Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ TĂNG CƯỜNG bản CHẤT GIAI cấp CÔNG NHÂN của QUÂN đội dưới tác ĐỘNG của nền KINH tế HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.14 KB, 163 trang )

BẢNG VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

Bản chất giai cấp công nhân

BCGCCN

Cơ chế thị trường

CCTT

Kinh tế thị trường

KTTT

Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần

KTHHNTP

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tăng cường BCGCCN của quân đội là một vấn đề cơ bản, bao trùm, có tính nguyên tắc
và là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định nâng cao sức mạnh chiến đấu của
quân đội, góp phần quan trọng đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.


Được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, quân đội ta ngay từ khi
được thành lập đã là một quân đội công nông mang BCGCCN, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua hơn nửa thế kỷ chiến đấu và trưởng thành, BCGCCN
của quân đội ta ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, khả năng suy giảm, thậm chí biến
chất BCGCCN của quân đội ta sẽ trở thành hiện thực nếu như chúng ta buông lỏng việc
tăng cường BCGCCN của quân đội. Bài học kinh nghiệm xây dựng BCGCCN của quân


đội Liên Xô (cũ) và một số nước XHCN Đông Âu vừa qua nhắc nhở chúng ta phải
thường xuyên coi trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ củng cố, tăng cường BCGCCN của
quân đội. Không khi nào được coi BCGCCN của quân đội ta là cái đã được hoàn tất, nhất
thành bất biến. Trong điều kiện đất nước phát triển nền KTHHNTP, vận hành theo
CCTT, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nhiệm vụ tăng cường
BCGCCN của quân đội ta càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Những năm vừa qua, sự phát triển của nền KTHHNTP đã tác động rất tích cực tới
BCGCCN của quân đội ta. Đây là điều không thể phủ nhận được. Song, mặt trái của nền
kinh tế này đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào con người và tổ chức quân sự bằng
nhiều con đường; là một trong những nguyên nhân làm sói mòn, suy giảm, biến chất
BCGCCN của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta. Nếu chúng ta không tỉnh
táo, kịp thời ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của nền kinh tế thì
có thể dẫn tới sự thay đổi căn bản BCGCCN của quân đội ta.
Trong điều kiện phát triển nền KTHHNTP theo định hướng XHCN, cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc rất gay go, quyết liệt, phức tạp; các thế lực thù địch tìm mọi cách
đẩy mạnh cuộc tấn công trực tiếp vào các yếu tố cấu thành BCGCCN của quân đội ta,
đồng thời lợi dụng mặt trái của nền KTHHNTP để xóa bỏ BCGCCN của quân đội, thực
hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ta thì việc tăng cường BCGCCN của quân đội
ta trở thành vấn đề sống còn của quân đội, của dân tộc và của chế độ xã hội mới mà
chúng ta đang xây dựng.
Chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm quý về củng cố, tăng cường BCGCCN của quân đội
trong thời chiến, gắn với nền kinh tế “chỉ huy tập trung”, phi hàng hóa, phi thị trường.

Song, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm về củng cố, tăng cường BCGCCN của quân đội


trong điều kiện đất nước có hòa bình, phát triển nền KTHHNTP vận hành theo CCTT, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Nền kinh tế mới ở nước ta đang trong
quá trình xây dựng, còn sơ khai, phía trước chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp không dễ
gì lường đoán hết được. Chính vì vậy cần phải đầu tư nghiên cứu công phu, nghiêm túc
vấn đề tăng cường BCGCCN của quân đội dưới sự tác động của nền kinh tế hiện nay ở
nước ta.
Những điều trên đây chính là cái thôi thúc tác giả lựa chọn và thực hiện đề tài luận án.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Liên quan tới BCGCCN của quân đội và tăng cường BCGCCN của Quân đội nhân dân
Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học ở trong và ngoài nước nghiên cứu với những
góc độ tiếp cận khác nhau và có những giá trị nhất định. Ở Liên Xô (cũ) có các công trình
tiêu biểu: “Những vấn đề phương pháp luận của lý luận và thực tiễn quân sự”, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà nội, 1976; “Học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân
đội”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987. Các công trình này đã chỉ ra rằng
quân đội có bản chất xã hội mà thực chất chính là bản chất giai cấp, khẳng định bản chất
giai cấp của Nhà nước quyết định bản chất giai cấp của quân đội, cần phải phân tích bản
chất của quân đội trong mối quan hệ với Nhà nước và xuất phát từ những thay đổi đã và
đang xảy ra trong Nhà nước đó. Mặt khác, các công trình còn vạch ra những cơ sở,
nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tuy nhiên, các công trình đó chưa đi vào làm rõ BCGCCN của quân đội và tác động của
sự phát triển kinh tế tới bản chất ấy.
Ở Việt Nam có các công trình tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án như “Vũ
trang quần chúng cách mạng xây dựng quân đội nhân dân” của Võ Nguyên Giáp, Nhà


xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1972; “Về bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta” của Lê
Hồng Quang, trong cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác đảng - công tác chính trị”,

