Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lý luận chung về HĐ huy động vốn và hiệu quả huy động vốn của BIDV Chương Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.9 KB, 22 trang )

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ
HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA BIDV CHƯƠNG DƯƠNG
1. Vốn huy động và nguồn hình thành vốn huy động trong ngân hàng
1.1. Nguồn gốc, khái niệm và vai trò, đặc điểm của vốn huy động trong ngân
hàng
1.1.1 Nguồn gốc

Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm
nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của
hoạt động ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các
tài sản có giá nhằm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là
người gửi tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn
thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với
các ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng
nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận.
Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo
ngược, ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và nguồn
tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất
của các ngân hàng thương mại hiện nay 1. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ,
ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền, nếu trước đây, ngân hàng là
người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng đều có
các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các
phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng
hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động
hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại.
1.1.2 Khái niệm

Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau
các trung gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại
một điểm chung là vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối
lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó ngân


1

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 1


hàng thương mại phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà
các ngân hàng thương mại phải có trước tiên là vốn.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các
dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau . Để bắt đầu
hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định ,
được gọi là vốn ban đầu . Trong quá trình hoạt động , ngân hàng gia tăng khối
lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền
gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác ( dịch vụ uỷ thác , trung gian thanh
toán,…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng , thanh toán , các nghiệp vụ kinh doanh khác…Vốn huy động
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại , nó
đóng vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
Do đó, ta có thể tóm tắt lại định nghĩa về Nguồn vốn huy động là những giá
trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ công chúng thông qua việc bán các
sản phẩm dịch vụ cho khách hàng (là vốn do NHTM tạo lập ra thông qua việc
thu hút tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá).
1.1.2 Vai trò và đặc điểm của vốn huy động trong ngân hàng
1.1.2.1 Vai trò của nguồn vốn huy động


Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của nguồn vốn đối với
các ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ Quyết định đến quy mô, thế lực và
khả năng mở rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế, có thể
khái quát hóa các vai trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân
hàng thương mại dưới một vài các khía cạnh sau:
- Đối với ngân hàng

Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng vì nó là nguồn vốn chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho
nền kinh tế. Do vậy hoạt động huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Có thể nói, hoạt động huy
động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của NHTM.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 2


- Đối với khách hàng

Hoạt động huy động vốn tạo ra một kênh tiết kiệm và đầu tư sinh lời, tạo cơ
hội cho khách hàng có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, hoạt
động huy động vốn của ngân hàng còn là nơi khách hàng có thể yên tâm cất giữ,
tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi của mình.
- Đối với xã hội

Quản lý điều tiết lượng tiền lưu thông trong xã hội. Định hướng đầu tư cho
các ngành kinh tế của từng vùng. Điều hòa vốn giữa những khách hàng có vốn
và những khách hàng thiếu vốn. Góp phần quan trọng tạo dựng nên sự phát triển
của nền kinh tế.

1.1.2.2 Đặc điểm của nguồn vốn huy động:

Nguồn vốn huy động trong ngân hàng có những đặc điểm như sau:
- Không thuộc sở hữu của NHTM.
- Có tính biến động cao, không ổn định (cần phải dự trữ)
- Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM.
- Là loại nguồn vốn đa dạng về: Nguồn gốc hình thành, Thời hạn các khoản
huyđộng, Giá trị các khoản huy động, Loại tiền huy động.

Cơ cấu nguồn vốn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam
(Thống kê ở mức độ tương đối)

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 3


1.2

Phân loại các nguồn vốn huy động

1.2.1
1.2.2
1.2.3
1.2.4
1.2.5

Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán
Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm

Tiền gửi không kỳ hạn
ộng vốn thông qua Huy đ giấy tờ có giá

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 4


1.3

Nguồn hình thành nên vốn huy động trong ngân hàng

ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số
tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi là. Trên
phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền
gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của
dân cư.
1.3.1 Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)

Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi
để thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh
toán ngay lập tức một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban, được
chỉ rõ là người thụ hưởng.
* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi
Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã
xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài
khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được
hưởng lãi, do đó nó cho phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo
trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít được thực hiện nên NOW được sử dụng

như một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ.
Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức
phi lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự động và khách
hàng uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm
sang tài khoản phát séc để bù đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng là khách hàng
hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền
tiết kiệm.

