Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phương pháp sử dụng có hiệu quả đồ dùng trực quan cho phân môn vẽ tranh ở lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.2 KB, 9 trang )

A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học vẫn là một vấn đề được
nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm bàn bạc thống nhất. Cụ thể biện pháp
nhằm cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá quá trình dạy học,
tăng cường khả năng tư duy của học sinh ở quá trình lĩnh hội tri thức, phát huy
tính độc lập, tính tích cực của học sinh được làm việc dưới nhiều hình thức và có
được hứng thú trong giờ học. Một trong những phương pháp dạy học phát huy
được tính tích cực của học sinh, tính độc lập sáng tạo, độc lập tư duy là biện
pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Việc giảng dạy môn Mỹ thuật ở trường tiểu
học cũng như những môn học khác, đồ dùng trực quan đóng một vai trò quan
trọng trong giờ giảng. Bởi vì đồ dùng trực quan khi sử dụng có hiệu quả trong
tiết giảng sẽ giúp học sinh tìm hiểu, so sánh, nhận xét, phán đoán và ghi nhận sự
vật dễ dàng, hiểu sự vật qua con mắt quan sát bằng nét vẽ, hình vẽ, màu sắc một
cách nhanh chóng, nhớ sự vật lâu hơn.
Chúng ta đã biết việc sử dụng đồ dùng trực quan tốt ở tiết giảng sẽ phát
huy được sự tham gia của nhiều giác quan. Hơn nữa, lứa tuổi học sinh tiểu học
tư duy còn đang ở độ thấp, cho nên khi sử dụng đồ dùng trực quan thì đồ dùng
phải sinh động, phải cụ thể để học sinh có được khả năng tự giác tư duy trừu
tượng qua tay sờ, mắt thấy, tai nghe và có được hứng thú học tập, hiểu vấn đề
nhanh, có như vậy khi vận dụng làm bài thực hành sẽ hiệu quả hơn.
Chính vì thế khi nói đến phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong
môn Mỹ thuật là ta phải nghĩ ngay đến một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vấn đề
đưa lên hàng đầu trong các phương pháp giảng dạy Mỹ thuật ở tiểu học. Một tiết
dạy Mỹ thuật có đồ dùng trực quan được khai thác triệt để sẽ bồi dưỡng và phát
triển cho các em sự say mê học tập và đáp ứng yêu cầu, mục tiêu của bài. Khi
các em biết khai thác đồ dùng trực quan độc lập các em sẽ nắm được các yếu tố
tạo nên vẻ đẹp trong môn Mỹ thuật, ngoài ra còn phát huy óc tưởng tượng, tư
duy sáng tạo tốt hơn. Bởi vậy việc đổi mới phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan là một nhu cầu tất yếu của quá trình dạy học và cũng là để hoàn thành tốt
nhiệm vụ của người giáo viên trên bục giảng.
Hiện nay ở các trường tiểu học, nhìn chung đã có đủ giáo viên dạy chuyên


môn Mỹ thuật. Do vậy trong mỗi bài giảng việc nghiên cứu để sử dụng đồ dùng
trực quan luôn là vấn đề mà các giáo viên chuyên Mỹ thuật quan tâm để cho
chất lượng của môn học ngày được nâng cao.
Qua nhiều năm thực tế giảng dạy, kết hợp với dự giờ thăm lớp của đồng
nghiệp, cùng với nghiên cứu các tài liệu nói về phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan và việc học tập các chuyên đề của phòng, của sở. Tôi nhận thấy chất
lượng giảng dạy môn Mĩ thuật về mặt bằng chung của các trường là chưa cao.
Đặc biệt là vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan còn chưa nhiều hoặc có sử dụng
đồ dùng trực quan nhưng học sinh lại không khai thác kiến thức cơ bản từ đồ
dùng trực quan mà vẫn thụ động quan sát đồ dùng. Tại một số trường lân cận tôi
có dịp được tiếp xúc với các em học sinh và được biết các em rất thích học có đồ
dùng trực quan. Nhưng qua thí điểm dạy cụ thể bằng các phương pháp sử dụng
1