Học viện chính trị quân sự, 1986; “Xây dựng quân đội nhân dân về chính trị dưới ánh
sáng Nghị quyết đại hội VII của Đảng” của Lê Khả Phiêu, Nhà xuất bản quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1994; “Tính quy luật của quá trình hình thành phát triển bản chất, truyền
thống của quân đội ta” của Trần Xuân Trường, Thông tin giáo dục lý luận chính trị quân
sự, Học viện chính trị quân sự, 4-1994; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa
bản hất giai cấp công nhân với tính nhân dân của quân đội nhân dân” của Nguyễn Vĩnh
Thắng, Thông tin giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị quân sự, 2 1995; “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến nhận thức chính trị tư tưởng của
cán bộ quân đội và một số vấn đề đổi mới công tác tư tưởng, tổ chức trong quân đội ta
hiện nay”, Đề tài cấp Bộ Quốc phòng, Trần Xuân Trường chủ nhiệm, Nhà xuất bản quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1996; “Xây dựng bản chất chính trị - xã hội của quân đội nhân dân
Việt Nam trong tình hình hiện nay” của Nguyễn Xuân Thành, Luận án Phó tiến sĩ khoa
học quân sự, Hà Nội, 1996; “Tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho đảng viên quân
đội trong thời kỳ mới” của Hồ Kiếm Việt, Tạp chí quốc phòng toàn dân, 11 - 1996; “Xu
thế toàn cầu hóa và sự tác động của nó đến quá trình tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta hiện nay” của Nguyễn Thế Lực, Thông tin giáo dục lý luận chính trị
quân sự, Học viện chính trị quân sự, 3 - 1998...
Với những góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình khoa học ở trong nước nêu trên
đây đã khẳng định theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về BCGCCN của Quân
đội nhân dân Việt Nam; chỉ ra một số vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành phát
triển BCGCCN của quân đội; sự thống nhất hữu cơ giữa BCGCCN, tính nhân dân, tính


dân tộc của quân đội, mối quan hệ biện chứng giữa bản chất giai cấp và truyền thống
cách mạng của quân đội ta. Đồng thời một số công trình đã đề cập ở những mức độ nhất
định về sự tác động của điều kiện khách quan ở trong nước, khu vực và thế giới tới bản
chất giai cấp, bản chất chính trị - xã hội của quân đội. Từ đó đưa ra một số giải pháp có
giá trị để xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị, nâng cao sức mạnh chiến đấu.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ triết học một cách tương đối
cơ bản và có hệ thống vấn đề “Tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội
dưới tác động của nề kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
Mục đích của luận án là phân tích dưới góc độ triết học cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc tăng cường BCGCCN của quân đội dưới tác động của nền KTHHNTP và đề xuất
một số giải pháp nhằm củng cố, tăng cường BCGCCN của quân đội, góp phần xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:
1) Phân tích những biểu hiện BCGCCN của quân đội, thực chất, vai trò của việc tăng
cường BCGCCN của quân đội và tác động của nền KTHHNTP tới BCGCCN của quân
đội ta.
2) Phân tích tình hình thực hiện việc tăng cường BCGCCN của quân đội và xu hướng
biến đổi BCGCCN của quân đội ta dưới tác động của nền KTHHNTP.
3) Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường BCGCCN của quân đội ta dưới
tác của nền KTHHNTP.


4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về bản chất giai cấp của quân đội, về những
nguyên tắc để giữ vững và tăng cường BCGCCN của quân đội. Luận án còn dựa vào
quan điểm cơ bản của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền KTHHNTP. Kết quả của
các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài được tác giả luận án kế thừa
và phát triển.
Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình thực tế đời sống xã hội Việt Nam trên tất cả các
lĩnh vực và của quân đội từ khi xây dựng phát triển nền KTHHNTP theo đường lối đổi
mới của Đảng ta. Luận án còn dựa vào các báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng
trong quân đội cùng với kết quả quan sát, điều tra, thu thập từ thực tế của người làm luận
án.
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ triết học. Phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử là những phương pháp chủ yếu được vận dụng để giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản của luận án. Một số phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lê-nin,

của khoa học lịch sử, của xã hội học và một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân
tích và tổng hợp, so sánh, lôgíc và lịch sử được tác giả vận dụng tổng hợp trong quá trình
làm luận án.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án.
- Phân tích làm rõ thêm khái niệm “BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam” chỉ ra
thực chất và vai trò của việc tăng cường BCGCCN của quân đội trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội ta.


- Phân tích đánh giá tình hình thực hiện việc tăng cường BCGCCN của quân đội dưới
tác động của nền KTHHNTP trong thời gian qua và bước đầu chỉ ra một số mâu thuẫn
cần giải quyết để tăng cường BCGCCN của quân đội ta.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của chủ thể trong việc tăng
cường BCGCCN của quân đội ta dưới tác động của nền KTHHNTP.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
- Luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc tăng cường BCGCCN
của quân đội dưới tác động của nền KTHHNTP ở nước ta hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học, trong giảng
dạy các nội dung có liên quan tới bản chất giai cấp của quân đội và tăng cường BCGCCN
của quân đội trong các học viện, nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án.
Luận án có 169 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG
NHÂN CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA NỀN
KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN HIỆN NAY
1.1. Bản chất giai cấp công nhân của quân đội và thực chất, vai trò của việc tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
1.1.1. Bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam.



Học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội đã khẳng định quân đội là một hiện
tượng lịch sử. Sự ra đời, tồn tại của quân đội gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà
nước. Khi bàn về quân đội, Ph.Ăng-ghen đã định nghĩa: “Quân đội là một tập đoàn có tổ
chức gồm những người được vũ trang được Nhà nước đài thọ để thực hiện chiến tranh tấn
công hoặc phòng ngự”, [2, 11]. Với tư cách là một tổ chức của Nhà nước, do Nhà nước
xây dựng nên, quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước. “Bản chất
giai cấp và nội dung của Nhà nước như thế nào thì quân đội - người bảo vệ lợi ích của nó
cũng như thế ấy” [25, 152].
Quân đội chỉ mang bản chất của một giai cấp - giai cấp thống trị chi phối quyền lực
Nhà nước và tổ chức nuôi dưỡng, sử dụng quân đội đó. Không bao giờ và không ở đâu có
Nhà nước “siêu giai cấp”, quân đội “phi giai cấp”, “quân đội trung lập đứng trên các giai
cấp”. Những luận điệu phủ nhận bản chất giai cấp của quân đội chỉ là những luận điệu
phản động, phản khoa học, lừa bịp nhân dân để phục vụ cho những ý đồ đen tối của các
thế lực thù địch. V.I Lê-nin đã chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập.
Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa
của giai cấp tư sản” [37, 136]. Trong điều kiện hiện nay những luận điệu sai trái về bản
chất giai cấp của quân đội đang cổ vũ cho hệ tư tưởng tư sản tấn công lại hệ tư tưởng vô
sản. Thực tiễn đã và đang bác bỏ những luận điệu sai trái đó. Tại các nước vừa xẩy ra
những sự biến, luận điệu “phi chính trị hóa quân đội” chỉ là chiếc bình phong che chắn
cho âm mưu nhằm làm cho quân đội biến chất về chính trị, đi từ chính trị này sang chính
trị khác. Luận điệu “trung lập hóa quân đội” chỉ nhằm vô hiệu hóa quân đội cách mạng
và dần dần hướng quân đội đó phục vụ cho các thế lực chống chủ nghĩa xã hội.


