Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo TĂNG CƯỜNG bản CHẤT GIAI cấp CÔNG NHÂN của ĐẢNG từ năm 1986 đến năm 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.69 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO TĂNG CƯỜNG BẢN

g
3

CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 1996

10

1.1. Yêu cầu khách quan phải tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996

10

1.2. Chủ trương và chỉ đạo nhằm tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996

24

Chương 2: KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ
TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO TĂNG CƯỜNG BẢN
CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 1996

2.1. Kết quả và nguyên nhân

43


43

2.2. Một số kinh nghiệm rút ra

54

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài đề tài
Đảng ta là đội tiền phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung
thành cho lợi ích của GCCN, NDLĐ và toàn dân tộc. Từ khi ra đời đến
nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường của GCCN, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hoạt động.
Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, Đảng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình mà dân
tộc đã giao phó. Sức mạnh của Đảng là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ
tư tưởng tiên tiến của GCCN với khí phách, tinh hoa, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang bản chất GCCN, và

trải qua biết bao thử thách, gay go, Đảng ta vẫn không ngừng lớn mạnh
và trưởng thành, có được điều đó là nhờ Đảng luôn giữ vững, tăng cường
bản chất GCCN của mình, luôn kiên định vào mục tiêu, con đ ường đã lựa
chọn là ĐLDT gắn liền với CNXH.
Đảng ta sinh trưởng trong một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu, GCCN nhỏ bé, số đông cán bộ, đảng viên xuất thân từ
nông dân và tiểu tư sản. Họ gia nhập Đảng thường bắt đầu từ lòng yêu nước, có tinh thần cách mạng cao và lòng yêu nước nồng nàn, nhưng lúc đầu
nhiều người còn ít hiểu biết về GCCN, chưa nhận rõ vai trò và sứ mệnh
lịch sử thế giới của GCCN, chưa tự giác đứng trên lập trường, quan điểm
của GCCN. Trong điều kiện đó, việc xác định và tăng cường bản chất
GCCN của Đảng hoàn toàn không đơn giản, và là việc làm cần thiết để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta sở dĩ giữ vững được vai trò lãnh
đạo và lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới là nhờ Đảng ta không xa


4

rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
không xa rời mục tiêu XHCN, không làm mất đi bản chất GCCN. Thành
tựu và thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới trên đất nư ớc ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã và đang chứng minh sức sống và làm sáng tỏ bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.Và để làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ngày càng soi sáng cho cách mạng Việt Nam thì điều cốt yếu là phải tăng
cường bản chất GCCN của Đảng.
Trong những năm từ 1986 đến 1996, trên thế giới, khu vực và trong
nước đã diễn ra nhiều sự kiện có tác động trực tiếp đến cách mạng Việt
Nam, đến sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp chi phối đến tình hình tư tưởng
cũng như lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên.

Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng từ năm 1986
đến năm 1996” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này
nhưng mới chỉ ở một khía cạnh nhỏ, tiêu biểu có:
- Các sách của những nhà xuất bản lớn, có uy tín: Giai cấp công
nhân Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn (1996), Nxb Lao Động, Hà
Nội; Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam (1997),
Nxb CTQG, Hà Nội; Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay (2006).
Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu và giảng dạy. L ưu hành nội bộ,
Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
nội; Một số văn kiện chủ yếu của Đảng về công tác xây dựng Đảng
(1982), Lưu hành nội bộ, Nxb Sự Thật, Hà Nội; Đổi mới, chính đốn
Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng (2006), Nxb QĐND,


5

Hà Nội; Phong trào công nhân quốc tế. Những vấn đề lịch sử và lý luận ,
Tập 1: Sự ra đời của giai cấp vô sản và sự hình thành của nó với t ính
cách là một giai cấp cách mạng (1976), Nxb Sự Thật, Hà Nội; Những vấn
đề về xây dựng Đảng trong giai đoạn Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng
chủ nghĩa xã hội (1971). Trích tác phẩm kinh điển/ Khoa Xây dựng Đảng,
Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Hà Nội; Giới thiệu tác phẩm của
Các Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước (1999), Nxb CTQG, Hà Nội. Các công trình trên
chỉ đề cập đến những vấn đề lớn về công tác xây dựng Đảng nói chung
trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong đó có một số vấn đề bàn

về bản chất GCCN và tính tiền phong của Đảng, một số kinh nghiệm
trong công tác xây dựng Đảng trước tình hình, nhiệm vụ mới. Và đồng
thời các công trình đó cũng trích dẫn nhiều câu viết, câu nói của các nhà
kinh điển: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh.
- Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước có những bài nói, bài viết
bàn về vấn đề này như: Hồ Chí Minh (1994), Với việc xây dựng Đảng ta
về trí tuệ, Nxb CTQG, Hà Nội; Lê Duẩn (1985), Vươn lên hoàn thành sứ
mệnh lịch sử trong giai đoạn mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội; Nguyễn Phú
Trọng (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước,
Nxb CTQG, Hà Nội; Lê Đức Thọ (1985), Xây dựng Đảng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà nội. Các tác phẩm
trên đã trực tiếp đề cập đến những vấn đề cơ bản, cốt lõi trong công tác
xây dựng Đảng, đặc biệt là đã chỉ ra các biện pháp để tăng cường bản chất
GCCN của Đảng trước yêu cầu đổi mới đất nước và xây dựng CNXH.
Đồng thời các sách đó đã nêu lên, luận giải những quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS, về vai trò của giai cấp
vô sản đổi với sự nghiệp cách mạng.