đồ dùng khác nhau tôi đã nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trong một tiết dạy, mà
giáo viên khi thực hiện với đồ dùng không đúng thì đồ dùng đó cũng không có
tác dụng. Hay sử dụng đồ dùng để minh hoạ cũng vậy. Nếu không để học sinh
khai thác một cách tự nhiên thì cũng không có hiệu quả. Vì thế mà tôi muốn
chọn đề tài “Phương pháp sử dụng có hiệu quả đồ dùng trực quan cho phân
môn vẽ tranh ở lớp 1”.
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Theo mục đích, yêu cầu mỗi bài giảng thì phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan luôn được vận dụng trong việc giảng dạy mỹ thuật ở tiểu học vì nó
phù hợp với đặc điểm của môn học và phù hợp với đặc điểm tri giác của học
sinh.
Phương pháp trực quan đối với môn Mỹ thuật có những yêu cầu cụ thể
như: Yêu cầu về chuẩn bị đồ dùng trực quan và sử dụng đồ dùng trực quan. Vậy
khi nói đến việc chuẩn bị đồ dùng trực quan ta phải nghĩ đến nhiệm vụ của môn

Mỹ thuật, ngoài việc cung cấp những tri thức bộ môn và rèn kỹ năng nó còn
nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho
học sinh học tập ngoài yêu cầu là cho học sinh quan sát, phù hợp với nội dung
bài giảng còn có yêu cầu là phải đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh, tạo nên
không khí nghệ thuật trong giờ học. Làm cho các em học sinh yêu thích vật mẫu
bởi vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc của mẫu làm phấn chấn tinh thần học tập của
các em. Điều đó góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thẩm Mỹ cho học sinh.
Vì thế đồ dùng học tập môn mỹ thuật không thể tuỳ tiện phải cần có sự chuẩn bị
chu đáo trước theo yêu cầu của bài giảng. Mẫu vẽ to rõ ràng để học sinh nhìn rõ
màu sắc, đường nét phải tươi vui. Khi đồ dùng trực quan đã được chuẩn bị đầy
đủ, thì tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi hình thức tổ chức mà có những yêu cầu
về trình bày trực quan, để làm sao phát huy được khả năng tư duy khai thác kiến
thức triệt để ở mỗi học sinh.
Từ những tình hình chung đó và kết hợp với tình hình thực tế tôi nhận
thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan mỗi giáo viên vẫn còn sự hạn chế khác
nhau. Mà cụ thể được thể hiện ở chất lượng bài tập của các em chưa cao. Khả
năng tư duy hiểu bài, nhớ bài thông qua đồ dùng trực quan là rất thấp, các em
hoàn toàn không nắm được, thâu tóm được nội dung chính của bài qua đồ dùng.
Để khắc phục tình trạng này tôi đưa ra một số vấn đề từ thực tế cần giải quyết,
nhằm mục đích giúp giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả để cho
các em học sinh biết tự khai thác nội dung bài giảng từ trực quan.
II.Thực trạng của vấn đề:
1. Thực trạng chung:
Để xác định điều này trong tình hình chung hiện nay ở các trường tiểu
học, tôi đã tiến hành kiểm tra chất lượng bằng việc dự giờ thăm lớp và trực tiếp
2


giảng dạy. Nhìn chung tôi thấy học sinh học môn Mĩ thuật với một thái độ chưa
tích cực, vẫn còn phân biệt giữa các môn học. Bên cạnh thái độ phân biệt vị trí

môn học là khả năng tự giác tư duy còn yếu. Vậy lý do của việc học sinh không
nắm vững bài học là do đâu. Cụ thể tôi đã dự giờ thăm lớp để đánh giá điều này.
2. Thực trạng đối với giáo viên:
Với bài xem tranh thiếu nhi: Tranh “Hè trong công viên” Tôi thấy đồng nghiệp
của mình đã sử dụng đồ dùng trực quan và thực hiện đầy đủ tiến trình lên lớp
của một giờ dạy. Nhưng đồ dùng trực quan mà đồng chí đưa ra cho học sinh
quan sát chưa thể hiện tính thẩm mĩ, không đáp ứng được với yêu cầu của lứa
tuổi tư duy cụ thể. Đồ dùng còn nhỏ quá, dẫn đến việc học của học sinh không
phát huy được khả năng tư duy, học sinh quan sát thụ động, không khai thác
được nội dung bài từ đồ dùng. Giáo viên còn phải làm việc nhiều.
3. Thực trạng đối với học sinh:
Năm học 2013 – 2014 tôi đã thực nghiệm dạy ở khối lớp 1 với phương
pháp dạy truyền thống và kết quả đạt được như sau:

Đánh
giá

Lớp 1A

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

Sĩ số 19

12%


38%

50%

Lớp 5B với phương pháp dạy tích cực và kết quả đạt được như sau:

Kết
quả

Lớp 5B

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

Sĩ số 21

25%

45%

30%

Như vậy kết quả cho thấy số lượng học sinh không đạt còn nhiều. Qua đó
chứng tỏ rằng phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan không kết quả là do thái
độ tuỳ tiện, đồ dùng không chuẩn mực.
Đối với bài Vẽ trang trí : “Tô màu vào hình quả chuối.” Giáo viên vào bài rất

thuyết phục, tiến trình của một giờ dạy được thực hiện tuần tự đầy đủ, nhưng tôi
thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan của đồng chí ở bài dạy chỉ là tính chất minh
hoạ, mô phỏng, học sinh chỉ được làm quen mà không được nhận xét, mổ xẻ vấn
đề. Từ đó dẫn đến sự so sánh giữa giáo viên và học sinh không đi vào trọng tâm
của bài. Học sinh không tự khai thác được nội dụng của bài qua đồ dùng trực
quan mà thụ động nhìn đồ dùng trực quan. Vì vậy, bài thực hành của học sinh cả
lớp giống thầy hoàn toàn.
3


III. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
1.

Nghiên cứu mục tiêu bài dạy:

Giáo viên phải nghiên cứu kỹ mục tiêu và nội dung bài dạy, phải có giáo án
chi tiết trước khi lên lớp, phải tìm phương pháp truyền đạt nhanh nhất, ngắn
nhất từ trực quan. Bởi đồ dùng trực quan nó phù hợp với đặc điểm môn học,
phù hợp với đặc điểm tri giác của học sinh (tri giác bằng trực quan cụ thể?
2.

Chuẩn bị đồ dùng:

Chuẩn bị đồ dùng trực quan phù hợp với các tiến trình giảng trong mục đích
yêu cầu bài soạn. Đồ dùng gồm mẫu vẽ như đồ vật, dụng cụ sinh hoạt, hoa
quả, hình khối...Tranh, ảnh như các phiên bản tranh, ảnh, minh hoạ của giáo
viên. Tất cả phải đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ.
3.

Sử dụng đồ dùng:


Sử dụng trực quan để có hiệu quả tôi đi vào trực tiếp giảng dạy. Tôi dạy mỗi
lớp trong một khối, một phương pháp khác nhau để đối chứng với phương
pháp tiêu cực, hay tích cực.
Đối với khối lớp 1 tôi dạy ở lớp 1B để đối chứng.
Bài 8: Vẽ hình vuông và hình chữ nhật.
Trước khi dạy bài này tôi cũng đã nghiên cứu bài và soạn một giáo án chi tiết
với phương pháp trực quan được sử dụng hợp lý ở tiến trình bài giảng. Tôi đã
chọn đồ dùng trực quan là những đồ vật có dạng hình vuông và hình chữ nhật
gần gũi với các em như: cái bảng, quyển vở, mặt bàn, viên gạch hoa lát nhà
cùng với hình vẽ sẵn để minh hoạ. Khi vào bài dạy “ở phần 1 - Quan sát và
nhận xét”. Tôi cho học sinh quan sát viên gạch lát và cái bảng, sau đó tôi đưa
ra các hệ thống câu hỏi gợi mở để cho các em tự khám phá, tự tìm hiểu đặc
điểm của viên gạch lát nhà có hình vuông và cái bảng có hình gi?
* Tôi đặt viên gạch ở vị trí số 1 và cái bảng ở vị trí số 2.
- Vật đặt thứ nhất là vật gì? Vật thứ hai là cái gì?
- Các cạnh của hai vật này là nét thẳng hay nét cong ?
- Viên gạch có mấy cạnh ? Một em lên đo xem các cạnh của viên gạch này như
thế nào ? Sau khi học sinh đo xong và cho biết 4 cạnh bằng nhau thì lúc này giáo
viên kết luận viên gách là hình vuông => Hình vuông là hình có mấy cạnh ? Các
cạnh như thế nào ? (Học sinh tự trả lời)
4