Với tư cách là một tổ chức quân sự của xã hội có giai cấp và Nhà nước, quân đội có hai
mặt cơ bản cấu thành nó, đó là mặt quy mô, tổ chức - kỹ thuật quân sự và mặt chính trị xã hội của quân đội. Bản chất giai cấp của quân đội là hạt nhân cốt lõi chi phối mặt chính
trị - xã hội của quân đội. Bản chất giai cấp của quân đội không đồng nhất với bản chất
của quân đội. Bản chất của quân đội là công cụ bạo lực chủ yếu của giai cấp, Nhà nước,

gồm những người được trang bị vũ khí kỹ thuật để tiến hành hoạt động đặc thù là đấu
tranh vũ trang nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp, Nhà nước đã tổ chức và sử dụng nó. Bản
chất giai cấp của quân đội chính là bản chất của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước, tức
giai cấp có thế lực mạnh nhất - giai cấp đã tổ chức, lãnh đạo và sử dụng quân đội, được
biểu hiện tập trung chủ yếu qua chính trị, tư tưởng và tổ chức của quân đội.
Quân đội chỉ có một bản chất giai cấp nhưng thành phần giai cấp, tầng lớp (gọi tắt là
giai tầng) trong quân đội có nhiều, không thuần nhất, thường biến đổi. Sự biến đổi này,
xét đến cùng do sự biến đổi của nền kinh tế quy định. Tương quan giữa các giai tầng
trong quân đội và sự biến đổi của nó có ảnh hưởng nhất định những không quyết định sự
vận động phát triển bản chất giai cấp của quân đội. Bản chất giai cấp của quân đội không
phải là sự cộng lại giản đơn bản chất các giai cấp tham gia trong quân đội. Số lượng
thành viên thuộc các giai tầng gia nhập vào quân đội sẽ tạo thuận lợi hoặc khó khăn nhất
định cho việc xây dựng, củng cố, tăng cường bản chất giai cấp của quân đội. Song quân
đội mang bản chất của giai cấp nào, không phụ thuộc vào số lượng ít hoặc nhiều các
thành viên của giai cấp đó có trong quân đội.
Bản chất của giai cấp quân đội không chịu sự quy định của cơ cấu tổ chức quân sự
“thuần túy”, trang bị kỹ thuật quân sự, phương thức bổ sung số quân, phương pháp tiến
hành tác chiến của quân đội. Những yếu tố này có thể luôn thay đổi theo những điều kiện


cụ thể của quân đội và xã hội nhưng không vì thế mà bản chất giai cấp của quân đội thay
đổi.
Phương hướng chính trị đúng trong quá trình nghiên cứu về quân đội được thể hiện
trước hết ở việc xác định bản chất giai cấp của quân đội và sự đối lập về bản chất giai cấp
giữa quân đội kiểu cũ và quân đội kiểu mới.
Quân đội kiểu cũ là quân đội của các giai cấp thống trị, bóc lột, mang bản chất của các
giai cấp đó. Quân đội kiểu mới là quân đội của giai cấp vô sản - quân đội XHCN. Quân
đội kiểu mới là một bộ phận của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước không nguyên nghĩa Nhà nước nửa Nhà nước. Quân đội này mang bản chất của giai cấp tiến bộ cách mạng
nhất trong lịch sử - giai cấp công nhân. Lần đầu tiên, quân đội kiểu mới được thành lập,
gắn liền với tên tuổi của V.I Lê-nin vĩ đại, đó là Hồng quân. Khẳng định bản chất giai cấp

của quân đội kiểu mới, trong “Bàn về thuế lương thực” V.I Lê-nin đã viết “Quân đội
chúng ta là quân đội giai cấp chống lại giai cấp tư sản” [32, 277]. Luận điểm này của V.I
Lê-nin có ý nghĩa quan trọng như một nguyên lý chỉ đạo toàn bộ quá trình củng cố, tăng
cường BCGCCN của quân đội XHCN. Thực tiễn đã cho thấy rằng, mọi sự xa rời nguyên
lý về sự đối lập bản chất giai cấp giữa quân đội tư sản và quân đội vô sản thì đều phải trả
những giá nhất định. Ở đâu có cái “bắt tay” nhau cùng đi một cách vô điều kiện giữa
quân đội vô sản và quân đội tư sản, thì ở đó, kẻ bị lừa không ai khác chính là quân đội vô
sản.
Quân đội kiểu mới mang BCGCCN và chính BCGCCN quy định tính nhân dân thực sự
của quân đội này. Chỉ có quân đội kiểu mới mang đầy đủ BCGCCN mới là quân đội của
dân, do dân và vì dân. Khái niệm “tính nhân dân của quân đội” không có trong quân đội
do Nhà nước của các giai cấp thống trị, bóc lột xây dựng nên. Các loại hình quân đội kiểu