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 5


Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi
trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản
này được trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực
hiện thanh thoán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát
séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
1.3.2 Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội

Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và
được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này
tạm thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu
cầu sử dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là
trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh
doanh của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một
thời gian dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội
có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy

vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một
ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ
hạn của khoản tiền đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã
thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất,
các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không
được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt
Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng
theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động
kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 6


1.3.3 Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng

Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các
nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người
ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ
quan trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng
trong các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông
nghiệp góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là
tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.

Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng
rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển
sổ tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của
khoản tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm
cao hơn lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được
hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã
và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết
kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng
và đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó,
NHTM cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi
sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ
tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 7


Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài
trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ
thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất
của các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách
hàng. Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra
chiến lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn
nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị
của các NHTM.
1.3.4 Vốn đi vay

Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất

nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn
khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM
có thể chia thành hai loại chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay
trực tiếp.
*Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình
thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội
bằng việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh.
Thông thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối
toàn hệ thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi
trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể
phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ
huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết.
Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM
và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có
thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 8


Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng
kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn
tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ
hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân
hàng.
* Kỳ phiếu:

- ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một
công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một
CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là
một chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất
nhất định. Người sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp
hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền
gốc chứng chỉ với lãi.
Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của
các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn
chung không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân
hàng phát hành.
Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:
+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm
phát hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến
hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến
hạn.
+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần.
những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.
+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển
tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp
đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết
hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.
Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi điều
chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành
CD, các NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có
hiệu quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 9



- Ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc
doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới
được phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.
Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh
phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục
đích, nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay
USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn
đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời
cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng
như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy
động khác chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành
bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “ Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải
trình bày đầy đủ các nội dung sau:
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn
người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 10


* Trái phiếu
- ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM

phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông
thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung
ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng
loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất
thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ
phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái
phiếu đó hết hạn.
ở Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống
đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường
vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn.
Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc
người sở hữu) sau một thời gian nhất định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức
mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp
tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi
danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự
do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển
nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời
hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái
phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào
cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc
phát hành và có giá trị tối thiểu là 50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được
xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 11



Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn
trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn,
người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi
trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau:
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh
của đơn vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép
NHNN về việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều
chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao,
đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn
tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một
khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn
cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
*Vay vốn các tổ chức tín dụng

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 12


Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác,
Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn
chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho

các hình thức huy động vốn khác.
ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể
vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ
các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
* Vay từ NHNN và BTC
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là
Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các
NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu
hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn.
Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho
vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi.
Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách
tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài
chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các
địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục
vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình
thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi.
Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM
sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để
tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch
giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM
không bị lỗ trong kinh doanh.
* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 13



Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn
lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh dựa trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ
thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
* Vay từ nước ngoài:
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có
thể vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM
Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân
hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận
lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy
nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng
do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt
Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho
một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức
trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như
vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam
phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 14


Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do
NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan

NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ
nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
1.4 Hiệu quả sử dụng vốn huy động trong ngân hàng
1.4.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn huy động trong ngân hàng

Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì vấn đề
đặt ra đối với các nhà Quản trị doanh nghiệp cũng như những nhà Quản trị ngân
hàng là phải làm sao mà một đồng vốn bỏ ra phải thu về nhiều đồng lợi nhuận
hơn hay nói cách khác là vốn được sử dụng hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn
nói chung là sự đạt được mục tiêu đề ra khi sử dụng một lượng vốn nhật định
vào kinh doanh với những chi phí thấp nhất, hiệu quả trực tiếp đó là phải kinh
doanh có lãi để đổi mới trang thiết bị, đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh,
đảm bảo duy trì được năng lực của vốn. Hoạt động ngân hàng bao gồm hai
mảng chính đó là huy động vốn và sử dụng vốn, do đặc thù của ngành ngân
hàng mà quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn được hiểu như sau:
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù phản ánh trình độ và khả năng thực
hiện công tác sử dụng vốn nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất với chi phí và rủi
ro thấp nhất có thể. Có nghĩa là về mặt lượng hoạt động sử dụng vốn biểu hiện
giữa kết quả đạt được (số lượng, thời gian ) với chi phí bỏ ra. Còn về mặt chất là
phản ánh năng lực, trình độ quản lý của ngân hàng.
Một điều dễ thấy là một khi ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả thì tạo ra cơ
sở thuận lợi để hoạt động huy động vốn của ngân hàng có hiệu quả. Còn xét trên
một phạm vi rộng hơn, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng không chỉ mục đích
là lợi nhuận mà nó còn ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Thông qua việc đi sâu vào nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn của một ngân
hàng ta có thể thấy được năng lưc, trình độ quản lý của ngân hàng đó như thế
nào. Chẳng hạn như việc huy động vốn có phù hợp với sử dụng vốn chưa? Cơ
cấu sử dụng vốn có phù hợp với cơ cấu nguồn vốn không? Và bên cạnh sự tăng
trưởng của sử dụng vốn thì sự tăng trưởng đó có ổn định không?... Từ việc phân

tích này, ta có thể rút ra được những điểm mạnh của ngân hàng để phát huy,
những hạn chế còn tồn đọng để tìm phương hướng giải quyết, khắc phục nhằm
mục đích giúp ngân hàng sử dụng vốn hiệu quả hơn.

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 15


1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong ngân hàng

Căn cứ vào quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn, thì hiểu hiệu quả sử dụng
vốn được đánh giá qua các nhóm sau:
1.4.2.1 Chỉ tiêu về quy mô đầu tư và cho vay

a) Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế:
Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện được mối quan hệ tín dụng giữa ngân
hàng với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản ánh phần vốn đầu tư hiện đang
còn lại tại một thời điểm của ngân hàng đã cho vay nhưng chưa thu về. Đồng
thời, chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan hệ với doanh số cho vay ( Dư nợ đầu
kỳ+ Doanh số cho vay- Doanh thu số nợ = Dư nợ cuối kỳ ) với khả năng đáp
ứng vốn của các ngân hàng thương mại đối với những nhu cầu sử dụng vốn
trong nền kinh tế.
b) Doanh số cho vay:
Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát có hệ thống đối với những
khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay, chưa có sự đánh
giá cụ thể về chất lượng các khoản vay và phần rời của những khoản vay trong
một kỳ nhất định (trong ngày, tháng, quý, năm ) nhưng đây là chỉ tiêu cho khả
năng luân chuyển sử dụng vốn của một ngân hàng, quy mô đầu tư và cấp vốn tín
dụng của ngân hàng đó đối với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.

c) Doanh số thu nợ:
Là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi nợ của những khoản cho vay khi đến
thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
d) Hệ số sử dụng vốn:
Là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn so với tổng nguồn vốn. Hệ số này
luôn nhỏ hơn một và được xác định theo công thức sau:

Hệ số sử dụng vốn =

Tổng vốn sử dụng
Tổng nguồn vốn

e) Doanh số cho vay / tổng nguồn vốn kinh doanh:
Phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh thì bao nhiêu đồng được đem đi cho
vay. Hay nói cách khác là chỉ tiêu phản ánh độ nhạy bén, khả năng luân chuyển
vốn tồn đọng theo chiều hướng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 16


