Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đổi mới phương pháp giảng dạy ca dao nhằm gây hứng thú học tập bộ môn Ngữ Văn cho học sinh lớp 7 các trường THCS trong Cụm chuyên môn số 4 ở huyện Nga Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 23 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ca dao, dân ca là “ tiếng hát từ trái tim lên miệng”. Thơ ca trữ tình dân gian
phát triển và tồn tại để đáp ứng những nhu cầu bộc lộ tình cảm, cảm xúc của
nhân dân. Nó đã, đang và sẽ ngân vang mãi trong tâm hồn con người Việt Nam.
“ Và nay mai, đến khi chủ nghĩa cộng sản thành công, thì câu ca dao Việt nam
vẫn rung động lòng người Việt Nam hơn hết”. (Lê Duẩn)
Trong “Bình luận văn chương”, nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1998, nhà
phê bình văn học Hoài Thanh viết: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống
muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống.
[…] văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm
ta sẵn có: cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở
nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”.
Trong “Tiếng nói của Văn nghệ” - tuyển tập III - Nhà xuất bản văn học Hà
nội 1997, Nguyễn Đình Thi cũng viết: “ Tác phẩm nghệ thuật vừa là kết tinh
của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà
nghệ sĩ mang trong lòng. […] Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường
đi. Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta phải tự bước lên
đường ấy. Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự
sống cho tâm hồn con người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm
cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai
mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn”.
Xuất phát từ giá trị vô cùng to lớn của tác phẩm văn chương nói chung và
những bài ca dao nói riêng, người giáo viên dạy Ngữ văn qua mỗi giờ dạy ca
dao, cần chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm rèn và bồi dưỡng
cho học sinh những phẩm chất và năng lực nhất định. Mỗi bài ca dao hay, được
cảm nhận đúng đắn, tích cực sẽ góp phần rất lớn vào việc hình thành và phát
triển nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, khơi gợi những tình cảm tốt đẹp như tình
cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, biết đồng cảm với những cảnh đời,
số phận éo le… Từ đó nhằm phát huy thiên chức kỳ diệu của Văn học là khơi
gợi trong tâm hồn người học những cảm xúc mới mẻ, những tìn cảm đẹp đẽ, về
tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước, thắp lên trong tâm hồn các em


những ước mơ cao đẹp, rèn luyện và hun đúc ý chí quyết tâm “Học để ngày mai
lập nghiệp làm giàu đẹp quê hương…”. Hay nói cách khác, từ mỗi giờ học ca
dao, học sinh biết cảm nhận cái hay, cái đẹp từ mỗi bài ca dao, biết tự làm giàu
có vẻ đẹp tâm hồn và có khả năng vận dụng vào đời sống một cách có hiệu quả
nhất.
Ngày nay, đất nước ta đang trên con đường phát triển trở thành một nước
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trước nhịp điệu khẩn trương hối hả đến chóng
mặt của cuộc sống hiện đại với biết bao thành tựu khoa học kỹ thuật, những sản
phẩm điện tử tân tiến nhất...vv, trong các nhà trường, việc bồi dưỡng tâm hồn
nhân cách, lối sống cho con người lại càng là thiên chức kỳ diệu của Văn học và
cũng là trách nhiệm vô cùng quan trọng của người giáo viên Ngữ văn.
Việc đổi mới phương pháp dạy học, rèn luyện và bồi dưỡng cho học sinh
1


năng lực cảm thụ, bình giá một bài ca dao nói riêng, rộng ra là năng lực cảm thụ
một tác phẩm Văn học nói chung nhằm gây hứng thú học tập bộ môn Ngữ Văn
trong nhà trường là một việc làm cần thiết.
Trong thời gian qua, là một Phó Hiệu trưởng, được phân công nhiệm vụ làm
Tổ trưởng bộ môn Ngữ Văn của Cụm Chuyên môn số 3 thuộc địa bàn huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (Gồm 4 nhà trường: THCS Nga Trường, THCS Nga
Thiện, THCS Nga Giáp, THCS Nga Vịnh), tôi luôn luôn trăn trở tìm tòi và quan
tâm tới việc tự học tự bồi dưỡng cho bản thân đồng thời giúp đỡ các bạn đồng
nghiệp trong tổ Ngữ Văn của Cụm chuyên môn trong đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm gây nhiều hứng thú học tập bộ môn và từ đó nâng cao chất
lượng bộ môn ở các nhà trường thuộc cụm chuyên môn của mình. Vì vậy, trong
phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm lần này, tôi xin mạnh dạn trình bày về: “Đổi
mới phương pháp giảng dạy ca dao nhằm gây hứng thú học tập bộ môn
Ngữ Văn cho học sinh lớp 7 các trường THCS trong Cụm chuyên môn số 4
ở huyện Nga Sơn”. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm này đã được đưa vào vận

dụng giảng dạy trong tổ Ngữ Văn thuộc Cụm chuyên môn và đã mang lại những
hiệu quả nhất định.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Các khái niệm và giải thích khái niệm
1.1. Khái niệm “Ca dao”
Ca dao, dân ca là những khái niệm tương đương, chỉ các thể loại trữ tình
dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
Hiện nay, người ta phân biệt hai khái niệm “dân ca” và “ca dao”. “Dân ca”
là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, tức là những câu hát dân gian trong diễn
xướng. Ca dao là lời thơ của dân ca. Khái niệm “ca dao” còn được dùng để chỉ
một thẻ thơ dân gian – thể ca dao.
1.2. Khái niệm "Bình giảng ca dao"
Trong phân tích một bài ca dao, một việc làm không thể thiếu đó là bình
giảng ca dao. Bình ở đây có nghĩa là bình luận, nhận xét, đánh giá. Bình có thể
khen hay chê hoặc vừa khen vừa chê. Trong khi bình, không nên nặng về khen,
khen quá lời, mòn sáo, kém hiệu quả. Cái hay của tác phẩm không chỉ được
nhận xét đấnh giá mà còn được thể hiện trong cách đọc diễn cảm tác phẩm.
Vậy khái niệm bình giảng ca dao bao hàm cả việc phê bình nhận xét và
việc đọc tác phẩm một cách trực tiếp, sinh động, có nghệ thuật.
1.3. Khái niệm “ Thi pháp văn học” và “Thi pháp ca dao”
Một bài ca dao là một tác phẩm văn học. Bởi vậy, khi phân tích, bình giảng
một bài ca dao, cần nắm vững đặc điểm về thi pháp văn học. Thi pháp văn học
là tổ hợp những đặc tính thẩm mỹ - nghệ thuật và phong cách của một hiện
tượng văn học, là cấu trúc bên trong của nó, là hệ thống đặc trưng của các thành
tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng. ((Nguyễn Xuân Kính - Viện Văn hóa
dân gian, Thi pháp ca dao, trang 25, NXB Khoa học xã hội, 1992).
Thi pháp ca dao là một khái niệm thuộc phạm trù về thi pháp văn học dân
2