cũ không có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, mặc dù trong quân
đội này cũng có con em của nhân dân lao động tham gia. Do mang bản chất của giai cấp
thống trị bóc lột - giai cấp có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của đại đa số nhân dân lao
động, nên quân đội kiểu cũ nói chung, quân đội tư sản nói riêng, không có tính nhân dân
và cũng không có tính chất quốc tế.
BCGCCN của quân đội kiểu mới không phải là cái nhất thành bất biến mà là cái có tính
ổn định tương đối. Thực tiễn cho chúng ta thấy trong những điều kiện nhất định nếu
những nhân tố chủ yếu quy định sự tồn tại và phát triển BCGCCN của quân đội kiểu mới,
mà trước hết là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước XHCN đối với
quân đội không còn nữa thì BCGCCN của quân đội suy giảm và đi đến biến chất. Quân
đội Liên - xô (cũ) là một ví dụ điển hình về tình hình này. Sự thay đổi căn bản BCGCCN
của quân đội này được nhiều người đánh giá là điều “bất ngờ”, “kỳ lạ” nhất của một quân
đội kiểu mới đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng, trưởng thành, quân đội được mang nhiều cái tên
khác nhau: Đội tuyên truyền giải phóng quân (12/1944), Việt Nam giải phóng quân
(4/1945), Vệ quốc đoàn (9/1945), Quân đội quốc gia Việt Nam (5/1946), Quân đội nhân

dân Việt Nam (9/1954). Tuy nhiên, bản chất giai cấp của quân đội ta chỉ có một, đó là
BCGCCN.
Được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo và giáo dục, nên
“Quân đội nhân dân Việt Nam ngay từ đầu là một đội quân công nông, mang bản chất
của giai cấp công nhân” [13]. Bàn về việc “Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng
quân đội nhân dân”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định quân đội ta hiện nay là “Lực
lượng vũ trang kiểu mới, tổ chức quân sự kiểu mới, do Đảng của giai cấp công nhân tổ


chức và lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp công nhân. Nó là tổ chức quân sự của nhân
dân... các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam” [21]. Từ quy luật BCGCCN của một
Đảng quyết định BCGCCN của quân đội do Đảng đó xây dựng, tác giả Trần Xuân
Trường đã nhấn mạnh rằng BCGCCN của quân đội ta là sự quán triệt chính trị, tư tưởng
và tổ chức của một chính Đảng Mác - Lê-nin vào một tổ chức quân sự [71, 2]. Các quan
điểm nêu trên được tác giả luận án tiếp thu, kế thừa và tiếp tục phát triển để ngày càng
làm rõ thêm về BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tiền đề cơ bản cho sự hình thành và phát triển BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt
Nam là sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng có BCGCCN và những hoạt động
lãnh đạo, giáo dục của Đảng đối với quân đội ta. Đảng ta đã giáo dục, rèn luyện quân đội
nhân dân theo bản chất giai cấp của mình. Từ đây cho thấy, BCGCCN của quân đội ta và
BCGCCN của Đảng ta là thống nhất. Song không thể đồng nhất BCGCCN của quân đội
với BCGCCN của Đảng ta.
BCGCCN của quân đội là cái tồn tại “ẩn dấu sâu kín” bên trong con người và tổ chức
quân đội nhưng bản chất đó sẽ được “hiện ra” khi nắm được nguồn gốc và những biểu
hiện của nó. BCGCCN là sự quán triệt BCGCCN của Đảng, được thể hiện qua mục tiêu,
lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng; nguyên tắc tổ chức, đến họat động thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ cụ thể của quân đội và được thể hiện qua các mối quan hệ chủ yếu quy
định sự tồn tại và phát triển của quân đội. Dưới đây trình bầy một số điểm cốt lõi trong
nội dung các mặt, các mối quan hệ chủ yếu trong BCGCCN của quân đội ta.
BCGCCN của quân đội thể hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội.

Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ta theo mục tiêu, lý tưởng của đội tiền phong
có tổ chức và giác ngộ cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt


Nam, đó là chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính Đảng ta và Người cha
thân yêu của các lực lượng vũ trang Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định và
thường xuyên giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho quân đội ta. Trình độ giác ngộ
và tinh thần tự giác chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng và thực hiện thắng lợi đường
lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng là thước đo cao nhất BCGCCN của quân đội
ta. Trình độ giác ngộ và tính tự giác chiến đấu hy sinh nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng
của Đảng càng cao thì BCGCCN của quân đội ngày càng được biểu hiện sâu sắc. Một
quân đội ngay từ đầu được thành lập đã mang BCGCCN, nhưng nếu trong quá trình vận
động mà xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
thì BCGCCN của quân đội sẽ không còn nữa. Chính vì thế, vấn đề giác ngộ XHCN, giáo
dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội luôn được xem là vấn đề mấu chốt trong
giữ vững, và tăng cường BCGCCN của quân đội ta.
BCGCCN của quân đội ta được thể hiện ở tư tưởng trong con người và tổ chức quân
sự. Hạt nhân giữ vai trò quyết định tư tưởng của quân đội ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, BCGCCN của quân đội ta
đều phải được thể hiện ở sự kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Năng lực tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng vào lĩnh vực quân sự của cán bộ, chiến sỹ là thước đo quan trọng
BCGCCN của quân đội ta.
Về mặt tổ chức, BCGCCN của quân đội ta được thể hiện qua hệ thống tổ chức Đảng
trong quân đội; cơ quan chính trị, cơ chế lãnh đạo - chỉ huy, nguyên tắc tổ chức lực lượng
quân sự… với những đặc trưng cơ bản chỉ có ở tổ chức của những người hoạt động trong


lĩnh vực quân sự, trên cơ sở vận dụng nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội theo kiểu