6

- Nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu có: Lê
Quang Thưởng (1996), Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức trong
giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội; Nhiệm Khắc Lễ, Lê Quang Tâm
(1995), dịch Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay, Nxb
CTQG, Hà Nội; Vũ Oanh (1999), Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững
mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Nxb CTQG, Hà Nội; Bùi Đình
Phong, Phạm Ngọc Anh (2001), Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động, Hà Nội; Lê Đức
Bình (2003), Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Nxb CTQG, Hà Nội.

Những nhà nghiên cứu trên đã nêu lên một số vấn đề cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giai cấp và tính
tiền phong của Đảng, đã thẳng thắn nêu lên một số ưu, khuyết điểm trong
công tác xây dựng Đảng ta về mọi mặt, từ đó rút ra một số bài học lớn
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng trước tình hình diễn biến phức tạp
của thế giới, khu vực và trong nước.
- Nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như: Lê Đức Bình (2003),
“Bản chất giai cấp công nhân của Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8);
Quang Cận (2000), “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công
nhân, Đảng của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận, (số 1);
Đinh Ngọc Giang (2006), “Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng trong thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (số 9);
Phạm Công Khâm (1998), “Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân trong xây dựng đội ngũ cán bộ cho thời kỳ mới”, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (số 2); Nhị Lê (2005), “Phải chăng cần thay đổi bản
chất giai cấp công nhân và từ bỏ tính tiền phong lãnh đạo”, Tạp chí Cộng
sản, (số 15); Đặng Vũ Liêm (2002), “Giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng trong giai đoạn mới của


7

cách mạng”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 4); Đỗ Ngọc Ninh (2005),
“Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản theo tư tưởng của Lênin
và nhiệm vụ xây dựng Đảng hiện nay”, Tạp chí Công an nhân dân, (số 2);
Đỗ Ngọc Ninh (2002), “V.I.Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân và ý nghĩa đối với xây dựng, bảo vệ Đảng ta trong giai
đoạn hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 4); Trần Đình Nghiêm:
“Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thông qua việc năng cao chất

lượng đội ngũ đảng viên”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 1999, (số 2); Lê
Khả Phiêu (1999) “Bản chất của Đảng ta là bản chất giai cấp công nhân”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 7); Phạm Ngọc Quang (2000), “Tăng cường sự
thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân
tộc của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, (số 8); Trần Trọng Tân (2005), “Luận cứ then chốt giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng”, Tạp chí Tư tưởng văn hoá,
(số 7); Đan Tâm (2000), “Mấy ý kiến về bản chất giai cấp công nhân và
tính nhân dân của Nhà nước trong đời sống hàng ngày”, Tạp chí Dân vận,
(số 9); Đan Tâm (2000), “Sự tiến công của các thế lực thù địch vào sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân”, Tạp chí Thông tin lý luận, (số 6);
Trên đây là tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà phê bình được
đăng trên các tạp chí lớn và có uy tín. Các bài viết đó đã tiếp cận ở nhiều
góc độ và phương diện khác nhau về vấn đề bản chất GCCN của Đảng,
những vấn đề cơ bản để Đảng ta giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời những bài viết đó đã
kịch liệt lên án, phê phán những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch
xung quanh vấn đề tăng cường bản chất GCCN của Đảng trong tình hình
hiện nay.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đã một phần đề cập những vấn
đề có liên quan đến quá trình Đảng tăng cường bản chất GCCN của Đảng


8

ở những khía cạnh và cấp độ khác nhau qua từng giai đoạn và thời kỳ lịch
sử. Tuy nhiên chưa có một công trình khoa học, sách báo nào đi sâu
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện quá trình Đảng lãnh đạo tăng
cường bản chất GCCN của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996, song các
công trình nghiên cứu đó là nguồn tư liệu quý giá để tác giả tham khảo, kế

thừa trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận giải, làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo tăng
cường bản chất GCCN của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996. Qua đó rút
ra những kinh nghiệm để vận dụng trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ yêu cầu khách quan của việc Đảng lãnh đạo tăng cường
bản chất GCCN của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996.
- Phân tích, luận giải, làm rõ những chủ trương, chỉ đạo của Đảng
về tăng cường bản chất GCCN của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996.
- Đánh giá khái quát kết quả, rút ra những kinh nghiệm có thể vận
dụng trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động lãnh đạo của Đảng thông qua những chủ trương và chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước với việc tăng cường bản chất GCCN của
Đảng từ năm 1986 đến năm 1996.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: những chủ trương, sự chỉ đạo nhằm tăng cường
bản chất GCCN của Đảng.
- Phạm vi không gian: Trong toàn Đảng Cộng sản Việt Nam


9
- Phạm vi thời gian: Từ năm 1986 đến năm 1996.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường bản chất GCCN của Đảng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu sử học, phương pháp lô
gích và kết hợp hai phương pháp đó, đồng thời sử dụng các phương pháp
khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, chuyên gia
để thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận của luận văn
- Hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về tăng cường bản
chất GCCN của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996.
- Làm rõ vai trò của những chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn, nhạy
bén của Đảng trong quá trình lãnh đạo tăng cường bản chất GCCN của
Đảng, yếu tố giữ vai trò quyết định hàng đầu đối với mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam năm 1986 đến năm 1996.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập môn Lịch sử Đảng trong các học viện, nhà trường quân đội.
7. Kết cấu
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo.