gian. Thi pháp văn học dân gian cần được phân biệt với thi pháp văn học viết.
Bên cạnh những điểm gặp nhau giữa thi pháp văn học dân gian với thi pháp văn
học viết, giữa thi pháp văn học dân gian và thi pháp văn học viết có những điểm
khác biệt như: Trong văn học viết không có cách thức thể hiện và biểu hiện
riêng của nghệ nhân đối với bản kể (Truyện dân gian), đối với lời ca ( ca dao,
dân ca). Ở văn học dân gian, những mối quan hệ sau đây là có thực, tạo nên sự
khác biệt giữa thi pháp văn học dân gian và thi pháp văn học viết: Mối quan hệ
giữa nghệ nhân (Người kể, người diễn xướng) với văn bản tác phẩm; mối quan
hệ giữa thưởng thức (người nghe, người xem) với nghệ nhân và văn bản, tác
phẩm. (Nguyễn Xuân Kính - Viện Văn hóa dân gian, Thi pháp ca dao, trang 28,
NXB Khoa học xã hội, 1992).
2. Các cơ sở hướng dẫn.
a. Tài liệu hướng dẫn “Bình giảng ca dao” (Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên của
Bộ Giáo dục & Đào tạo).
b. Tài liệu hội thảo “Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn ở trường
Trung học cơ sở” (Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên của Bộ Giáo dục & Đào tạo).
c. Tài liệu “Thi pháp ca dao” (Nguyễn Xuân Kính - Viện Văn hóa dân gian, Thi
pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, 1992)
d. Sách giáo khoa, Sách giáo viên Ngữ văn lớp 7 – NXBGD.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng
Là một Phó Hiệu trưởng nhà trường THCS, trong nhiều năm chỉ đạo chuyên
môn, qua tìm hiểu thực trạng các nhà trường THCS nói chung và các trường
THCS trong cụm chuyên môn mà tôi được trực tiếp tham gia nói riêng (Gồm 4
nhà trường THCS: Nga Trường, Nga Thiện, Nga Vịnh, Nga Giáp) ở huyện Nga
Sơn, tôi thấy nhiều giáo viên có năng lực, giàu kinh nghiệm, vận dụng tốt việc
đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ Văn nói chung và dạy ca dao nói
riêng. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên còn lúng túng khi
dạy phần ca dao. Tôi xin nêu ra một số nhược điểm như sau:

1.1.Tình trạng diễn nôm ca dao. Người dạy chỉ nói lại, kể lại nội dung trực
tiếp của những câu ca dao bằng lời lẽ thông thường có tính chất nôm na.
Cách làm này làm cho người học không hào hứng. Nguyên nhân của cách
làm này là do giáo viên đánh giá thấp trình độ học sinh, cũng có khi do quan
niệm sai về sự giản dị dễ hiểu của ca dao. Cũng có khi do khả năng hạn chế hoặc
thiếu đi sâu nghiên cứu ca dao. Cách làm này đã dung tục hóa công việc giảng
dạy ca dao.
1.2 Tình trạng làm phức tạp hóa sự giản dị dễ hiểu của ca dao, lôi cuốn học
sinh bằng những lời lẽ văn hoa, bóng bảy, dùng nhiều khái niệm thuật ngữ
chuyên môn của nghiên cưú và giảng dạy văn học. Cách làm này thường làm
cho người học và người dạy cảm thấy giờ học như là hấp dẫn, sinh động, có
nhiều màu sắc văn chương nhưng xét về lợi ích thực tế của việc giảng dạy ca
dao thì cũng không hơn gì cách thứ nhất vì không đem lại cho học sinh những
cảm xúc mới mẻ về những bài ca dao mà họ được học.
3


1.3 Tình trạng lấy bài ca dao đang dạy làm điểm xuất phát để từ đó liên hệ, liên
tưởng dẫn dắt học sinh tới những câu thơ, tứ thơ trong những tác phẩm văn học
khác theo sở trường và cảm hứng tự do của người giảng.
Cách làm này thường cuốn hút cả thầy lẫn trò đi vào giờ học một cách say
sưa, nhiều khi quên cả giờ giấc. Nhưng sự say sưa đó không phải là kết quả bình
giảng những câu ca dao gây nên mà chủ yếu là do sự trích dẫn liên hệ văn thơ ở
ngoài bài ca dao mang lại. Người dạy đã biến bài ca dao thành nguyên cớ hợp
pháp để liên tưởng liên hệ tất cả những gì mình thích một cách tùy tiện thiếu
nguyên tắc.
2. Kết quả của thực trạng
Từ thực trạng vừa trình bày ở trên, bên cạnh những kết quả to lớn về chất
lượng dạy học môn Ngữ văn của thầy và trò nói chung như những số liệu về số
học sinh giỏi các cấp, số học sinh đang trưởng thành từ các nhà trường và đang

phát huy tài năng sang tạo ở khắp nơi trên đất nước… thì cũng còn một vài con
số đáng trăn trở như sau:
Qua kết quả năm học 2013-2014 ở 4 nhà trường trong Cụm Chuyên môn của
Huyện Nga Sơn (Gồm 4 trường THCS: Nga Trường, Nga Thiện, Nga Vịnh, Nga
Giáp), tôi đã khảo sát bộ môn Ngữ Văn ở mỗi nhà trường 10 học sinh lớp7 .
Danh sách học sinh dự khảo sát đã được lập một cách ngẫu nhiên, kết quả cho
thấy:
Bảng 1:
Tổng số
Số học sinh
Số học sinh
học sinh
không yêu
yêu thích học
được
thích học tập
tập bộ môn
Năm học
HS lớp khảo sát
Ghi chú
bộ môn Ngữ
Ngữ Văn
ở 4 nhà
Văn
trường
SL
%
SL
%
thuộc