mới và kế thừa phát triển những đặc trưng cơ bản về mặt tổ chức của giai cấp công nhân
và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội ta là một tổ chức có kỷ luật quân sự nghiêm
minh và tự giác cao. Kỷ luật này dựa trên tình đồng chí, dựa trên sự tôn trọng nhau, dựa
trên tính chủ động, sáng tạo và sự sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ.
Tinh thần đoàn kết giai cấp và tính kỷ luật cao của giai cấp công nhân đã được Đảng đưa
vào trong quân đội và được phát triển theo yêu cầu của tổ chức và hoạt động quân sự.
Những nguyên tắc tổ chức của Đảng và của chính quyền Nhà nước được thể hiện trong tổ
chức quân sự như nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ phê bình và tự phê bình…
Về mặt hoạt động, BCGCCN của quân đội ta thể hiện qua việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của quân đội được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Quân đội ta
có các chức năng cơ bản là chiến đấu, công tác và sản xuất. Các nhiệm vụ cụ thể của
quân đội ta được xác định theo nhiệm vụ cách mạng trong từng điều kiện cụ thể. Nhận
thức đúng và hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ của quân đội đó là vấn đề thuộc về
lập trường giai cấp, về trách nhiệm chính trị của cán bộ, chiến sĩ ta. Việc phát huy cao độ
tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn thử thách hoàn
thành mọi nhiệm vụ là một biểu hiện BCGCCN của quân đội, đồng thời là một tiêu chí để
đánh giá bản chất đó. Không thể nói được một quân đội có đầy đủ BCGCCN khi mà trên
thực tế nó không hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Cùng với việc nghiên cứu BCGCCN của quân đội ta qua các mặt từ chính trị, tư tưởng,
tổ chức đến hoạt động của quân đội, chúng ta cần xem xét BCGCCN của quân đội ta qua
các mối liên hệ cơ bản quy định sự tồn tại, phát triển của nó.


Đối với Đảng, BCGCCN của quân đội ta được thể hiện ở lòng tin tưởng vào đường lối
và sự lãnh đạo của Đảng, tự giác phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, nghiêm chỉnh chấp
hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối,
nguyên tắc, quan điểm của Đảng, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó.
Đồng thời, tự giác chấp hành sự quản lý của Nhà nước đối với mọi hoạt động của quân
đội, luôn luôn nêu cao ý thức tôn trọng và bảo vệ chính quyền các cấp, đoàn kết chặt chẽ
với các cơ quan Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước.

Đối với nhân dân, BCGCCN của quân đội ta được thể hiện ở tinh thần tận tụy một
lòng, một dạ phục vụ nhân dân. Vì nhân dân, cán bộ chiến sỹ ta sẵn sàng quên mình, sẵn
sàng hy sinh. Cán bộ, chiến sỹ luôn kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, tôn trọng lợi
ích chính đáng và phong tục tập quán của nhân dân, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật quần
chúng, thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với
nhân dân trở thành một nguyên tắc bất di bất dịch về xây dựng quân đội kiểu mới mang
BCGCCN. Một quân đội mang BCGCCN thì tất yếu phải là một quân đội có tính nhân
dân sâu sắc, gắn bó máu thịt với nhân dân. Tính nhân dân sâu sắc của quân đội ta là một
nội dung đặc trưng không thể thiếu trong BCGCCN của quân đội ta.
Trong mối quan hệ nội bộ quân đội, BCGCCN của quân đội thể hiện ở ý thức giữ gìn
sự đoàn kết nội bộ, đề cao tự phê bình và phê bình, trung thực, bình đẳng, thương yêu,
tôn trọng, bảo vệ giúp đỡ nhau chân thành, đồng cam cộng khổ lúc chiến đấu và cả lúc
bình thường. Đồng thời nêu cao ý thức phục tùng tổ chức, nghiêm chỉnh chấp hành mọi
mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, điều lệ, điều lệnh, chế độ quy định của quân
đội.


Trong nội bộ quân đội ta có một hệ thống các mối quan hệ xã hội giữa người với người,
trong đó có hai mối quan hệ đặc thù thể hiện BCGCCN của quân đội. Đó là mối quan hệ
đồng chí - đồng đội, cấp trên - cấp dưới. Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ
này theo đúng nguyên tắc giai cấp, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường
BCGCCN của quân đội ta. Các mối quan hệ đồng chí - đồng đội, cấp trên - cấp dưới
trong quân đội ta không mang tính cục bộ địa phương, không chịu sự chi phối về thành
phần giai cấp, dân tộc, lứa tuổi, giới tính, ngành nghề chuyên môn của quân nhân. Các
mối quan hệ này chịu sự quy định của tổ chức và hoạt động quân sự và được xác định rõ
ràng trong “điều lệnh quản lý bộ đội” của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mối quan hệ đồng chí - đồng đội là mối quan hệ thuộc về bản chất của quân đội cách
mạng, dựa trên nền tảng thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và về lợi ích cản bản
giữa các quân nhân. Mọi quân nhân trong quân đội ta đều là đồng chí, đồng đội của nhau,

đều phải “Đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng
giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí” [18, 2].
Mối quan hệ cấp trên - cấp dưới là mối quan hệ mang tính phổ biến ở các kiểu quân
đội, được ghi trong các văn bản có giá trị pháp lý bắt buộc các quân nhân phải chấp hành
để hành động được thống nhất, có tổ chức, có kỷ luật nhằm thực thi các nhiệm vụ quân sự
một cách có hiệu quả. Song đối với các quân đội khác nhau thì bản chất giai cấp được thể
hiện qua mối quan hệ này sẽ khác nhau. Trong quân đội ta “Cấp trên phải tôn trọng danh
dự, thương yêu, giúp đỡ lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của cấp dưới. Cấp trên
phải gương mẫu về đạo đức và hành động để cấp dưới học tập. Cấp dưới trong bất cứ
điều kiện nào cũng luôn luôn kính trọng và tuyệt đối phục tùng cấp trên, nghe lời khuyên