10

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO TĂNG CƯỜNG BẢN CHẤT
GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996
1.1. Yêu cầu khách quan phải tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996
1.1.1. Vai trò của việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng trong sự phát triển của đất nước

* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bản
chất giai cấp công nhân của Đảng
C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin sáng lập học thuyết Mác - Lênin về ĐCS,
đảng cách mạng của GCCN. Học thuyết đó là một bộ phận cấu thành của CNXH
khoa học. Học thuyết Mác - Lênin về ĐCS chỉ ra những quy luật ra đời, tồn tại,
phát triển của ĐCS, những nguyên tắc xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, về sự lãnh đạo của đảng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong
lãnh đạo xã hội cũ, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là CNXH.
Trong những vấn đề đó thì bản chất GCCN của đảng là vấn đề đặc biệt quan
trọng, bao trùm và xuyên suốt, chỉ đạo các hoạt động xây dựng bản thân đảng,
hoạt động đấu tranh giành chính quyền và cuộc cách mạng XHCN.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, để thực hiện được sứ mệnh lịch
sử đó, GCCN phải hành động với tính cách là một giai cấp. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được khi GCCN tổ chức được chính đảng cách mạng, khác hẳn về
chất so với các đảng do giai cấp tư sản lập ra. Ph.Ăngghen viết:
Để giai cấp vô sản đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút
quyết định - Mác và tôi đã bảo vệ lập trường này từ năm 1847 - thì nó cần
thành lập một đảng đặc biệt, không giống bất cứ đảng nào, đối lập với chúng
và tự nhận mình là một đảng có tính giai cấp [4, tr.26]. Theo C.Mác,


11
Ph.Ăngghen: “Đảng có tính giai cấp” đó là ĐCS, tính giai cấp của đảng chính
là tính chất GCCN.
Do địa vị khách quan, do điều kiện sống, điều kiện làm việc, do sự nổi
trội của GCCN so với các giai cấp khác nên GCCN là giai cấp tiến bộ, cách
mạng và triệt để nhất. ĐCS, bộ phận tiên tiến nhất của GCCN, tiên phong
trong hành động và tiên phong cả lý luận. C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy

phong trào tiến lên. Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô
sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào cộng sản [34, tr.614-615].
Khẳng định bản chất GCCN của ĐCS, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ
rõ sự giống nhau và đặc biệt là sự khác nhau về chất của ĐCS với các đảng
khác của GCCN và những đảng cải lương. Hai ông cũng chỉ rõ, lợi ích của
ĐCS hoàn toàn thống nhất với lợi ích của toàn thể GCCN, còn lợi ích của các
đảng khác của GCCN chỉ có thể thống nhất trong một thời gian nhất định,
trong từng quốc gia, dân tộc. Trong suốt thời gian đấu tranh cách mạng, ĐCS
đã giải quyết một cách đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
với lợi ích GCCN, luôn coi trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của GCCN.
C.Mác, Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ những mối liên hệ tất yếu trong nội bộ
ĐCS, quy định sự vận động, phát triển của đảng. Để đảng thực sự là một đảng
chân chính, cách mạng, đội tiền phong chính trị của GCCN, đại biểu cho lợi ích
của phong trào vô sản thế giới, một đảng hoàn toàn độc lập với giai cấp tư sản và
các đảng khác của công nhân, không theo đuôi giai cấp tư sản, muốn vậy thì đảng
phải lấy CNXH khoa học làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Đảng
xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.


12
Kế thừa những tư tưởng của Mác, Ăngghen, V.I.Lênin đã kiên quyết
đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của bọn cơ hội, phản động
xuyên tạc vai trò của đảng và tính chất tiền phong chính trị của đảng, khẳng
định là đội tiền phong chính trị của GCCN, là lãnh tụ tối cao và lãnh đạo toàn
thể NDLĐ, lật đổ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới. Người nhấn mạnh cần phân biệt đội tiền phong của
GCCN với toàn bộ giai cấp. Người viết: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội
tiền phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp” [29, tr.289]. Tính tiền
phong của đảng là đặc trưng, tính chất rất quan trọng của ĐCS. Do đó Lênin

cho rằng phủ nhận vai trò tiên phong chính trị của ĐCS đối với GCCN, vai
trò người lãnh đạo GCCN và toàn thể NDLĐ, “là hoàn toàn tước vũ khí của
giai cấp vô sản, làm lợi cho giai cấp tư sản” [24, tr.33].
Để ĐCS thực sự là đảng cách mạng và là đội tiền phong chính trị của
GCCN và là lãnh tụ lãnh đạo toàn thể NDLĐ lật đổ chế độ áp bức bóc lột, xây
dựng CNXH, Đảng phải lấy CNXH khoa học làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Không có CNXH khoa học, lý luận
cách mạng của GCCN thì đảng không phát động và duy trì được phong trào
cách mạng rộng lớn, không thể đưa phong trào cách mạng đến thắng lợi hoàn
toàn. Lênin khẳng định: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [30, tr.32].
V.I.Lênin còn chỉ rõ, sự gắn bó mật thiết giữa ĐCS với quần chúng là
một đặc tính cơ bản của Đảng, bảo đảm cho đảng có sức mạnh, và đó cũng là
sinh mệnh của đảng. Chỉ có ĐCS gồm tất cả những đại biểu ưu tú của giai cấp
ấy, đó là những người cộng sản giác ngộ đầy đủ và trung thành, luôn biết gắn
mình với toàn bộ đời sống của giai cấp mình và qua giai cấp mình để gắn bó
với toàn thể quần chúng bị áp bức và giành được sự tin cậy hoàn toàn của giai
cấp đó. Lênin khẳng định: “Chỉ có dưới sự lãnh đạo của một đảng như vậy thì