1.4.2.2

Chỉ tiêu về chất lượng cho vay

a) Tỷ lệ nợ quá hạn:
Là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho vay và khả năng
đảm bảo của nó trong một thời hạn nhất định. Thực chất, chỉ tiêu này cho
biết sự luân chuyển lượng tiền mặt trong một ngân hàng, phản ánh phần
chất đối với doanh thu nợ. Đây cũng là yếu tố đánh giá tính chất trình độ

nghiệp vụ của cán bộ tín dụng và trình độ quản trị ngân hàng đồng thời
thể hiện tình hình biến động chung của nền kinh tế.
Dư nợ quá hạn x 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư nợ

b) Vòng quay vốn được xác định theo công thức sau:
Doanh số nợ x100%
Vòng quay vốn =

Dư nợ bình quân

Vòng quay vốn càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng càng
luân chuyển nhanh, tham gia vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa.
1.4.2.3

Các tỷ lệ phản ánh khả năng sinh lời chủ yếu trong hoạt động của
ngân hàng

Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng kinh doanh của các
NHTM. Do đó các chỉ tiêu tài chính về lợi nhuận luôn là điểm hấp dẫn đối với
phân tích. Một số nhà Quản trị thường dùng các chỉ số sau đây để đánh giá lợi
nhuận của ngân hàng.
a) Chỉ số ROA:
Lợi nhuận ròng x 100%
ROA=
Tổng tài sản có
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của Ban điều hành ngân hàng trong việc tận
dụng các nguồn vốn để tạo ra thu nhập, nghĩa là một đồng tài sản thì tạo ra bao

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 17


nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. ROA giúp nhà quản trị thấy được khả năng
bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. ROA là thước
đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng, vì mọi tài sản có đều là những khoản đầu tư.
Tất cả các loại tài sản có như cho vay, chuyển nhượng, dự trữ,... đều sinh ra lãi
mỗi ngày, ngoại trừ hai loại tài sản là dự trữ tiền mặt và tài sản cố định. Nói
cách khác, ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh tốt, ngân hàng có cơ cấu
tài sản hợp lý, có sự điều chỉnh linh hoạt giữa các mục trên tài sản có trước
những biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu ROA càng cao thì thể hiện mức
độ rủi ro càng cao. Vì vậy so sánh giữa các kỳ hoạch toán, đối chiếu với sự di
chuyển các loại tài sản có, nhà quản trị có thể rút ra nguyên nhân của thành công
hay thất bại của ngân hàng.
b) Chỉ số ROE (Thu nhập ròng trên vốn ):
Lợi nhuận ròng x100%
ROE=

Vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu này đo lường tính lành mạnh trong hoạt động của một ngân hàng. Hệ
số ROE phản ánh lợi nhuận kiếm được từ việc đầu tư vốn của mình, cứ một
đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. Nhược
điểm của hệ số ROE là:
+ Đối với ngân hàng cụ thể, lợi nhuận trên toàn bộ tài sản có tương đối thấp,
tuy nhiên mức lợi nhuận trên vốn cổ phần có thể rất cao. Trong trường hợp này,
vốn cổ phần của ngân hàng sẽ nhỏ hơn so với tổng tài sản của nó, tức là ngân
hàng mất nhiều khả năng độc lập nên có thể đang có nhiều rủi ro về ký thác,

mặc dù mức lợi nhuận trên vốn cổ phần cao tạo thành hình ảnh nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
1.4.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của ngân hàng

Trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng có rất nhiều nhân tố có thể tác
động đến hiệu quả huy động vốn, để khái quát một cách rõ ràng, ta phân thành
nhân tố khách quan và chủ quan. Cụ thể như sau:
- Nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn:
* Môi trường chính trị pháp luật