bảo đúng đắn của đồng đội, không bao che cho người vi phạm kỷ luật quân đội và pháp
luật Nhà nước” [18, 10].
Xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ quân đội mà trước hết là mối
quan hệ đồng chí - đồng đội và mối quan hệ cấp trên - cấp dưới sẽ góp phần làm cho lợi
ích xã hội và cá nhân trong quân đội trở nên nhất trí. Nếu không có được những quan hệ
đó thì không thể có được sự thống nhất cao về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, sự tin tưởng
lẫn nhau, đoàn kết cùng nhau thực hiện nhiệm vụ của các quân nhân.
Đối với quân đội và nhân dân các nước anh em, quân đội ta luôn luôn nêu cao tinh thần
quốc tế vô sản, không quản hy sinh gian khổ, chân thành đoàn kết với quân đội và nhân
dân các nước anh em đấu tranh chống kẻ thù chung, luôn luôn xem sự nghiệp cách mạng
của các nước anh em như sự nghiệp của chính mình. BCGCCN của quân đội ta thể hiện
rõ ở chỗ nó là một quân đội kiên cường của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
BCGCCN của quân đội ta còn được thể hiện ở lòng cảm thù địch sâu sắc, luôn luôn
nhậy bén cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của mọi kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc và sẵn
sàng hành động đập tan âm mưu thủ đoạn đó. Trong chiến đấu nếu bị địch bắt cán bộ,
chiến sỹ quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng không phản bội xưng khai
về những bí mật của Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Khi địch thất bại đầu hàng, quân đội
ta xử lý quan hệ với chúng trên tinh thần khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước và

của chế độ ta.
Phân tích những biểu hiện BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam không thể
không xem xét các mặt đạo đức, lối sống, kỷ luật của nó. Các mặt đạo đức, lối sống, kỷ
luật của quân đội không phải là những cái đứng ngoài độc lập tách rời với BCGCCN của
quân đội ta. Các mặt ấy chịu sự chi phối của BCGCCN, đồng thời là một trong những


biểu hiện của BCGCCN của quân đội ta. Thực tế cho thấy, các quân đội có bản chất giai
cấp khác nhau thì những biểu hiện về mặt đạo đức, lối sống, kỷ luật khác nhau, thậm chí
đối lập nhau. BCGCCN của quân đội ta được thể hiện qua sự tự giác nghiêm minh của
cán bộ, chiến sỹ. Việc nhận thức và thực hiện những chuẩn mực trong đạo đức, lối sống,
kỷ luật của người quân nhân cách mạng là một trong những cái để đánh giá BCGCCN
của quân đội ta hiện nay.
Những biểu hiện chủ yếu của BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam nêu ở trên
đây không tồn tại cô lập, tách rời, mà tác động biện chứng với nhau và có vai trò không
ngang bằng nhau đối với sự tồn tại, phát triển BCGCCN của quân đội ta. Trong đó, mục
tiêu , lý tưởng chiến đấu của quân đội, hệ tư tưởng thống trị trong quân đội, nguyên tắc
tổ chức xây dựng quân đội là những yếu tố cơ bản, trực tiếp thể hiện BCGCCN của quân
đội, các yếu tố này chi phối đến hoạt động thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, đến các
mối quan hệ và đạo đức, lối sống, kỷ luật của quân đội.
Quân đội ta mang BCGCCN nhưng không phải bất cứ lúc nào và ở đâu trong quân đội
cũng chỉ có những biểu hiện đúng với bản chất giai cấp đó. Quá trình xây dựng, trưởng
thành của quân đội cho thấy bên cạnh những biểu hiện cơ bản xuyên suốt đúng với
BCGCCN của quân đội còn có những biểu hiện cụ thể, nhất thời trái với BCGCCN của
quân đội. chính vì thế, những biểu hiện về BCGCCN của quân đội được xem là những
chuẩn mực, cần phải dựa vào đó để xem xét phân biệt và đánh giá BCGCCN của quân
đội ta.
BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam là cái ổn định tương đối, gắn liền với sự
ổn định tương đối của BCGCCN của Đảng và Nhà nước ta. BCGCCN của quân đội ta
thường xuyên chịu sự tác động biện chứng giữa những điều kiện khách quan và nhân tố



chủ quan. Vì thế, không thể xem xét BCGCCN của quân đội ta trong trạng thái tĩnh tại
mà cần phải thấy bản chất đó trong sự vận động phát triển, trong trạng thái động. Thực
tế cho thấy BCGCCN của quân đội ta có sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình
thức, giữa cái thường xuyên biến đổi và cái ổn định tương đối. Cái tương đối ổn định
chính là hệ thống khung cốt (các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ) cấu thành BCGCCN
của quân đội ta. Cái thường xuyên biến đổi, phát triển không ngừng chính là những nội
dung cụ thể hợp thành BCGCCN của quân đội ta qua các mặt, các yếu tố, các mối quan
hệ đó.
BCGCCN của quân đội ta không hề đối lập với tính nhân dân và tính dân tộc, trái lại,
nó quyện chặt nhuần nhuyễn với tính nhân dân và tính dân tộc. Có thể nói, trong
BCGCCN của quân đội ta đã bao hàm tính nhân dân và tính dân tộc, BCGCCN, tính
nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta là thống nhất. Mối quan hệ hữu cơ và sự thống
nhất giữa BCGCCN, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội ta dược quy định một
cách khách quan, trước hết bởi bản chất giai cấp của Đảng đã tổ chức và lãnh đạo quân
đội. Đó là Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân - giai cấp có lợi ích căn bản lâu
dài phù hợp với lợi ích của tuyệt đại nhân dân lãnh đạo và của cả dân tộc. Mặt khác,
những đặc điểm ra đời và phát triển của quân đội ta đã tác động rất lớn tới mối quan hệ
hữu cơ giữa BCGCCN, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội, làm cho mối quan hệ
này càng chặt chẽ, bền vững hơn. Quân đội ta mang BCGCCN, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và chính vì vậy nó là quân đội kiểu mới chân chính, thật sự có
tính nhân dân và tính dân tộc. Không phải tính nhân dân, tính dân tộc quy định BCGCCN
của quân đội mà chính BCGCCN của quân đội quy định tính nhân dân và tính dân tộc
của quân đội ta. BCGCCN của quân đội càng đầy đủ thì tính nhân dân và tính dân tộc