2013-2014
7
40
15
37.5
25
62.5
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Ở các nhà trường THCS trong cụm chuyên
môn mà tôi trực tiếp tham gia sinh hoạt ở huyện Nga Sơn, số học sinh yêu thích
học ca dao và biết một số kĩ năng cơ bản để phân tích một bài ca dao còn quá ít.
Nói rộng ra là số học sinh yêu thích học tập bộ môn Ngữ Văn ở các nhà trường
trong cụm chuyên môn còn quá ít. Thực trạng ấy đòi hỏi người giáo viên phải
trăn trở tìm tòi đổi mới phương pháp, nhằm lôi cuốn các em tham gia học tập
bằng niềm hứng thú nhất định thì mới đáp ứng được yêu cầu học tập bộ môn.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các giải pháp thực hiện
1.1. Đối với giáo viên:
Trong những lần sinh hoạt Cụm chuyên môn trong hai năm học 2013 –
2014 và năm học 2014 - 2015, với vai trò trách nhiệm của một Phó hiệu trưởng,
được phân công là tổ trưởng tổ chuyên môn bộ môn Ngữ Văn, tôi luôn luôn phối
kết hợp các hoạt động để thực hiện nội dung sáng kiến kinh nghiệm này.
4


Cụ thể là thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cụm, tôi thường dành
một lượng thời gian để trao đổi với các đồng chí giáo viên bộ môn Ngữ Văn
trong cụm. Tôi đã nêu vấn đề này ra để cùng với các đồng chí giáo viên bộ môn
cùng nghiên cứu và bàn bạc nhằm đi đến thống nhất những giải pháp và phương
pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng mỗi giờ học Ngữ Văn nói chung và giờ
học Ca dao trong chương trình Ngữ Văn 7 nói riêng.

Qua lắng nghe ý kiến trao đổi và những tâm tư của các bạn đồng nghiệp
trong tổ Ngữ Văn ở cụm chuyên môn, tôi đã nắm bắt những ưu nhược điểm của
mỗi đồng chí giáo viên, ghi chép tập hợp số liệu về những kết quả đạt được và
những khó khăn vướng mắc, những hạn chế thiếu sót trong quá trình dạy ca dao
của từng đồng chí trong các nhà trường thuộc cụm chuyên môn trong đó có nhà
trường THCS Nga Trường là nơi tôi đang công tác. Từ đó, tôi đã giúp các đồng
chí giáo viên tự học tự bồi dưỡng để mỗi đồng chí nhận thức sâu sắc về ý nghĩa,
vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm gây hứng thú
học tập cho học sinh đối với bộ môn Ngữ Văn nhằm nâng cao chất lượng dạy
học ở các nhà trường trong cụm chuyên môn tôi được phân công làm tổ trưởng.
Đồng thời, tôi cũng đã giúp các đồng chí giáo viên nắm vững hơn về phương
pháp giảng dạy ca dao. Cụ thể bao gồm những nội dung sau:
a. Người giáo viên cần giúp học sinh phân biệt việc bình và phân tích ca dao
Đó là hai công việc gần nhau nhưng khác nhau rõ rệt. Chúng có thể được
làm độc lập riêng rẽ, cũng có thể kết hợp vừa bình vừa phân tích. Khi bình ca
dao thì người bình có quyền trình bày sự cảm thụ, thưởng thức, đánh giá tác
phẩm ca dao một cách tự do, mang tính chủ quan, nói lên những suy nghĩ tình
cảm của mình mang tính cá nhân. Còn khi phân tích, thì phải chỉ ra những nội
dung ý nghĩa của bài ca dao một cách khoa học và khách quan, phải vận dụng tri
thức khoa học và các nguồn tri thức khác có quan hệ với tác phẩm để phân tích
lí giải tác phẩm giúp người nghe hiểu đúng hiểu sâu tác phẩm. Nếu chỉ phân tích
đơn thuần thì sẽ khô khan, thiếu sinh động, khiến người nghe kém hứng thú, tiếp
thu thụ động, khó có điều kiện nhận thức và cảm thụ nhiều mặt của tác phẩm. Vì
vậy khi phân tích một bài ca dao, học sinh cần biết cách bình giảng thêm để bài
làm thêm sâu sắc.
Cũng cần giúp học sinh phân biệt bình giảng với bình chú. Chú có nghĩa là
giải thích thêm, nói thêm cho rõ. Khi bình chú một đoạn văn, một bài thơ, hay
một bài ca dao, nếu lạm dụng bình chú thì sẽ rơi vào sự tùy tiện, giải thích qua
loa, có khi đi lạc hướng, hiểu sai tác phẩm.
b. Người giáo viên cần giúp học sinh hiểu được vai trò, vị trí của bình

giảng trong quá trình phân tích một bài ca dao.
Thông qua kỹ năng phân tích một cách khoa học, làm cho người nghe,
người đọc hiểu đúng, hiểu rõ và hiểu sâu tác phẩm. Trên cơ sở hiểu đúng, sẽ
bình xét một cách tinh tế nghệ thuật làm cho người nghe, người đọc cảm thụ
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Từ đó, học sinh có thể tự giáo dục, bồi
dưỡng tư tưởng tình cảm, tâm hồn cho bản thân.

5


c. Người giáo viên cần rèn luyện cho học sinh nắm được những yêu cầu
cụ thể khi bình và phân tích ca dao.
c.1. Cần tuyển chọn được những bài ca dao hay để bình và phân tích.
Một bài ca dao được chọn để bình giảng phải có ít nhất những điều kiện sau:
- Thứ nhất, phải là một bài ca dao hay, có giá trị thực sự về nội dung, nghệ
thuật, đồng thời phải là bài ca dao có vấn đề, có điểm sáng nghệ thuật đáng để
bình.
- Thứ hai, phải phù hợp với sở trường và khả năng của người học.
- Thứ ba, phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của nguòi đọc, người nghe.
c.2. Người giáo viên cần giúp học sinh hiểu được cái chung và cái riêng
trong ca dao.
Không nên nghĩ rằng văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng là
sáng
tác tập thể, không phải là sản phẩm của cá nhân gắn liền với cá tính sáng tạo, do
đó cũng không có cá tính, không có cái riêng.
Cái riêng của ca dao là cái riêng về đời sống vật chất, tinh thần, phong tục
tập quán, ngôn ngữ của nhân dân trong từng địa phương, từng thời kỳ lịch sử,
từng cộng đồng xã hội cụ thể. Nếu học ca dao mà coi nhẹ hoặc phủ nhận cái
riêng thì không thể lý giải được cái hay cái đẹp, sự độc đáo của mỗi câu ca dao.
Không nên coi hầu hết những câu, những bài về một đề tài cụ thể ( tỏ tình, thề

nguyền, hận tình, than thân,…) là cùng một mô típ, thé là cứ lấy cách phân tích
bài này để làm mẫu cho bài kia.
Ví dụ:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
“ Thân em như tấm lụa đào
Dám đem xé lẻ vuông nào cho ai!”
“Thân em như tấm cau khô
Kẻ thanh tham mỏng người thô tham dầy.”
“Thân em như giếng giữa đàng
Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân….”
Hoặc
“Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”
“Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên ngồi gốc cây hồng nhặt hoa”
“Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ
“Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng”
“Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa”
c.3. Người giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ ý và tứ, sự và tình trong ca
dao.
6


