buộc phải thực hiện. Như vậy,
rõ ràng ở phương diện này, những khái niệm đó không còn là tự nguyện mà
nó có tính áp đặt trực tiếp cho con người.
Tuy vậy, quan hệ giữa ý thức pháp luật và ý thức đạo đức là quan hệ
bổ sung và hỗ trợ nhau, vì cả hai cùng hướng vào việc điều chỉnh hành vi
con người. Những định hướng đạo đức, những quan điểm về thiện - ác,


27

công bằng hay không công bằng, thông qua các quy định của pháp luật mà
trong đa số trường hợp đã trở thành cơ sở cho sự hình thành ý thức pháp
luật. Trong lịch sử đã có giai đoạn mà luật lệ được coi là truyền thống đạo
đức (xã hội nguyên thủy) và ngày nay có rất nhiều quy phạm của đạo đức
được nâng lên thành luật và, ngược lại, khi các hành vi sử sự về mặt pháp
luật của các chủ thể ở mức độ nào đó đã trở thành tiềm thức, thành thói
quen, thành truyền thống thì nó lại không cần thiết phải được quy định
trong luật nữa.
Thứ ba, ý thức pháp luật có tính giai cấp

Từ khi nhà nước xuất hiện, tức là xã hội đã phân chia giai cấp mới
có pháp luật, ý thức pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật luôn là
pháp luật của giai cấp thống trị, nhưng về mặt ý thức pháp luật, thì tất cả
các giai cấp (cả giai cấp thống trị lẫn giai cấp bị trị) đều có ý thức pháp luật
của riêng mình. Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị được thể hiện trong
nội dung, trong hình thức, trong quá trình thực hiện của pháp luật hiện
hành; nó thể hiện quan điểm, tư tưởng, đường lối, chính sách cai trị của giai
cấp thống trị đối với toàn xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Ý
thức pháp luật của giai cấp bị trị thể hiện thông qua quan điểm, thái độ,
hành vi của họ đối với nhà nước và pháp luật của giai cấp thống trị nhằm
bảo vệ quyền lợi của mình. Như vậy, không có ý thức pháp luật chung cho
mọi giai cấp, ý thức pháp luật của giai cấp nào cũng chứa đựng nét đặc thù
của giai cấp đó. Nó là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
làm nảy sinh, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển hoặc sự diệt vong của
giai cấp tương ứng. Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật
phản ánh ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước. Các giai cấp bị trị
chịu ảnh hưởng và tác động bởi ý thức pháp luật của giai cấp thống trị. C.
Mác, Ph. Ăngghen viết: "Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật
chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử


28

nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần
cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối " [54, tr. 66].
C.Mác đã khái quát về tính giai cấp của ý thức pháp luật trong xã
hội tư bản như sau:
Bản thân những tư tưởng của các người là sản phẩm của
những quan hệ sản xuất tư bản và quan hệ sở hữu tư bản, cũng

giống như pháp luật của các người chỉ là ý chí của các người
được đề lên thành luật. Nội dung của ý chí đó do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp các người quyết định [53, tr. 24].
Tuy nhiên, để xoa dịu mâu thuẫn và làm cho xã hội phát triển ổn
định cũng như đảm bảo được sự thống trị lâu dài của mình, khi ban hành
pháp luật, giai cấp thống trị thường có những nhượng bộ nhất định nhưng
vẫn không làm thay đổi bản chất giai cấp của pháp luật.
Mặt khác, trong quá trình tồn tại và phát triển, ý thức pháp luật của
giai cấp bị trị cũng luôn tìm cách chống lại, đấu tranh lại với ý thức pháp
luật của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Như vậy, nhu cầu điều chỉnh hành vi của con người trong đời sống
cộng đồng vốn là một phạm trù khách quan. Nhưng, các giai cấp khác nhau
nhìn nhận nhu cầu đó từ nhiều góc độ khác nhau, hình thành ý thức pháp
luật khác nhau; thậm chí, ý thức pháp luật của một giai cấp cũng không
thuần nhất. Ý thức pháp luật xã hội bao giờ cũng tồn tại thông qua ý thức
pháp luật của cá nhân, các nhóm xã hội; trong xã hội có giai cấp, các thực
thể ấy bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, lên ý thức pháp luật
luôn mang tính giai cấp.
1.1.2.3. Vai trò của ý thức pháp luật
Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, ra đời và bị quy định bởi


29

tồn tại xã hội, mặc dù vậy, ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với
sự phát triển của đời sống xã hội, với pháp luật và một số hình thái ý thức
xã hội liên quan mật thiết với nó (như ý thức đạo đức, ý thức chính trị v.v.).
* Đối với đời sống xã hội
Sinh ra từ đời sống xã hội, nhưng ý thức pháp luật không phải là sự
phản ánh thụ động đời sống xã hội mà nó có tác động trở lại đối với đời

sống xã hội. Sự tác động đó thể hiện như sau:
Thứ nhất, đời sống xã hội muốn phát triển bền vững, trước hết phải
có ổn định. Ý thức pháp luật thể hiện qua hệ thống pháp luật là nhân tố
quan trọng trong việc tổ chức, quản lý xã hội, duy trì xã hội trong vòng trật
tự, ổn định để phát triển.
Thứ hai, trong sự phát triển của đời sống xã hội thì kinh tế bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định. Sự phát triển của đời sống kinh tế sẽ kéo theo
nó sự phát triển của đời sống xã hội nói chung. Trong quá trình phản ánh
đời sống kinh tế, ý thức pháp luật có thể góp phần khuyến khích phát triển
những yếu tố tích cực và hạn chế (hoặc loại trừ) những quá trình, những
yếu tố tiêu cực trong sự vận hành của cơ chế kinh tế. Chẳng hạn, để tạo
điều kiện cho sự cạnh tranh lành mạnh, phải có tư tưởng về sự cần thiết
phải có đạo luật chống độc quyền; để khuyến khích phát triển kinh doanh
thì phải ý thức về sự cần thiết của đạo luật bảo vệ người tiêu dùng; để
chống khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên, phải thấy sự cần thiết có
đạo luật bảo vệ môi trường... Qua đó cho thấy, khi ý thức pháp luật phát
triển, với một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho các quan
hệ kinh tế ra đời và phát triển. Mặt khác, chính sự ra đời và phát triển của
các quan hệ kinh tế lại tạo ra những nhu cầu khách quan để hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho kinh tế và cho xã
hội phát triển.


×