13
giai cấp vô sản mới có khả năng phát huy tất cả sức mạnh của cuộc tiến công
cách mạnh của mình” [24, tr.227-228].
V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
về tính quốc tế của ĐCS trong điều kiện lịch sử mới và làm sâu sắc, rõ hơn về
tính quốc tế của đảng. Điều đó dựa trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế của GCCN, từ
nhiệm vụ cách mạng và sứ mệnh lịch sử của Đảng là lãnh đạo GCCN, NDLĐ
thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN. Từ khẩu hiệu hành động
“vô sản các nước đoàn kết lại” được Lênin phát triển lên “vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, đã thể hiện sâu sắc tính quốc tế của

ĐCS.
Lênin đã phát triển và hoàn chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, đây là
nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của đảng, đảm
bảo cho đảng phát triển có đủ khả năng hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của
mình. Người chỉ rõ “Các đảng gia nhập quốc tế cộng sản phải được xây dựng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ” [24, tr.253]. Lênin cho rằng tự phê bình và
phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của ĐCS. Tự cao, tự đại,
không thấy những sai lầm, khuyết điểm của mình, giấu diếm sai lầm, khuyết
điểm là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức chiến đấu, thậm chí
làm tan rã đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người học trò xuất sắc của Lênin đã vận dụng
sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin về ĐCS, trong đó vấn đề quan
trọng hàng đầu được người quan tâm là bản chất GCCN của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [33, tr.314].
Và đồng thời người cũng chỉ rõ: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế
giới” [35, tr.474]. Để thực hiện thắng lợi cách mạng vô sản, cứu nước, giải


14
phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Người khẳng định:
Điều đầu tiên quyết định là phải có đảng cách mạng, đảng ấy giáo dục, giác
ngộ và tổ chức nhân dân tiến hành cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Để giành lấy thắng lợi, cách
mạng nhất định phải do giai giai cấp công nhân lãnh đạo.Vì đó là giai cấp tiên
tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ
nhất. Mà đảng vô sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân” [33, tr.283].
Như vậy, ngay từ đầu và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra những tính chất cơ bản của Đảng ta, gồm: tính cách mạng, tính

tiền phong, tính trong sạch kiểu mẫu (cả trong phẩm chất đạo đức và trong tổ
chức hoạt động).
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bàn đến tính đạo đức của Đảng, Người luôn
quan tâm đến đạo đức của cán bộ, đảng viên, đó là đạo đức cách mạng. Người
coi đạo đức cách mạng là yếu tố không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ, đảng
viên, là phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, “Phải ra sức phấn
đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng” [33, tr.286].
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bàn đến tính trí tuệ của Đảng. Bởi
vì Đảng muốn lãnh đạo GCCN, NDLĐ lật đổ xã hội áp bức bóc lột, để xây
dựng thành công CNXH thì Đảng phải có trí tuệ. Người nhấn mạnh: “Trong
Đảng ta gồm có những người có tài, có đức. Phần đông những người hăng hái
nhất, thông minh nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Chúng
ta chắc chắn đi đến thắng lợi và thành công” [29, tr.262]. Những người cộng
sản mà không có hiểu biết, không giỏi chuyên môn, không nắm vững nghiệp
vụ thì không thể đứng trên cương vị của người lãnh đạo nhân dân được.
Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều lần bàn đến mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Người khẳng định: “Lực lượng của giai


15
cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng tận. Nhưng lực
lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi” [33, tr.290]. Mối
quan hệ ấy thể hiện sức sống mãnh liệt của Đảng, thể hiện vai trò to lớn của
Đảng và nó được biểu hiện ở tính quần chúng. Đó là tình thương yêu nhân
dân, sự gắn bỏ mật thiết, máu thịt với nhân dân, luôn đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết. Người luôn dạy rằng: Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp,
của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Và cuối cùng Người đã kết
luận: “Đảng ta là một Đảng có tính quần chúng” [33, tr.289].
Những cơ sở lý luận trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh là nền tảng quan trọng để giúp Đảng ta tăng cường và phát huy bản
chất GCCN của Đảng, để Đảng luôn kiên định với con đường mà mình đã lựa
chọn, đó là ĐLDT gắn liền với CNXH.
* Tầm quan trọng của việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996
Bản chất GCCN của Đảng là vấn đề cơ bản, bao trùm và xuyên suốt
chi phối toàn bộ hoạt động của tất cả các đảng mác xít chân chính, từ hoạt
động xây dựng bản thân đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức
lãnh đạo và phong cách công tác, đến hoạt động lãnh đạo cách mạng.
Trong giai đoạn cầm quyền, đảng trở thành lực lượng lãnh đạo toàn xã hội,
chịu trách nhiệm về sự tồn vong, phát triển của dân tộc mình thì bản chất
GCCN của Đảng càng chi phối mạnh mẽ, toàn diện hoạt động của Đảng.
Đảng tiến hành xây dựng bản thân mình phải theo lập trường, quan điểm
của GCCN; Đảng lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức
kinh tế, xã hội và lãnh đạo mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng phải dựa
trên cơ sở lập trường, quan điểm GCCN.
Đối với Đảng ta, việc khẳng định bản chất GCCN của Đảng lại càng
trở nên quan trọng. Việc khẳng định điều đó là rất cần thiết để phân biệt ranh