Ở trong ca dao, ý và tứ là hai yếu tố, hai phạm trù khác nhau nhưng có quan
hệ với nhau rất mật thiết. Một ý chung giống nhau hoặc gần nhau nào đó khi
mỗi người gặp những hoàn cảnh khác nhau thì trở thành những tứ khác nhau.

Chính vì vậy mà trong ca dao có hiện tượng cùng một chủ đề, có hàng trăm
bài dài ngắn khác nhau, mỗi bài có một tứ riêng độc đáo.
Người sáng tác ca dao biến ý thành tứ, còn người phân tích, bình giảng ca
dao cần dựa vào tứ mà tìm ra ý. Khi đã hiểu rõ được chủ ý của tác phẩm, mới có
điều kiện và cơ sở chắc chắn để bình luận khen chê bài ca dao đó một cách chắc
chắn, kĩ càng, chính xác và tinh tế.
Trong ca dao còn có mối quan hệ giữa sự và tình. Ca dao là sản phẩm của
suy tư, cảm xúc, là tiếng nói của tâm hồn tình cảm. Trong ca dao, sự tình thường
đi đôi vói nhau, nương tựa vao nhau để tồn tại và phát triển. Sự có thể có thật
hay hư cấu, là phương tiện, là nguyên cớ để tác giả thể hiện tình cảm mà thôi.
Có thể coi sự là xác, tình là hồn của ca dao. Khi nào ý chuyển thành tình, tình
gắn với sự thì tứ mới nảy sinh và phát triển. Sự càng bất ngờ thì tứ càng độc đáo,
ý càng sâu sắc.
c.4. Người giáo viên cần giúp học sinh chú ý mối quan hệ giữa lời và ý, chữ
và nghĩa trong ca dao.
Ngôn ngữ trong ca dao là ngôn ngữ thông thường của quần chúng nhân dân
nhưng đã được sử dụng theo phương thức trữ tình của thơ ca. Muốn hiểu đúng,
hiẻu rõ, hiểu sâu sắc thấu đáo một bài ca dao cần bám vào từ ngữ của nó, thông
qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự tình ở trong đó.
Cái hay cái đẹp của ca dao được thể hiện ở nhiều yếu tố, nhiều phương diện
khác nhau, nhưng tất cả mọi yếu tố, mọi phương diẹn khác nhau ấy đều quan hệ
với từ ngữ. Cho nên từ ngữ trong ca dao có vai trò đặc biệt quan trọng. “Lời thơ
dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình cảm của
đồng bào xưa mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những cách nói năng tài tình
chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà thiếu những kiến thức này
thì có thể xem như là thiếu một trong những điều cơ bản.
c.5. Người giáo viên cần giúp học sinh nắm vững những yếu tố ngoài văn
bản và thi pháp ca dao.
Một bài ca dao có thể cho phép hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Hiện tượng nhiều nghĩa nằm ngay trong văn bản, ngay trong thành phần

ngôn từ. Chính các nghĩa đó của văn bản đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau,
tùy theo sự cảm thụ và vốn sống thực tế của người đọc, một ý nghĩa sẽ được lựa
chọn.
c.6. Người giáo viên cần giúp học sinh có những hiểu biết sâu sắc về thể thơ
trong ca dao.
* Thể thơ lục bát: Đại đa số ca dao được sáng tác theo thể thơ lục bát, vì nó
có nhịp điệu uyển chuyển linh hoạt vô cùng. Ngoài ra,với sự không gò bó,
không bị hạn chế về độ dài ngắn của tác phẩm, thể lục bát rất có sở trường trong
việc diễn tả cấc cảm xúc rất phong phú, thể hiện các nội dung hết sức đa dạng
của hiện thực.
7


* Thể song thất lục bát: Bên cạnh nhịp điệu uyển chuyển của những cặp lục
bát, vần trắc và tiết tấu theo nhịp 3/4 của các cặp song thất có khả năng nhiều
hơn trong việc diễn tả những tình cảm khúc mắc, những nỗi đau khổ uất ức,
những trở ngại, éo le.
VD:
“Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy người đây đường dài”.
“Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Mai trở về mai nhớ trúc không?
Bây giờ kẻ Bắc người đông
Kể sao cho hết tấm lòng tương tư”.
c.7. Người giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ giá trị biếu đạt của yếu tố
thời gian và không gian nghệ thuật.
*Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.
Dấu hiệu này trong một số trường hợp được bộc lộ trực tiếp bằng các từ “ Bây
giờ”, “ Hôm nay”.
VD:

“ Hôm nay ở đất nhà người
Kém ăn là một, kém cười là hai
Mai về ở với nhà tôi
Dù che ngựa cỡi, rong chơi cả ngày”.
Các từ láy chỉ thời gian có tác dụng diễn tả quá trình sự viẹc diễn ra, đồng
thời gợi tả tâm trạng sâu sắc:
VD:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.
“ Đêm đêm vuốt bụng thở dài
Thở ngắn bằng chạch, thở dài bằng lươn”.
“ Ngày ngày ra đứng cổng làng
Bâng khuâng như mất nhẫn vàng trên tay”.
Các công thức miêu tả thời gian: Tính chất công thức, ước lệ là đặc điểm nổi
bật trong việc miêu tả thời gian. Các từ bây giờ, hôm nay, đêm đêm, chiều chiều,
ngày ngày, hôm qua, đêm qua, thường mở đầu lời ca số lượng lớn. Có khi các từ
Đêm khuya, đêm nằm, sáng trăng, ngày ngày cũng được sử dụng nhiều. Các từ
chỉ thời gian đối lập quá khứ với hiện tại không những giúp cho việc thể hiện
tâm trạng mà còn tạo ra sự thay đổi, vận động của thời gian.
Vd:
“ Khi đi trúc chửa mọc măng
Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre”.
* Không gian nghệ thuật : Trong ca dao, không gian động chiếm ưu thế. Bên
cạnh không gian vật lý còn có không gian xã hội. Những lời ca đượm buồn
thường đi liền với không gian xã hội vào ban đêm.
VD:
“ Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ”.
Những không gian tên địa danh cụ thể không có nhiều. Những không gian
phiếm chỉ được sử dụng phổ biến, khi bộc lộ những tâm trạng chung chung.