- So sánh viên gạch và cái bảng em thấy có giống nhau không ? Một em lên đo
xem các cạnh của cái bảng ? Học sinh khi đo xong cho biết cái bảng có 2 cạnh
dài và 2 cạnh ngắn => Giáo viên kết luận cái bảng là hình chữ nhật <=> Hình
chữ nhật là hình có mấy cạnh dài, mấy cạnh ngắn ? Hình chữ nhật có mấy cạnh
tất cả?
- Khi học sinh đã nhận biết được thế nào là hình vuông và thế nào là hình chữ

nhật rồi thì tôi bắt đầu cho các em tập ghép hình vuông và hình chữ nhật bằng
các đoạn thẳng có sẵn sau đó hướng dẫn các em cáchvẽ hình vuông và hình chữ
nhật thông qua các hình vẽ được giáo viên treo trên bảng.

- Học sinh chỉ hình vuông ?

- Học sinh lên nhận biết hình chữ nhật ?
Ở phần 2 - Cách vẽ :Tôi chấm một điểm trên bảng sau đó dùng thước kẻ một
đoạn thẳng đứng.

- Đo đoạn thẳng đó và đánh dấu trên thước.
5


- Hướng dẫn các em dùng thước đo từ hai đầu đoạn thẳng sang ngang rồi chấm
hai điểm đó. Dùng đoạn thẳng đã định vị sẵn trên thước đo xem hai điểm vừa
xác định đã dài bằng đoạn thẳng đó chưa và nối hai điểm đó lại ta sẽ được hai
đoạn thẳng đứng song song với nhau (Cách đều nhau). Tiếp tục dùng thước kẻ
nối hai đầu của hai đoạn thẳng lại với nhau ta được một hình có 4 cạnh thẳng
bằng nhau (Hình vuông). Từ cách vẽ hình vuông giáo viên hướng dẫn các em
cách vẽ hình chữ nhật từ việc kéo dài thêm hai cạnh của hình vuông.
Sau khi học sinh nắm được cách kẻ hình vuông và hình chữ nhật, giáo
viên hướng dẫn tiếp cách thực hành.
“ Phần củng cố bài thực hành” Tôi cho các em nhận xét bài được ghim
trên bảng để tự các em so sánh, tìm hiểu rút ra kinh nghiệm sửa sai.
- Qua bài giảng ở lớp tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan ở các phần
trong một bài đều có hiệu quả, đối với mỗi phần học sinh đều lấy trực quan để
tìm hiểu nội dung bài thông qua câu hỏi gợi mở của thầy. Học sinh hăng hái, sôi
nổi phát biểu, tự giác khám phá, khai thác trực quan. Nội dung bài được mở
nhanh, kiến thức được truyền thụ sâu hơn, đầy đủ hơn. Và kết quả ở phần củng

cố ở lớp 1B được thống kê so sánh với lớp 1A như sau:
Lớp 1B dạy theo phương pháp tích cực. Lớp 1A dạy theo phương pháp chưa tích
cực. Và tôi thấy lớp 1B được sử dụng trực quan khai thác triệt để, học sinh hăng
hái phát biểu tham gia xây dựng bài nhiều hơn lớp 1A. Giáo viên giảng bài thấy
nhàn hơn, nói ít hơn. Không mất thời gian ổn định lớp. Thời gian một tiết học
cũng được tận dụng không bỏ phí. Sự tiếp thu bài từ đồ dùng trực quan tốt hơn,
nhanh hơn và sâu hơn. Chất lượng bài làm, số học sinh làm hết bài đạt tỉ lệ cao
hơn.
khi sử dụng đồ dùng trực quan trong một tiết học vẽ theo mẫu giáo viên cần lấy
mẫu làm trung tâm. Thầy chỉ gợi mở để học sinh tự tư duy, khám phá, khai thác
kiến thức từ mẫu. Có như vậy phương pháp trực quan mới được khai thác triệt
để, kết quả bài học mới đạt chất lượng cao. Giờ học có không khí sôi nổi hơn.
. Nói tóm lại khi sử dụng đồ dùng trực quan mà đồ dùng không đủ với yêu
cầu bài dạy hoặc đồ dùng sử dụng không phù hợp với trình tự các bước, thời
gian sử dụng ngắn quá, nhiều đồ dùng quá trong một tiết dạy đều không đem lại
không khí nghệ thuật trong giờ học mà còn có tác dụng tiêu cực đến khả năng
quan sát, phân tích đồ dùng của học sinh.
IV. Kiểm nghiệm:
Sau khi vận dụng những giải pháp trên tôi đã thu được kết quả từ lớp
1A và lớp 1B như sau:

6


Kết quả
Lớp Sĩ số

Hoàn thành
tốt


Hoàn
thành

Chưa hoàn
thành

Thái độ
Thích

Không

1B

20

30%

50%

20%

100%

0%

1A

19

20%


38%

42%

100%

0%

Với kết quả có khả quan tôi tiếp tục áp dụng vào dạy ở các phân môn của
tất cả các khối lớp trong cả một năm học. Đến cuối kỳ II tôi đã thu được kết quả
Rất tốt. Qua đó tôi thấy thực nghiệm của tôi đã có kết quả tốt. Hầu hết các em
thích học môn mĩ thuật có sử dụng trực quan để các em có điều kiện thể hiện tài
năng.
Tóm lại: Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Mĩ thuật là việc làm
ban đầu, việc làm không thể thiếu đối với người giáo viên chuyên Mĩ thuật khi
đứng trên bục giảng. Nó là đặc thù của bộ môn vì thế giáo viên cần phải hết sức
quan tâm chú trọng đến sự chuẩn bị đồ dùng trước giờ lên lớp sao cho thật chu
đáo, thật đầy đủ và sát với yêu cầu, mục tiêu bài soạn. Ngoài ra, đồ dùng được
chuẩn bị phải có thẩm mĩ.
Từ những vật tĩnh vô tri, vô giác giáo viên phải thổi vào đó cái hồn của sự
vật và phải là người chuyển cái hồn của sự vật đến từng học sinh có như vậy thì
đồ dùng trực quan khi được đưa ra mới phát huy tác dụng và có sức thuyết phục.
Phải tạo cho lớp học một không khí nghệ thuật bằng kiến thức có ở đồ
dùng trực quan để học sinh thực hành tốt.
Ngoài những yếu tố còn hạn chế từ phía giáo viên đã nêu ở trên vẫn còn
rất nhiều yếu tố khác dẫn đến việc sử dụng đồ dùng trực quan không đạt kết quả
cao trong giờ dạy. Một trong những nguyên nhân nữa phải kể đến đó là những
tồn tại ở học sinh. Không phải cứ thầy tốt là học sinh phải tốt mà còn ở học sinh
có được ý thức tích cực tự giác học hay không ? Đã thực sự coi đồ dùng là nơi

khai thác kiến thức chính hay chưa hay vẫn phải phụ thuộc vào sự trả lời dẫn dắt
của thầy.
Do điều kiện, hoàn cảnh khách quan cũng như chủ quan, tôi không thể
tránh khỏi những hạn chế trong quá trình thực hiện. Đối với từng phân môn điển
hình của môn Mĩ thuật tôi vẫn chưa đưa ra được biện pháp cụ thể, mới nêu ra
được các bước sử dụng trực quan ở hai dạng bài của hai khối lớp.
Sau khi tiến hành thực nghiệm tôi nhận thấy rằng:
- Để giúp học sinh làm tốt một bài vẽ trước tiên giáo viên phải trang bị cho học
sinh những kiến thức, kỹ năng cơ bản của bài học như hình mảng, màu sắc, bố
cục, đường nét ...
7