của quân đội càng sâu sắc. Bất luận trong điều kiện nào, nếu nhấn mạnh tính nhân dân,
tính dân tộc mà xem nhẹ, lảng tránh BCGCCN của quân đội ta thì đều sai lầm về mặt lý
luận và trên thực tế sẽ tiếp tay cho hệ tư tưởng tư sản trong việc “giải tán” hệ tư tưởng vô

sản trong quân đội, thực hiện “phi chính trị hoá quân đội”.
1.1.2. Thực chất, vai trò của việc tăng cường BCGCCN của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Tăng cường bản chất giai cấp của quân đội là một tất yếu, được thể hiện ở tất cả các
loại hình quân đội trong lịch sử. Bản chất giai cấp của quân đội được tăng cường là yếu
tố có ý nghĩa then chốt quyết định bảo đảm cho quân đội thực sự là công cụ chính trị tin
cậy, luôn luôn trung thành với lợi ích của giai cấp và Nhà nước đã tổ chức, nuôi dưỡng và
sử dụng nó. Chính vì thế, các giai cấp, Nhà nước đều tìm mọi cách để bảo vệ, củng cố,
tăng cường bản chất giai cấp cho quân đội. Đương nhiên, có sự khác nhau căn bản về
mục đích, con đường, biện pháp để tăng cường bản chất giai cấp đối với các quân đội cụ
thể khác nhau.
Đối với quân đội kiểu mới, tăng cường BCGCCN là một vấn đề có tính nguyên tắc, là
nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên. V.I Lê-nin đã chỉ rõ: “Giai cấp thống trị, tức giai cấp vô
sản, nếu nó muốn thống trị và nếu nó thực sự thống trị thì nó phải tỏ rõ điều đó bằng tổ
chức quân sự của mình” [31, 166]. Trong bức thư gửi các chiến sỹ Hồng quân, Người đã
viết: “Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Nga và trên toàn thế giới đều tuỳ thuộc vào sự
tăng cường quân đội” [36, 144]. Việc tăng cường quân đội về mọi mặt trong đó trước hết
là tăng cường BCGCCN của quân đội, được tiến hành theo tinh thần của toàn bộ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và trên cơ sở tương quan giai cấp biểu hiện trong bất cứ
lĩnh vực nào của tổ chức quân sự cách mạng.


Việc tăng cường BCGCCN của quân đội có mục đích làm cho BCGCCN của quân đội
ngày càng được vững vàng, đầy đủ hơn, đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đồng thời ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả nguyên
nhân của những hiện tượng trực tiếp hoặc gián tiếp làm suy giảm BCGCCN của quân
đội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch rõ rằng quy luật xã hội là quy luật của hoạt động có
ý thức của con người, con người là chủ thể của mọi biến đổi trong đời sống xã hội. Vận
dụng quan điểm này, đòi hỏi chúng ta trong khi luận giải về vấn đề tăng cường BCGCCN

của quân đội không thể để vắng bóng con người - chủ thể thực hiện việc tăng cường
BCGCCN của quân đội, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt
Nam đã mang trong mình nó BCGCCN. Song, BCGCCN của quân đội ta không tự động
được tăng cường. Quá trình tăng cường BCGCCN của quân đội ta đòi hỏi sự nỗ lực rất
lớn của chủ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn để cải tạo điều kiện khách quan
tác động tới sự vận động BCGCCN của quân đội. Nếu không phát huy cao độ vai trò của
chủ thể thì ngay trong những điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho việc tăng cường
BCGCCN của quân đội, thì bản chất ấy vẫn không được tăng cường mà có thể bị suy
giảm, biến chất.
Chủ thể của quá trình tăng cường BCGCCN của quân đội không chỉ là con người và tổ
chức trong nội bộ quân đội, trước hết là Đảng bộ quân đội mà bao gồm toàn bộ các lực
lượng thuộc hệ thống chính trị của xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
với sự phối hợp hoạt động của các lực lượng đó, để tạo ra những nhân tố quyết định bảo
đảm cho BCGCCN của quân đội ta được tăng cường.


Thực chất của việc tăng cường BCGCCN của quân đội ta là quá trình phát huy tích
cực, chủ động, tự giác của chủ thể nhằm tạo ra và duy trì được những nhân tố cơ bản
quyết định để BCGCCN của quân đội ta được tăng cường. Những nhân tố cơ bản quyết
định tăng cường BCGCCN của quân đội ta là những nhân tố nhất thiết phải có trong bất
kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào. Nếu thiếu những nhân tố này, thậm chí chỉ thiếu một nhân
tố thôi thì BCGCCN của quân đội ta sẽ bị suy giảm đi và đi đến biến chất một cách căn
bản. Trong điều kiện đất nước xây dựng, phát triển nền KTHHNTP, vận hành theo
CCTT, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, việc tạo ra và duy trì những
nhân tố cơ bản quyết định tăng cường BCGCCN của quân đội ta có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và cấp thiết.
Có sự khác nhau căn bản giữa những “nhân tố cơ bản quyết định” tăng cường
BCGCCN của quân đội với những “nhân tố tác động” tới BCGCCN của quân đội ta.
Những nhân tố cơ bản quyết định tăng cường BCGCCN của quân đội do hoạt động có ý
thức, tự giác và có tổ chức, theo một hướng xác định của chủ thể tạo ra, nhờ đó

BCGCCN của quân đội được tăng cường trước sự tác động của những điều kiện khách
quan. Như vậy, khi nói tới những nhân tố cơ bản quyết định tăng cường BCGCCN của
quân đội là đã bao hàm trong đó những yêu cầu đối với chủ thể thực hiện việc tăng cường
BCGCCN của quân đội. Những nhân tố tác động tới BCGCCN của quân đội có sự thay
đổi gắn với từng điều kiện lịch sử cụ thể. Những nhân tố này tác động tới BCGCCN của
quân đội có thể mang tính chất tự phát, gián tiếp, theo chiều hướng này hoặc chiều hướng
khác. Nhân tố tác động tới BCGCCN của quân đội, tự nó không làm thay đổi được
BCGCCN của quân đội nếu chủ thể vẫn tạo ra và duy trì được những nhân tố quyết định
bảo đảm tăng cường bản chất đó một cách đầy đủ.