8


c.8. Người giáo viên cần giúp học sinh hiểu được ý nghĩa một số biểu tượng
trong ca dao.
* Cây trúc, cây mai: Theo quan niệm của các nhà nho, tùng, cúc trúc mai là
những thứ cây tượng trưng cho khí tiết, đức tính cao thượng, phẩm chất trong
sạch của người quân tử. Trúc biểu trưng cho người con gái xinh xắn, trúc mai
tượng trưng cho tình cảm lứa đôi thắm thiết.
VD:
“Hôm qua sum họp trúc mai
Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm”.
Hoa nhài được ví như nụ cười đáng yêu của người con gái, có khi vẻ đẹp
hình thức tâm hồn, có khi hương hoa nhài tượng trưng cho vẻ đẹp cao quý văn
minh.
* Con bống, con cò tượng tưng cho người Việt Nam. Con cò có thể là cả trai
lẫn gái, con bống chỉ người con gái.
* Bông sen : Trở thành ẩn dụ, tượng trưng cho cốt cách thanh cao của con
người, tượng trưng cho một quan điểm sống : “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn”.
* Con Kiến biểu tượng cho cuộc sống quẩn quanh bế tắc không lối thoát,
thân phận bè nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ.
c.9. Người giáo viên cần giúp học sinh nắm vững thủ pháp biểu hiện của ca
dao.
* Thể phú: Chỉ trực tiếp bày tỏ mô tả mà không thông qua so sánh đối chiếu.
VD:
“Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài”.
* Thể tỷ: là lối so sánh ví von là thể được dùng phổ biến trong ca dao.

Có 2 kiểu tỷ: Tỷ trực tiếp ( So sánh), tỷ gián tiếp : (ẩn dụ )
Thể tỷ làm cho ca dao thêm phong phú sâu sắc:
“Thân em như giếng giữa đàng
Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân”..
• Thể hứng Là tình cảm nảy sinh khi có một tác động của ngoại cảnh.
( Đối cảnh sinh tình)
VD:
“Ngó lên mây bạc trời hồng
Thương em hỏi thật có chồng hay chưa?”
c.10 . Người giáo viên cần giúp học sinh nắm vững phương pháp phân tích một
bài ca dao .
Quá trình phân tích một bài ca dao có thể tiến hành các thao tác sau:
- Xác định nhân vật trữ tình của bài ca dao.
- Xác định đối tượng trữ tình của bài ca dao.
- Nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc tâm trạng gì ?
- Nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm ấy bằng cách nào?
- Rút ra chủ đề của bài ca dao.
- Vận dụng những hiểu biết về thi pháp học để phân tích, chủ yếu là khai
thác nghệ thuật. ( Tránh nhược điểm tách nội dung ra khỏi hình thức )
1.2. Đối với học sinh
9


- Học sinh cần có nhiều hứng thú trong học tập. Học sinh trong quá trình
tiếp thu kiến thức không còn cảm thấy nhà chán đơn điệu khi học ca dao như
phương pháp áp đặt như trước kia.
- Học sinh cần tự giác nhiệt tình chủ động tham gia suy nghĩ tìm cách giải
quyết vấn đề một cách triệt để hoàn thiện.
- Mỗi bài ca dao là một tác phẩm văn học. Học sinh được phát huy vai trò
chủ thể sáng tạo của mình trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Các em được

dùng đôi chân của chính mình đi trên con đường riêng độc đáo của mình để đến
với tác phẩm, hiểu những vấn đề nhà đặt ra trong tác phẩm.
2. Tổ chức thực hiện
* Từ những giải pháp nêu trên, tôi đã hướng dẫn giáo viên trong cụm
chuyên môn vận dụng vào giảng dạy. Sau đây tôi xin trình bày cách tổ chức
để lên lớp một giờ dạy ca dao cụ thể trong chương trình ngữ văn lớp 7.
Tiết 13 :
NHỮNG CÂU HÁT THAN THÂN
Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ:
Kiểm tra học thuộc lòng bài ca dao về tình cảm gia đình, phân tích một
bài cụ thể.
Kiểm tra việc làm bài tập và chuẩn bị bài mới của học sinh.
Hoạt động 2: Giới thiệu bài mới:
Ca dao dân ca là tấm gương phản ánh đời sống, tâm hồn nhân dân. Nó
không chỉ là tiếng hát yêu thương nghĩa tình trong các mối quan hệ từng gia
đình, quan hệ con người đối với quê hương đất nước mà còn là tiếng hát than
thở về những cuộc đời, những cảnh ngộ đắng cay.
Những bái ca dao than thân có số lượng lớn và là những bài ca dao rất tiêu
biểu trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Những bài ca dao này, ngoài ý
nghĩa than thân, đồng cảm với nỗi niềm, cuộc đời đau khổ đắng cay của người
nông dân, người phụ nữ, còn có ý nghĩa tố cáo xã hội phong kiến.
Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu các bài ca dao.
(Cho học sinh đọc diễn cảm các bài ca dao, xem các chú thích sách giáo
khoa.)
Trước hết cho học sinh chỉ ra, trong ca dao cổ, cuộc đời, thân phận người
nông dân thời xưa thường được thể hiện qua hình ảnh con cò.
? Vì sao trong ca dao cổ, tác giả dân gian thường mượn hình ảnh con cò để
diễn tả cuộc đơì, thân phận của người nông dân?
Vì trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng, cò là loài gần gũi nhất đối với
người nông dân. Con cò có nhiều đặc điểm giống cuộc đời, phẩm chất người

nông dân: Gắn bó với đồng ruộng, chịu khó, lặn lối kiếm sống...
Bài 2.
“ Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
10


Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.
* Cho học sinh đọc diễn cảm bài ca dao. Chú ý nhấn giọng ở những từ
ngữ có khả năng biểu cảm cao: “thương thay”, “phải nằm nhả tơ”, “phải đi tìm
mồi”, “chim bay mỏi cánh”, “kêu ra máu”...
* Hướng dẫn học sinh xác định nhân vật trữ tình trong bài ca
? Bài ca là lời của ai? Nói với ai?
Là lời người lao động thương cho thân phận của những người khốn khổ và
cũng là chính mình. Là tiếng than đầy thương cảm, xót xa.
* Hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nghệ thuật của bài ca.
? Em hiểu thế nào về cụm từ “ thương thay” và việc lặp lại cụm từ này?
“ Thương thay” là tiếng than thể hiện sự thương xót ở mức độ cao. Điệp ngữ,
lặp lại 4 lần cụm từ này. Mỗi lần diễn tả một nỗi thương, thương thân phận mình
và thương thân phận người cùng cảnh ngộ. Bốn câu ca là bốn nỗi thương khác
nhau đã tô đậm mối thương cảm xót xa cho cuộc đời cay đắng nhiều bề của
người dân thường, có tác dụng kết nối và mở ra sự phát triển tình ý trong bài ca.
Thủ pháp tăng tiến: “nằm nhả tơ”_ “đi tìm mồi”_” “mỏi cánh”_”kêu ra
máu”: Cuộc đời số phận đắng cay tuyệt vọng của người nông dân bị dồn đến
chân tường của sự đau khổ, bế tắc, oan trái.

? Em hãy phân tích ý nghĩa của hệ thống hình ảnh ẩn dụ trong bài ca?
Hệ thống hình ảnh ẩn dụ: Những con vật bé nhỏ tội nghiệp ẩn dụ cho số
kiếp, thân phận khốn khổ của người nông dân. Thương thay cho chúng, tức là
thương chính mình.Những hình ảnh ẩn dụ đều đi kèm với sự miêu tả bổ sung.
Nỗi thương không chung chung mà cụ thể, xúc động.
Ý nghĩa của các hình ảnh ẩn dụ: Thương con tằm: là thương cho thân phận
người suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực. Thương lũ kiến: Thương cho cho nỗi
khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi suốt đời xuôi ngược làm lụng mà vẫn
nghèo khó. Thương con Hạc: là thương cho cuộc đời phiêu bạt lận đận và những
cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ. Thương con quốc: là
thương cho thân phận thấp cổ bé họng, những nỗi khổ đau oan trái không được
lẽ công bằng nào soi tỏ của người lao động. Tất cả đều nói lên nỗi khổ nhiều bề
của nhiều phận người trong xã hội cũ.
* Hướng dẫn học sinh bình giá đôi nét về bài ca.
Học sinh bổ sung thêm những cách hiểu khác của mình về bài ca.
Bài ca dao “Thương thay thân phận con tằm” gồm có 8 câu lục bát. Hai chữ
thương thay được điệp lại 4 lần và đứng ở vị trí đầu câu “luc” đã làm cho giọng
điệu của bài ca đầy xót thương.
“Con tằm” và “lũ kiến” là hai ẩn dụ nói về những thân phận nhỏ bé sống âm
thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay”, thương xót cho những kiếp
người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tý gì! Khác
nào một kiếp tằm, một kiếp kiến!
“ Thương thay thân phận con tằm
11


Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”.
Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”, kiếp kiến “phải đi tìm mồi”, nhưng “kiếm ăn

được mấy”. Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy” cất lên hai lần đã tố cáo và phản
kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, kẻ “ăn không hết,
người lần không ra”.
“Hạc”, “chim”, “con cuốc” là 3 ẩn dụ nói về những thân phận, số phận
nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời”. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn
“lánh đường mây” để thoả chí tự do phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao bay xa,
tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ mỏi cánh mà thôi. Đó là những cuộc đời
phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật
“thương thay”, thật đáng thương!
“ Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”.
Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay” ! Nó đã “kêu ra máu” giữa
trời mà “có người nào nghe”, nào có được cảm thông, san sẻ. “Con cuốc” trong
văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động
không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu, máu càng chảy, càng đau khổ
tuyệt vọng:
“Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.
Ngoài cách sử dụng điệp ngữ và ẩn dụ, những câu hát than thân này còn
được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào
thôi”, “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc,
mạnh mẽ.
* Hướng dẫn học sinh bình giá chung về bài ca dao :
Bằng cách phát biểu những suy nghĩ chủ quan của cá nhân về giá trị của bài
ca dao trong xã hội xưa và nay. Học sinh liên hệ với thực tế đời sống của người
nông dân trong xã hội hiện tại. Ngày nay, người nông dân đã hoàn toàn được
“đổi đời”, họ được làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh, làm chủ đất nước.
Những cảnh đời oan trái, đau khổ, nghèo đói không còn nữa, thay vào đó là cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, được bảo vệ quyền sống, được lao động tạo ra những
thành quả to lớn dựng xây đất nước. Họ được học hành, được trang bị đầy đủ

những kiến thức về khoa học, về cuộc sống... Mặc dù vậy, họ vấn giữ được và
phát huy những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống như sự cần cù chịu
khó, chăm chỉ làm ăn, mộc mạc, chất phác, thật thà, nhân hậu...
Từ việc liên hệ so sánh ở trên, giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh những
tình cảm tốt đẹp như tình thương, nỗi cảm thông sâu sắc đối với những số phận
đáng thương của người nông dân trong xã hội cũ, sự trân trọng đối với người
nông dân trong xã hội hiện đại và lòng biết ơn đối với Đảng, Bác Hồ đã mang
lại cuộc sống mới tươi đẹp cho con người nói chung và người nông dân nói
riêng.
12