- Nắm chắc các phân môn trong môn Mĩ thuật về cách quan sát, cách vẽ cũng
như cách thực hiện.
- Đối với giáo viên phải chuẩn bị tốt về giáo án, đồ dùng trực quan.
- Khi sử dụng trực quan phải có ngôn ngữ giảng giải thuyết trình phù hợp với
học sinh.
- Đồ dùng sử dụng không nên dễ dãi, không có chọn lọc hoặc nhiều quá làm cho
đảo lộn nhận thức của học sinh.
Qua một năm thực nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan trong môn Mĩ thuật
ở tiểu học. Tôi thấy cách dạy như đã nêu ở trên giúp cho giờ dạy thành công, đạt
chất lượng cao ở bài làm của học sinh. Đặc biệt với học sinh lớp 4 lớp 5 là đối
tượng học sinh lớn dạy theo phương pháp này các em được làm việc nhiều, tiếp
thu bài rất nhẹ nhàng, tính tích cực của các em được sử dụng trong bài dạy và
các ngôn ngữ các em trả lời được thầy nhấn mạnh các em rất phấn khởi, hăng
hái học.
Thực nghiệm này có thể áp dụng đối với các đối tượng học sinh từ lớp 1
đến lớp 5, từ yếu đến giỏi. Song với học sinh yếu thì thời gian tiến hành sẽ lâu
hơn, đòi hỏi giáo viên phải có lòng nhiệt tình đối với các em.

Với học sinh trung bình-Khá thì việc áp dụng phương pháp này đỡ khó
khăn hơn. Giáo viên chỉ cần đưa ra đồ dùng và hệ thống câu hỏi gợi mở là học
sinh có thể tự tìm tòi khai thác nội dụng bài.
Đối với đối tượng học sinh giỏi thì giáo viên chỉ cần đưa ra đồ dùng trực
quan và một chút gợi mở là học sinh có thể tìm ra được kiến thức mà yêu cầu
bài cần đạt. Đối với học sinh này thì kiến thức thu được sẽ nhanh hơn, cao hơn,
sâu hơn, bài làm rất tốt.
C – KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT:
1. Kết luận:
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học mĩ thuật là việc làm không
thể thiếu. Nó là đặc thù của bộ môn, vì thế giáo viên phải hết sức quan tâm chú
trọng đến sự chuẩn bị đồ dùng trước khi lên lớp sao cho thật chu đáo, thật đầy
đủ và sát với yêu cầu, mục tiêu, đảm bảo tính thiết thực và thẩm mĩ. Từ những
vật tĩnh vô tri vô giác, giáo viên phải thổi vào đó cái hồn của sự vật và là người
phải chuyển cái hồn của sự vật đến từng học sinh có như vậy đồ dùng trực quan
khi đưa ra mới phát huy tác dụng và có sức thuyết phục. Phải tạo cho lớp học
một không khí học tập sôi nổi, thoải mái thì mới thu hút sự chú ý học tập của
các em.Với bản thân trải qua những năm giảng dạy, tôi đã rút ra kinh nghiệm và
áp dụng trong giảng dạy điều đó tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để đảm bảo chất
lượng cho học sinh ngoài kinh nghiệm của mình, tôi không ngừng tìm tòi học
hỏi những đồng chí đồng nghiệp để nâng cao tay nghề đáp ứng với sự nghiệp
giáo dục trong xã hội hiện nay.
2.Đề xuất:
8


Để cho chất lượng dạy môn Mĩ thuật được nâng cao về việc sử dụng trực
quan thường xuyên và để giáo viên chuyên có điều kiện được thay đổi cách
giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
- Phải có trang bị đầy đủ dụng cụ, đồ dùng giảng dạy mĩ thuật cho giáo viên

- Thường xuyên tổ chức thi vẽ tranh cho học sinh và phải có phòng trưng bày để
các em thường xuyên được quan sát.
- Phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn.
- Phải thường xuyên sưu tầm, tìm tòi học hỏi kinh nghiệm cũng như những
phương pháp mới phải mạnh dạn áp dụng.
- Cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối với việc học Mỹ
thuật của các em như: Đồ dùng, sách giáo khoa cần mua đầy đủ cho các em.
Trên đây là những suy nghĩ của cá nhân. Song tôi không thể tránh khỏi
những hạn chế trong quá trình thực hiện. Rất mong được sự đóng góp ý kiến từ
các đồng nghiệp bản thân tôi xin tiếp thu và học hỏi để ứng dụng vào việc dạy
và học ngày một tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Thanh hóa, ngày 07 tháng 04 năm 2015
Cam kết không copy
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người viết

Nguyễn Hữu Thọ

9



×