16
giới giữa lập trường GCCN với lập trường giai cấp tư sản cải lương và lập
trường tiểu tư sản. Để từ đó nhấn mạnh với những đảng viên mà xuất thân
không phải từ GCCN mà từ các giai tầng khác trong xã hội, nhưng khi đã tự
nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, nguyện suốt đời hy sinh vì mục tiêu,
lý tưởng của Đảng thì họ phải đặt lên hàng đầu việc thường xuyên tu dưỡng,
rèn luyện theo lập trường, quan điểm của GCCN. Đó là tinh thần tự giác, ý
thức tổ chức kỷ luật, tính quốc tế... Thậm chí ngay cả với những đảng viên
xuất thân từ GCCN, nếu không chịu tu dưỡng, rèn luyện thì bản thân những
đảng viên đó cũng không thể giữ được bản chất GCCN và sẽ bị đào thải, tha

hoá, biến chất.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
việc tiếp tục khẳng định bản chất GCCN của Đảng và giữ vững, tăng cường
bản chất ấy lại càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Như trong Đại
hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu” [14,
tr.139]. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương,
giải pháp thích hợp. Nhờ đó Đảng luôn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử
thách để chèo lái con thuyền cách mạng đi đúng hướng và giành nhiều thắng lợi
to lớn. Kể cả khi đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, kể cả thời điểm Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ; Các ĐCS cầm quyền ở những nước
ấy tan rã, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng. Đứng trước
tình hình như thế, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giành
được những thành tựu to lớn, tạo thế và lực để đất nước bước vào thời kỳ mới.
Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,


17
Đảng chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đây
là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, song việc thực hiện nó vô cùng khó
khăn, phức tạp; phải kiên trì từng bước, vừa xây dựng, vừa chống, vừa tận
dụng, phát huy những mặt tích cực của kinh tế thị trường, vừa tìm cách khắc
phục, hạn chế những mặt trái, mặt tiêu cực của nó, không để kinh tế thị trường
tự phát dẫn tới chủ nghĩa tư bản, làm chệch hướng con đường đi lên CNXH mà
nhân dân ta đang xây dựng. Tuy nhiên việc mở cửa hội nhập với bên ngoài
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chính trị, văn hoá, xã hội... ở nước ta. Nó trực

tiếp tác động đến mọi mặt kinh tế - xã hội nước ta: Mặt trái cơ chế thị trường,
xã hội đồng tiền, thực dụng... Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng nói chung và tăng cường bản chất GCCN của Đảng nói riêng.
Trong điều kiện đó, lại càng phải khẳng định bản chất GCCN của Đảng,
đề ra các biện pháp cụ thể, mạnh mẽ để tăng cường bản chất GCCN của Đảng,
để bản chất ấy thật sự xuyên suốt, bao trùm và chi phối toàn bộ hoạt động của
Đảng, qua đó tác động tích cực đến mọi mặt của xã hội nước ta. Do đó tăng
cường bản chất GCCN của Đảng đã trở thành phương hướng và mục tiêu trong
công tác xây dựng Đảng.
1.1.2. Thực trạng của việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng trước năm 1986
ĐCS Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Từ khi
ra đời đến nay, tuy mang nhiều tên gọi khác nhau: ĐCS Việt Nam, ĐCS Đông
Dương, Đảng Lao động Việt Nam, ĐCS Việt Nam nhưng Đảng ta vẫn giữ
vững và không ngừng tăng cường bản chất GCCN của Đảng. Đây là vấn đề
cốt tử trong công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với
nhiều nội dung cơ bản khác, việc tăng cường bản chất GCCN của Đảng đã


18
làm cho Đảng không ngừng vững mạnh và trưởng thành, lãnh đạo nhân dân ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Vấn đề tăng cường bản chất GCCN của Đảng trước năm 1986 luôn
được Đảng ta quan tâm. Ngay từ ngày thành lập, ĐCS Việt Nam đã trở thành
đội tiên phong duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã ghi rõ tính chất của Đảng như sau: Đảng phải là: “Một Đảng
Cộng sản, một đường lối chính trị có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong
của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa của C.Mác và Lênin làm gốc” [38, tr.8].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951) và lần thứ III (1960) của

Đảng đã phát triển và cụ thể hoá nội dung cơ bản về tính chất của Đảng phù
hợp với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ kháng
chiến chống chủ nghĩa thực dân xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc nước ta. Đại hội
Đảng II đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và ghi
rõ: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động” [38, tr.9]. Tuy vậy, trong Báo cáo tổng kết, Đại hội khẳng
định: “Thực chất Đảng Lao động Việt Nam vẫn là Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân”, vì: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức..., lấy phê bình và tự phê bình làm
quy luật phát triển” [38, tr.9].
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội III của Đảng đã khẳng định:
“Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác xây dựng Đảng cần phải coi
vấn đề tăng cường tính chất giai cấp và tính tiền phong của Đảng là một vấn
đề cơ bản” [5, tr.637]. Như vậy, lúc này Đảng ta đã từng bước nhận thức rõ
vai trò của việc tăng cường bản chất GCCN của Đảng, Báo cáo về sửa đổi
Điều lệ Đảng ở Đại hội III của Đảng cũng chỉ rõ: “Lúc này hơn bao giờ hết,