Bài 3
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”
* Cho học sinh đọc diễn cảm bài ca dao. Chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ có
khả năng gợi hình ảnh và cảm xúc như: “trái bần trôi”, “gió dập sóng dồi”, “biết
tấp vào đâu”.
* Cho học sinh đọc các bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “ thân em”và xác
định nét nghĩa giống nhau giữa các bài ca ấy. Những bài ca dao này đều chỉ
thân phận, nỗi khổ đau của người phụ nữ trong xã hội cũ, số phận bị phụ thuộc.
Đều chỉ thân phận tội nghiệp đắng cay gợi sự đồng cảm sâu sắc. Đều dùng hình
ảnh so sánh để miêu tả.
* Hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nghệ thuật của bài ca.
? Cách dùng hình ảnh so sánh của tác giả dân gian có gì đặc biệt?
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ được thể hiện trong bài ca dao được
so sánh với “trái bần trôi”. Tên gọi ấy cũng đã dễ gợi sự liên tưởng đến thân
phận nghèo khó. (Trong dân ca Nam Bộ, các hình ảnh cây, trái bần, mù u, sầu
riêng thường gợi cuộc đời, thân phận đau khổ, đắng cay.)
Hình ảnh so sánh được miêu tả, bổ sung chi tiết: Trái bần bé mọn bị gió dập

sóng dồi xô đẩy quăng quất trên sông nước mênh mông, không biết tấp vào đâu.
Nó gợi số phận chìm nổi, lênh đênh vô định của người phụ nữ trong chế độ
phong kiến.
? Qua bài ca dao, em hiểu cuộc đời, thân phận người phụ nữ trong chế độ
phong kiến như thế nào?
Bài ca dao diễn tả xúc động chân thực cuộc đời, thân phận nhỏ bé đắng cay
của người phụ nữ xưa. Trong xã hội Phong kiến, người phụ nữ như trái bần nhỏ
bé bị gió dập sóng dồi chịu nhiều đau khổ. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Người phụ nữ không có quyền tự quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn
muốn nhấn chìm họ. Bài ca dao có thẻ ví như tiếng kêu than thân, phản kháng
của những Hồ Xuân Hương bình dân.
* Hướng dẫn học sinh bình giá đôi nét về bài ca.
Từ việc cung cấp vốn sống cho học sinh hiểu biết thêm về biểu tượng “trái
bần trôi”, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của bài ca. Trái bần dẹt, lại
chua và chát, ai ngắm, ai nếm, ai ăn? Một thứ trái chẳng ngọt ngon gì, có thể bị
coi là vô vị và vô dụng. trái bần ấy đã rụng, đã trôi nổi trên dòng sông, bị “gió
dập sóng dồi”, bị va đập, bị tung lên nhấn xuống liên tiếp, dồn đập. Cô gái tự ví
mình, so sánh thân phận mình, số phận mình với “trái bần trôi” là lời tự than
đáng thương. Trước sóng gió cuộc đời “biết tấp vào đâu”, lênh đênh lưu lạc vào
bến bờ nào. Một tương lai mờ mịt. Biết bao lo lắng xót xa...
Tương tự hai bài ca dao trên, cho học sinh chỉ ra giá trị của bài ca dao này
trong xã hội xưa và nay, bằng việc so sánh liên hệ về cuộc đời, số phận người
phụ nữ trong hai thời đại xã hội khác nhau. Ở xã hội phong kiến, người phụ nữ
bị tước đoạt quyền sống, bị coi rẻ, họ không được quyết định cuộc đời mình.
Trong ca dao xưa và trong văn học trung đại đã cất lên những tiếng kêu thương
13


ai oán về muôn nghìn nỗi khổ của họ trong những cảnh đời đen tối, bế tắc và
tuyệt vọng. Người phụ nữ trong thời đại ngày nay được sống một cuộc đời mới

tràn đầy ánh sáng của tình yêu thương và niềm hạnh phúc. Người phụ nữ hôm
nay được học hành, được lao đông và làm việc, được làm chủ. Kế thừa và phát
huy những phẩm chất tốt đẹp, những vẻ đẹp tâm hồn từ xa xưa, họ càng được
khẳng định vị thế và thiên chức của mình.
* Giúp học sinh hiểu được sức sống bất diệt của những bài ca dao nói
chung, trong đó có những bài ca dao về chủ đề than thân.
Mặc dù ra đời từ rất lâu, ngày nay, đã có nhiều điều thay đổi, thay đổi về
chế độ xã hội, thay đổi về hoàn cảnh sống, và có thể nhiều người còn thay đổi về
cách nghĩ cách hiểu, nhưng những bài ca dao cổ nói chung và những câu hát
than thân vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Đây là mảng nội dung chiếm số lượng
lớn trong ca dao dân ca Việt Nam vì thông qua những sáng tác văn học này,
người lao động xưa không chỉ cất lên tiếng hát yêu thương, ân tình, ân nghĩa mà
còn gửi gắm vào đó những lời than thở cho thân phận của chính mình. Nhân vật
trữ tình, chủ thể của các lời ca than thân ấy thường là người nông dân, người
phụ nữ, người đi ở... Lời than thân cũng đa dạng, phong phú: than cho nỗi cay
cực vì nghèo khổ, đói rách, than cho kiếp người ở đợ, làm thuê đau đớn tủi nhục,
than cho những thiệt thòi bất hạnh rủi ro trong cuộc đời. Đó là những lời than
đẫm nước mắt, vút lên từ những số phận đắng cay luôn gặp nhiều khó khăn trắc
trở, bị chà đạp vùi dập xuống tận đáy cùng của xã hội. Có những lúc người lao
động tưởng chừng như hoàn toàn tuyệt vọng trước số phận. Thực ra, họ là những
con người sống rất lạc quan yêu đời. Vậy mà xã hội đã buộc họ phải cát lên
những lời than đau đớn, tủi nhục, xót xa, chua chát. Đằng sau lời than ấy là ý
nghĩa tố cáo, phê phán xã hội phong kiến bất công vô lý.
Có học những bài ca dao ấy, chúng ta mới hiểu một cách thấm thía rằng
ngày xưa, nhân dân ta đã phải sống như thế nào, mới càng trân trọng nâng niu
cuộc sống tốt đẹp mà chúng ta đang được sống, và cũng từ đó, ta càng biết ơn
những người đã và đang mang lại cho chúng ta cuộc đời mới tươi đẹp hôm nay.
Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tổng kết, rút ra ghi nhớ.
Hoạt động 5: Hướng dẫn học sinh luyện tập.
Hoạt động 6: Hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà.