Bàn về những nhân tố cơ bản quyết định tăng cường BCGCCN của quân đội, trước hết
phải nói tới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt
Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhân tố cơ bản hàng đầu, trực tiếp quyết
định, bảo đảm cho BCGCCN của quân đội được củng cố, tăng cường. Vai trò to lớn của
Đảng Cộng sản đối với việc tăng cường BCGCCN của quân đội không phải là do những
người cộng sản và những người đi theo tự gán ghép cho Đảng như điều mà nhiều nhà lý
luận quân sự tư sản đang tìm mọi cách chứng minh. Vai trò đó được xác định do quá
trình phát triển của xã hội, do thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại các lực lượng thù địch và đòi hỏi của
chính tổ chức quân sự cách mạng. Song cần phải nhận thức sâu sắc rằng, tiền đề cơ bản
cho sự hình thành, phát triển BCGCCN của Quân đội nhân dân Việt Nam là sự tồn tại của
một chính đảng có đầy đủ BCGCCN và BCGCCN của Đảng ngày càng được củng cố,
tăng cường.
Ngay trong những ngày Đảng ta vừa mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ bản chất giai cấp của Đảng và sứ mệnh lịch sử của Đảng ta, đó là Đảng của giai cấp vô
sản, Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo
xây dựng Đảng, coi trọng nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững, tăng cường
BCGCCN của Đảng ta. Chính vì thế, vượt qua muôn vàn thử thách khắc nghiệt, Đảng ta

vẫn giữ vững được độc quyền độc tôn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, lãnh đạo Quân đội
nhân dân Việt Nam. Nhờ có được BCGCCN thực sự, kiên định vững chắc, Đảng ta đã
nắm chắc được quân đội và quân đội ta hoàn toàn tự nguyện tự giác phục tùng sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.


BCGCCN của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta đối với quân đội là hai mặt
không thể tách rời nhau được trong quá trình củng cố, tăng cường BCGCCN của quân
đội ta. Đồng chí Lê Khả Phiêu đã khẳng định: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
bản chất giai cấp của các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên là nhân tố cơ bản và quyết
định việc củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân của quân đội, bảo đảm cho
quân đội không chỉ là lực lượng chiến đấu mà trước hết là lực lượng chính trị trung thành
tin cậy của Đảng của Nhà nước” [54]. Giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần đoàn kết thống nhất và
là giai cấp triệt để cách mạng nhất. Thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng
sản, giai cấp này có sứ mệnh lãnh đạo toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc. Vì thế, chỉ có đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, tăng cường BCGCCN thì Đảng mới đề ra được đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, mới thực sự giữ được quyền độc tôn lãnh đạo cách mạng, lãnh
đạo quân đội nhân dân. Nếu để BCGCCN của Đảng bị suy giảm, biến chất thì Đảng sẽ
không tránh khỏi mắc phải sai lầm, khuyết điểm, thậm chí dẫn đến sai lầm về đường lối.
Trong trường hợp này, sớm hoặc muộn Đảng sẽ không giữ được vai trò lãnh đạo quân
đội cách mạng, không nắm được quân đội và khi đó BCGCCN của quân đội trên thực tế
sẽ không còn. BCGCCN của quân đội chỉ có thể được tăng cường khi BCGCCN của
Đảng và sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội tăng cường. Đièu này góp phần làm rõ vì
sao giữ vững và tăng cường BCGCCN của Đảng được coi là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu đối với Đảng ta.
Giữ vững, tăng cường BCGCCN của Đảng và tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng
ta đối với quân đội là một quá trình được tiến hành một cách chủ động, tích cực, tự giác.



Ngay từ khi những tổ chức tiền thân của quân đội ta ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định dứt khoát những tổ chức đó phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống
nhất của Đảng Cộng sản.
Trong những năm đầu sau cách mạng tháng 8/1945, mặc dù phải giải quyết nhiều công
việc hệ trọng cùng một lúc có ý nghĩa quyết định vận mệnh sống còn của Tổ quốc, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đặc biệt quan tâm tới việc duy trì củng cố BCGCCN của
Đảng và sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, kịp thời tỉnh táo đề ra những biện pháp
đúng đắn khắc phục những biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta.
Ngay trong khi thực hiện chủ trương “hoà để tiến” để tránh đối phó với nhiều kẻ thù hung
bạo, Đảng ta đã chủ động thực hiện liên hiệp rộng rãi trong Chính phủ, đưa cả nhân sỹ
yêu nước không đảng phái phụ trách ở Bộ Quốc phòng nhưng tuyệt nhiên không chia sẻ
quyền lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ và quân đội. Đảng đã tích cực coi trọng việc
phát triển đảng viên và kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội từ Trung ương
quân uỷ đến chi bộ, chế độ chính trị viên cùng đội trưởng phụ trách được thực hiện trong
toàn quân. Những biểu hiện muốn hạ thấp vai trò của cán bộ đảng và vai trò công tác
chính trị được đấu tranh một cách kiên quyết có hiệu quả.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, Đảng đã coi trọng xây dựng
và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo - chỉ huy trong quân đội cho phù hợp với từng điều kiện cụ
thể, đáp ứng tình hình nhiệm vụ của cách mạng luôn vận động phát triển.
Chấp nhận đề nghị của hội nghị cán bộ đảng toàn quân lần thứ ba (tháng 7-1948), ngày
27-10-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra nghị quyết “Lập chế độ chính trị uỷ
viên đại diện Đảng phụ trách trong quân đội”. Theo nghị quyết này chính trị uỷ viên là
người có quyền tối hậu quyết định. Chế độ chính uỷ tối hậu quyết định sau một thời gian


×