19
chúng ta phải nhận rõ và ra sức phấn đấu để nâng cao hơn nữa tính chất giai
cấp và tính tiền phong của Đảng” [5, tr.669].
Kế tục những tư tưởng ở Đại hội II, Đại hội III, đến Đại hội IV của
Đảng (1976), tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, Đảng ta đã khẳng định tính chất GCCN của Đảng,
đồng thời còn chỉ rõ tính cách mạng và tính khoa học của Đảng. Trong khi
luận bàn về tính chất GCCN, Đảng cũng bàn đến tính tiền phong, tính quần
chúng của Đảng. Văn kiện nhấn mạnh: “Nâng cao tính chất giai cấp công
nhân, kết hợp tính cách mạng và tính khoa học... gắn bó chặt chẽ với quần
chúng để trong bất cứ tình huống nào Đảng cũng có thể làm tròn nhiệm vụ

lịch sử của mình” [6, tr.794-795]. Đại hội cũng khẳng định: “Phấn đấu
không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân của Đảng” [6, tr.773], là
một bài học kinh nghiệm lớn bao trùm xuyên suốt toàn bộ công tác xây dựng
Đảng. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ rõ, Đảng ta có nhiều tính chất, trong đó
tính chất giai cấp, tính chất tiền phong được nhấn mạnh hơn.
Đến Đại hội V (1982), Đảng ta tiếp tục khẳng định, Đảng ta có tính
chất GCCN và tính tiền phong, đồng thời Đại hội còn chỉ rõ bản chất cách
mạng và khoa học của Đảng, tính quần chúng của Đảng. Văn kiện Đại hội
viết: “Tiếp tục nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của
Đảng, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học
một Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt
chẽ với quần chúng” [10, tr.34].
Bên cạnh những mặt ưu điểm trên về việc tăng cường bản chất GCCN
của Đảng thì trước năm 1986 còn biểu hiện nhiều khuyết điểm, như trong Đại
hội III đã chỉ rõ “Từng thời kỳ bên cạnh những ưu điểm chúng ta cũng đã
phạm phải một số khuyết điểm, sai lầm, gây ảnh hưởng không tốt trong một
chừng mực nhất định đến tính chất giai cấp và tính tiền phong của Đảng ta”


20
[5, tr.669]. Biểu hiện của những khuyết điểm về xa rời bản chất GCCN của
Đảng được thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
Trước hết là tư tưởng hoài nghi, lo lắng, kém tin tưởng đang phổ biến
trong nhiều cán bộ, đảng viên. Trước sự diễn biến của tình hình thế giới, trong
nước, một bộ phận nhỏ đã dao động, mất phương hướng, không kiên định vào
con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đại hội V chỉ ra: “Tình trạng sa
sút phẩm chất và giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ phận cán bộ phụ trách
ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận đảng viên đang gây
tác hại lớn” [10, tr.25].
Tình trạng tự do chủ nghĩa, vô kỷ luật trong Đảng cũng tương đối phổ

biến. Đại hội V chỉ ra tình trạng này: “Những năm gần đây nguyên tắc tập trung
dân chủ ở nhiều nơi không được chấp hành triệt để. Tình trạng vô tổ chức, vô kỷ
luật, cục bộ địa phương với mức độ khác nhau phát triển phổ biến” [10, tr.25].
Tình trạng tự do, vô kỷ luật thể hiện rõ trong việc thực hiện không nghiêm chỉnh
chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, một biểu hiện nữa là phát ngôn, tình trạng đó làm
cho tư tưởng trong Đảng thiếu nhất trí và tự do để lộ ra ngoài nữa
Tình hình chuyên quyền, độc đoán, thiếu dân chủ trong Đảng cũng khá
phổ biến. Đây cũng là biểu hiện của việc buông lỏng bản chất GCCN của
Đảng. Điều này thể hiện ở việc nhiều cán bộ, đảng viên khi có chức, có quyền
trong tay, lại thêm tư tưởng phong kiến còn rơi rớt lại, có những đồng chí chủ
chốt ở các cấp, các ngành rất chuyên quyền, độc đoán, thể hiện rõ nhất trong
thái độ tác phong làm việc. Biểu hiện của vấn đề này là ít lắng nghe ý kiến của
quần chúng, đảng viên. Do làm việc thiếu phát huy dân chủ cho nên nhiều khi
ra những quyết định thiếu chính xác, thậm chí sai, cũng vì chuyên quyền, độc
đoán gây nên sinh hoạt không lành mạnh trong Đảng gây mất đoàn kết nội bộ,
chia rẽ bè phái, cục bộ. Tình trạng chuyên quyền, độc đoán nhiều khi làm cho
chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội phát triển trong Đảng. Tình trạng trên