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 18


Thực tế, các NHTM ngoài việc chịu sự quản lý trực tiếp của NHTW, còn bị
sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định, nghị định của Chính Phủ :
Luật dân sự, luật kinh tế, luật doanh nghiệp…Môi trường chính trị, các chính
sách tiền tệ, tài chính, lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn của
các NHTM.
* Môi trường kinh tế- xã hội
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động và sử dụng vốn bị
ảnh hưởng trực tiếp bởi các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập,
tình trạng thất nghiệp, lạm phát. Kinh tế tăng trưởng khiến cho nhu cầu đầu tư
tăng mạnh, các NHTM có thế nâng cao lãi suất huy động để đáp ứng nhu cầu
đầu tư của doanh nghiệp. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao
khiến cho thu nhập thực của người dân giảm khiến cho công tác huy động vốn
của ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
*Môi trường văn hóa
Việc gửi tiền vào ngân hàng của người dân không chỉ phụ thuộc vào các

chính sách thu hút vốn của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chính tâm lý, thói
quen của dân cư. Ở những nước phát triển, việc gửi tiền ở ngân hàng không còn
là một điều gì mới mẻ với người dân. Ngược lại, ở Việt Nam nói riêng và các
nước đang phát triển nói chung thì tiêu dùng của người dân vẫn chủ yếu bằng
tiền mặt. Chính vì vậy yếu tố tâm lý, thói quen, thái độ với rủi ro trong việc giữ
tiền mặt của người dân cũng ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của ngân
hàng.
* Cạnh tranh trên thị trường tài chính
Không một doanh nghiệp nào tồn tại trên thị trường mà tránh khỏi sự cạnh
tranh. Cạnh tranh giúp doanh nghiệp đó ngày càng phát triển bền vững hơn.
Ngân hàng cũng không ngoại lệ. Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân hàng là
điều không thể tránh khỏi với bất cứ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát
triển. Cạnh tranh diễn ra dưới nhiều hình thức, không chỉ dưới hình thái lãi suất
mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như : uy tín ngân hàng, chính sách
marketing… Chính vì vậy, cạnh tranh ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn
của NHTM
- Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn:
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 19


* Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do NH cung ứng
Do nhu cầu của khách hàng là đa dạng nên nếu như ngân hàng có nhiều hình
thức và kỳ hạn huy động phong phú sẽ dễ dàng đáp ứng được các nhu cầu đó
của khách hàng. Chất lượng của các dịch vụ của ngân hàng cũng là điều mà các
ngân hàng cần quan tâm. Khi mà lãi suất và các hình thức huy động hay kỳ hạn
của các ngân hàng là giống nhau thì yếu tố quyết định một người sẽ gửi tiền tại
ngân hàng này mà không phải ngân hàng khác chính là chất lượng dịch vụ mà
ngân hàng sẽ đáp ứng người dân..

* Chất lượng tín dụng
Nghiệp vụ huy động vốn luôn luôn gắn liền với nghiệp vụ sử dụng vốn. Nếu
như nghiệp vụ huy động vốn nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế thì nghiệp vụ sử dụng vốn lại thực hiện việc sử dụng các nguồn vốn vào
nền kinh tế để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng…để đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng. Chính vì lẽ đó, một ngân hàng nếu như việc sử dụng vốn gặp
vấn đề thì trước hết nó sẽ là giảm quy mô vốn mà ngân hàng đó sẽ huy động,
sau đó uy tín của ngân hàng sẽ bị suy giảm nghiêm trọng, từ đó dẫn đến việc thu
hút vốn nhàn rỗi của ngân hàng là rất khó khăn.
* Uy tín của ngân hàng
Việc người dân gửi tiền vào ngân hàng không chỉ đơn thuần là tìm kiếm lợi
nhuận đó còn là vì họ mong việc gửi tiền sẽ giúp họ giảm thiểu được rủi ro khi
cầm tiền. Chính vì vậy khi họ quyết định gửi tiền, họ sẽ chỉ tìm đến những ngân
hàng nào thật sự có uy tín, có thương hiệu trên thị trường. Vì vậy, nếu ngân
hàng có uy tín cao thì sẽ dễ dàng thu hút vốn hơn. Uy tín ngân hàng không chỉ
tạo lập trong ngày một ngày hai, đó cần cả một quá trình lâu dài và bền bỉ.
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Việc huy động vốn không chỉ tiến hành trong một thời kỳ ngắn hạn, nó cần
phải có một chiến lược huy động vốn dài hạn. Vì vậy mỗi ngân hàng cần phải
xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể, thích hợp với mình.
Chiến lược đó phải xây dựng dựa trên việc phân tích điểm mạnh, điểm yếu, các
cơ hội và thách thức của ngân hàng để từ đó đưa ra quyết định thu hẹp hay mở
rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi các tỷ lệ các nguồn vốn,
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 20