21
được Đại hội V đánh giá: “Tình hình mất dân chủ, thiếu tự phê bình từ trên
xuống và phê bình từ dưới lên..., những hiện tượng gia trưởng, độc đoán, thành
kiến với cán bộ, trù dập cán bộ, đảng viên và quần chúng tốt dám phê bình
khuyết điểm cũng không kém phần nghiêm trọng” [10, tr.25].
Ngoài ra tình trạng quan liêu, xa thực tế, xa quần chúng cũng diễn ra
khá nghiêm trọng, nó có nguồn gốc từ chủ nghĩa chủ quan. Lênin từng khẳng
định: “Nếu có gì làm cho chúng ta thất bại thì chính là điều đó” tức là chủ
nghĩa quan liêu. Vì mắc bệnh chủ nghĩa quan liêu mà giải quyết công việc
không phù hợp với yêu cầu của tình hình thực tế, không phù hợp với yêu cầu
của quần chúng, của thực tiễn, do đó mà thất bại. Đây là khuyết điểm của

cách làm việc bàn giấy, xa thực tế, không nắm vững thực tế, không kịp thời
nắm bắt những thay đổi của thực tiễn.
Một biểu hiện nữa của việc buông lỏng bản chất GCCN của Đảng là
tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất nghiêm trọng.
Tình hình đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tư cách phẩm chất đạo đức của người
cán bộ cách mạng, làm cho uy tín của Đảng trước nhân dân bị giảm sút
nghiêm trọng. Đại hội V đã chỉ rõ: “Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt
quan liêu hoá trong tác phong, đã đi đến chỗ biến chất trong lối sống, thoái
hoá về chính trị. Đến nay số này vẫn chưa được lọc hết” [10, tr.25].
Sở dĩ có các hạn chế khuyết điểm trên là do nhiều nguyên nhân, trong
đó chủ yếu từ nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
Về nguyên nhân khách quan:
Do Đảng lãnh đạo cách mạng trong tình hình đất nước gặp rất nhiều
khó khăn: Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa lãnh đạo xây dựng CNXH ở
miền Bắc, vừa lãnh đạo tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Sau khi hai miền được giải phóng thì lại bắt tay vào xây dựng
CNXH. Do nhiều nhiệm vụ nặng nề như thế nên có lúc, có thời điểm, thời kỳ,


22
Đảng còn chưa quan tâm đến công tác xây dựng Đảng và rèn luyện đội ngũ
đảng viên, mà cụ thể ở đây là tăng cường bản chất GCCN của Đảng. Ngoài ra
còn chịu nhiều ảnh hưởng của tình hình quốc tế, sự chống phá của các thế lực
thù địch, sự khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
CNXH ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào thoái trào.
Về nguyên nhân chủ quan:
Nhìn chung, do một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn
luyện về phẩm chất đạo đức. Trong công việc hay thoái thác nhiệm vụ, tác
phong làm việc bảo thủ, xa quần chúng nên chất lượng hiệu quả công việc thấp,
không phát huy được hết những phẩm chất hiện có. Hơn nửa trong quá trình

lãnh đạo qua các giai đoạn cách mạng, Đảng có lúc không kiên quyết đưa ra
khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách, vi phạm kỷ luật, để từ đó
kỷ luật Đảng không được thi hành một cách nghiêm túc nên tính răn đe thấp.
Thực trạng trên đây của việc tăng cường bản chất GCCN của Đảng là
một rào cản lớn trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Để khắc phục
nó, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng để không ngừng giữ vững và tăng cường bản chất GCCN của Đảng
trong điều kiện và tình hình mới.
1.1.3. Công cuộc đổi mới đất nước đặt ra yêu cầu phải tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng
* Những biến động phức tạp của tình hình thế giới tác động đến công
cuộc đổi mới ở Việt Nam
Đến trước năm 1986, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp,
tiềm ẩn những nguy cơ khó lường, trực tiếp tác động đến công cuộc đổi mới ở
Việt Nam. Tuy nguy cơ dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng
những xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ... xảy ở nhiều nơi. Khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định.


23
Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô tiến hành cải tổ đất nước.
Do không xác định được vấn đề có ý nghĩa sống còn, giữ vai trò tiền đề của
cải tổ là phải giữ vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
giữ vững bản chất GCCN của Đảng nên công cuộc cải tổ đã từng bước đi vào
con đường bế tắc, thất bại và cuối cùng là sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết.
Điều tương tự cũng đã xảy ra với các nước XHCN ở Đông Âu, dẫn tới sự sụp
đổ của cả hệ thống XHCN trên thế giới. Cũng trong những năm 80, Trung
Quốc tiến hành cải cách đất nước. Trung Quốc đã nhận thức đúng vai trò của
việc tăng cường bản chất GCCN, giữ vững những nguyên tắc trong sự nghiệp
đổi mới, nắm vững lý luận Mác - Lênin với phương châm: đổi mới mang màu

sắc Trung Quốc. Nhờ những quan điểm đúng đắn, cách thức và phương pháp
làm phù hợp nên tuy giai đoạn đầu có những khó khăn nhất định trên lĩnh vực
chính trị - tư tưởng, song một mặt Trung Quốc đã thi hành hàng loạt những
biện pháp cứng rắn, cần thiết để giữ vững vai trò lãnh đạo độc tôn của ĐCS
Trung Quốc, không ngừng tăng cường bản chất GCCN, mặt khác tiếp tục kiên
trì cải cách, nhờ vậy Trung Quốc đã thành công.
Công cuộc đổi mới đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chịu sự
tác động không nhỏ của tình hình quốc tế. Tuy nhiên Đảng ta luôn xác định:
tăng cường bản chất GCCN của Đảng là “Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối
với Đảng ta lúc này”. Một trong những cơ sở để Đảng xác định điều đó là bắt
nguồn từ việc nghiên cứu, tham khảo bài học cải cách, cải tổ của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước Đông Âu. Bên cạnh đó, quan hệ ngoại giao và việc
phát triển kinh tế đối ngoại của ta với các nước trong phe XHCN, các nước
bạn bè truyền thống đã có nhiều thay đổi. Chúng ta xây dựng CNXH, thực
hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong điều kiện mới, không có sự
viện trợ kinh tế như trước kia, trong khi nền kinh tế của ta chưa đủ khả năng
tự trang trải, thêm vào đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch


24
thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình”, điều đó càng đòi hỏi Đảng ta phải
đặt vấn đề: tăng cường bản chất GCCN của Đảng lên hàng đầu.
* Tình hình tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước
những biến động của thế giới
Quá trình đổi mới đất nước, chúng ta gặp không ít khó khăn trên mọi
lĩnh vực, nguyên nhân chủ yếu là do Đảng, Nhà nước ta đã phạm một số sai
lầm trong hoạch định đường lối và trong quản lý, điều hành đất nước. Tình
trạng suy thoái trong Đảng khá nghiêm trọng, điều đó đã đặt ra yêu cầu với
chúng ta là: phải nhanh chóng và luôn luôn tăng cường bản chất GCCN của
Đảng.

Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, kẻ thù càng ráo riết đẩy
mạnh hơn những âm mưu, hành động chống phá nhằm xoá bỏ hoàn toàn
CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam là một trọng điểm chống phá của
chúng. Chúng dùng nhiều thủ đoạn nham hiểm để chống phá ta về mọi mặt,
trong đó tập trung chống phá trên mặt trận chính trị - tư tưởng để xoá bỏ sự
lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, làm mất đi bản chất GCCN của Đảng.
Như vậy trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, trước những khó khăn
lớn ở trong nước, những biến động phức tạp của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng ta vẫn luôn kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu ĐLDT và
CNXH, kiên trì đổi mới, tiếp tục năng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Bản
chất GCCN của Đảng không ngừng được phát huy và tăng cường trong điều kiện
mới. Nhờ vậy Đảng ta vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, đề ra những chủ trương,
đường lối đúng đắn, tạo nên những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đất
nước.
Tuy nhiên, đứng trước tình hình CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, chủ
nghĩa đế quốc tạm thời có những lợi thế nhất định, tình hình đó đã đưa tới những


25
ảnh hưởng tiêu cực đối với Đảng ta. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
hoang mang, dao động về tư tưởng, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và
thắng lợi cuối cùng của CNXH. Một số có biểu hiện hoài nghi về chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của
đất nước. Ở nhiều nơi, quan hệ giữa Đảng và nhân dân bị xói mòn. Không ít tổ
chức Đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm tròn vai trò hạt nhân chính trị và
nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ
cơ sở. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt ở
các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực, thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước.

Như vậy, tình hình quốc tế, trong nước và trong Đảng đã và đang đặt ra
những thách thức to lớn, tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến việc tăng cường bản
chất GCCN của Đảng trong những năm tới. Nếu không tăng cường được bản
chất GCCN của Đảng lúc này, Đảng ta sẽ đánh mất tất cả những thành quả cách
mạng đã giành được và việc đi trên “vết xe đổ” của Liên Xô và các nước CNXH
ở Đông Âu là không thể tránh khỏi.
1.2. Chủ trương và chỉ đạo nhằm tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Đảng từ năm 1986 đến năm 1996
1.2.1. Chủ trương tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
từ năm 1986 đến năm 1996
Từ năm 1986 đến năm 1996, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường bản chất GCCN của Đảng. Tại Đại
hội VI, Đảng ta đã ra các chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường bản chất
GCCN của Đảng. Đảng đã khẳng định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
được bắt đầu từ sự đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam.


26
Đảng ta xác định phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới
và từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ mới, Đảng
đã kịp thời đề ra các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới để tăng cường bản chất GCCN của Đảng.
Đầu tiên là Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 12/09/1987, Về cuộc vận động làm
trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm
lành mạnh các quan hệ xã hội. Tiếp đến là NQTƯ 5 khoá VI (6/1988) Về một số
vấn đề xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng, trong

đó nhấn mạnh những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng cần phải tiến hành là:
phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, đổi mới tư duy, đổi
mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác mở rộng dân chủ đi đôi với tăng
cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với GCCN và
NDLĐ.
Đây là Nghị quyết quan trọng đã định hướng kịp thời công tác xây dựng
Đảng trong những năm đầu đổi mới, góp phần tăng cường bản chất GCCN của
Đảng. Nhờ đó, đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta ủng hộ sự nghiệp
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và ra sức phấn đấu đưa các chính sách đổi mới
vào cuộc sống. Vui mừng trước những thành tích đã đạt được lòng tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước được nâng lên. Và cũng
từ sau Đại hội VI của Đảng đến cuối những năm 80, với tinh thần đổi mới, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cụ thể hoá một số vấn
đề mà Đại hội VI nêu ra, quyết định một số chủ trương, chính sách về kinh tế xã hội, văn hoá - văn nghệ, báo chí, an ninh - quốc phòng, đối ngoại... mở ra
những hướng đi mới. Đã bước đầu khơi dậy được không khí dân chủ thẳng thắn
tự phê bình và phê bình trong Đảng và trong xã hội.


×