tăng hay giảm chi phí huy động.Trong từng thời kỳ, tùy thuộc vào từng chính
sách của Chính Phủ và NHTW mà NHTM sẽ có những chính sách thu hút vốn

sao cho hợp lý.
* Chính sách lãi suất
Việc cá nhân hay tổ chức gửi tiền vào ngân hàng thi điều đầu tiên họ mong
muốn là tìm kiếm lợi nhuận, chính vì vậy lãi suất chính là yếu tố đầu tiên họ
quan tâm. Vì vậy chính sách lãi suất là một trong những công cụ quan trọng nhất
bổ trợ đến việc huy động vốn của NH. Và NH sử dụng nó như một công cụ để
thay đổi quy mô nguồn vốn thu hút vào ngân hàng, đặc biệt là tiền gửi. Để duy
trì cạnh tranh với các ngân hàng khác, đồng thời thu hút thêm vốn, ngân hàng
phải có một mức lãi suất cạnh tranh đồng thời phải có thêm các ưu đãi đối với
các khách hàng lâu năm, có chính sách khuyến khích đối với những khách hàng
mới.
* Trình độ công nghệ ngân hàng
Ngày này cùng với việc đổi mới hoạt động ngân hàng thì các NHTM ngày
càng chú trọng vào việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động
NH. Đây cũng là điều tất yếu trong công nghệ thông tin hiện nay. Không thể phủ
nhận vai trò tích cực của Khoa học công nghệ đối với ngân hàng, nó giúp các
hoạt động ngân hàng diễn ra nhanh hơn, chính xác hơn và giảm thiểu rủi ro hơn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại luôn là bộ mặt của NH, đó là điều đầu tiên
khách hàng sẽ nhìn thấy khi bước chân vào NH. Thực tế là khách hàng sẽ tin
tưởng, yên tâm hơn khi gửi tiền vào NH có trình độ khoa học công nghệ cao.
* Năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng :
Trang thiết bị hiện đại, uy tín ngân hàng hay chính sách lãi suất…đều được
quyết định bởi nhân tố con người. Ngân hàng là một hoạt động dịch vụ, mục tiêu
là phục vụ nhu cầu của khách hàng vì vậy trình độ chuyên môn, thái độ phục vụ
của cán bộ NH là một yếu tố khá quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động của
NH. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, thái độ phục
vụ, tác phong làm việc nhiệt tình, cởi mở sẽ gây ấn tượng rất tốt với khách hàng,
điều đó sẽ giúp NH thu hút được nhiều khách hàng hơn. Do vậy, các ngân hàng
phải chú ý thường xuyên đến thái độ phục vụ của nhân viên, phải đào tạo được
đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ.

* Chính sách Marketing
Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 21


Trong hoạt động của bất cư doanh nghiệp nào, Marketing luôn chiếm một vai
trò quan trọng và có thế nói là quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Các NHTM hiện nay cũng đang từng bước học tập và áp dụng các nghệ
thuật thông tin quảng cáo, các hình thức khuyến mãi. Đây là một vấn đề rất quan
trọng nhằm giúp cho NH nắm bắt được yêu cầu nguyện vọng của khách hàng để
từ đó NH đưa ra những hình thức huy động vốn, chính sách lãi suất, kỳ hạn…
phù hợp nhất. Cạnh tranh ngân hàng càng gay gắt thì thị trường NH càng bị thu
hẹp lại, vì thế vai trò của Marketing ngày càng quan trọng: phải tìm được những
khoảng trống trên thị trường để giúp NH phát triển.

Hoàng Thị Hoa- SV lớp Đ7TCNH1

Page 22



×