Cuối giờ học, giáo viên ra đề cho học sinh về nhà làm bài.
* Sau đây tôi xin nêu một bài làm cụ thể của em Lê Thị Trang, học sinh lớp 7B
trường THCS Nga Trường - Năm học 2014-2015 (Là học sinh đạt giải Nhì
trong kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp Huyện môn Ngữ Văn lớp 7 năm học 2014 –
2015) Bài viết này là một trong những bài làm tốt nhất trong số 40 bài dự Khảo
sát kết quả triển khai vận dụng SKKN kinh nghiệm này vào giảng dạy ở cụm
chuyên môn gồm 4 nhà trường: THCS Nga Trường, THCS Nga Vịnh, THCS
Nga Giáp, THCS Nga Thiện. (Tuy nhiên, bài viết đã được giáo viên bộ môn là
cô giáo Phan diệu Linh sửa chữa một số lỗi dùng từ và diễn đạt.)
Đề bài: Suy nghĩ của em về bài ca dao sau:
Con cò mà đi ăn đêm
14


Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
(Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập I, trang 50)
Bài làm
Trong Văn học dân gian Việt Nam nói chung và thơ ca dân gian nói riêng, em
đã được đọc, được học khá nhiều những câu, những bài ca dao nói đến con cò và
mượn hình ảnh con cò làm phương tiện nghệ thuật để gửi gắm, thể hiện những
tâm tư tình cảm thân phận con người. Nhưng có lẽ không ở đâu, hình tượng con
cò được xây dựng độc đáo sắc nét, giàu sức gợi cảm và ý nghĩa nhân sinh, triết
lý như ở bài ca dao này.
Bài ca dao không dài, tất cả chỉ có 6 câu nhưng trong đó vừa có thơ vừa có
truyện vừa có kịch. Kịch tính của bài ca dao không chỉ được thể hiện rất rõ nội
dung câu chuyện và sự xung đột bên trong. ( Mâu thuẫn nội tâm của nhân vật

chính). Cũng chính vì vậy mà càng đi sâu vào bài ca dao, em càng cảm thấy
nhiều điều hứng thú mới lạ, càng nhận rõ hơn chiều rộng, chiều sâu và chiều cao
của nó. Từ đó sẽ nảy sinh trong ta một cảm giác về sự diệu kỳ và khả năng phi
thường của nghệ thuật. Và tất cả những cái đó không phải ở bất cứ bài ca dao
nào cũng có.
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Tuy chỉ có 2 câu, nhưng tác giả đã cho em biết khá cụ thể và tường tận về sự
rủi ro của con cò: Thời gian lâm nạn: Ban đêm. Trường hợp lâm nạn : Khi đang
đi kiếm ăn. Nguyên nhân trực tiếp : “ Đậu phải cành mềm”. Hình thức và địa
điểm lâm nạn: “Lộn cổ xuống ao”.
Đấy, người đọc đã hình dung rõ cảnh tượng của một con cò đang lâm nạn
chưa? Những sự rủi ro, không may, những tai nạn bất ngờ xảy ra trong đời sống
con người cũng như đời sống của loài vật là điều không tránh khỏi. Và do đó
cũng là chuyện bình thường dễ hiểu. Vậy ở đây sự rủi ro của con cò có điều gì
đáng chú ý không? Hai tiếng ăn đêm trong câu thứ nhất là yếu tố thời gian đặc
biệt đầu tiên đáng chú ý ở câu chuyện thương tâm này. Bởi vì điều đó trái với
sinh hoạt tự nhiên của loài cò. Thông thường, loài cò đi kiếm ăn vào ban ngày
chứ không phải ban đêm như loài Vạc. Từ mà đặt đặt gữa chủ ngữ (con cò) và vị
ngữ (đi ăn đêm) tách câu ca dao thành 2 phần, nhằm mục đích nhấn mạnh điều
đặc biệt ấy.
Hư cấu ra câu chuyện con cò lâm nạn với những chi tiết cụ thể đặc biệt và
độc đáo như vậy, tác giả dân gian nhằm ngụ ý điều gì ?
Đây là bài ca dao ngụ ngôn, tác giả mượn chuyện loại vật để nói chuyện con
người. Ở thể loại ngụ ngôn, nhân vật và cốt chuyện chỉ là phần xác, linh hồn
của tác phẩm, mục đích của tác giả thường chủ yếu được thể hiện tập trung trong

15



lời nói cuối cùng của nhân vật ngụ ngôn. Nhân vật ngụ ngôn chủ yếu trong bài
ca dao này là con cò, nhân vật thứ hai được con cò gọi bằng ông, là nhân vật
phụ. Bài ca dao có 6 câu được cấu tạo thành hai phần rõ rệt. Hai câu đầu là lời
kể chuyện và cốt truyện cơ bản do tác giả tạo ra và kể lại. Đây chính là cái nền,
cái cớ, là điều kiện cần thiết không thể thiếu để cho tác giả thực hiện và thể hiện
những điều muốn nói ở phần thứ hai, trong ngôn ngữ và bằng ngôn ngữ trực tiếp
của nhân vật.
Vì vậy, nếu chỉ dừng lại và dựa vào hai câu đầu để phân tích, suy luận và bình
giảng ý nghĩa tượng trưng ẩn dụ của các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh này nọ (Ăn
đêm, cành mềm, lộn cổ, ao...) thì chưa đủ cơ sở, lạc hướng, dễ đi vào gán ghép
chủ quan. ( Có người đã coi hầu hết các chi tiết, sự việc nêu ở hai câu đầu có ý
nghĩa tượng trưng ám chỉ: “ con cò ” là người lao động nghèo đói, “ăn đêm “ là
việc làm phi pháp, gian phi trộm cắp. Cành mềm và ao là cạm bẫy của nhà nước
phong kiến. “Ông” tượng trưng cho nhà nước phong kiến. Hiểu như vậy hoàn
toàn sai vì nó không phù hợp với đặc trưng cơ bản của thể loại ngụ ngôn vừa
không phù hợp với mục đích của tác giả).
Phần thứ hai của bài ca dao dài gấp hai lần của phần thứ nhất, tất cả đều là
ngôn ngữ trực tiếp của con cò đang lâm nạn, đang ở dưới ao, đang ngoi lên kêu
cứu. Câu thứ nhất: Nghe rất tự nhiên thảm thiết: “Ông ơi ông vớt tôi nao!”
Đúng là tiếng kêu lạc giọng, đứt đoạn, ngắt quãng của một kẻ sắp bị chết
chìm trong nước đang ngoi lên kêu cứu . Cả câu chỉ có một từ “Vớt” vút lên cao,
còn tất cả những từ khác đều ngang bằng không dấu như không thể vượt lên
khỏi giới hạn của mặt nước. Có lẽ do cảm thông sâu sắc với con cò đang lâm
nạn nên tác giả của bài ca dao đã tưởng tượng và diễn đạt được đầy đủ tiếng kêu
cứu của nó, còn trong thực tế thì con cò cũng chỉ có thể kêu to và kêu rõ tiếng
vớt mà thôi? Sự tài tình của tác giả và cái hay hiếm có của câu ca dao này chính
là ở chỗ đó. Câu ca dao trên còn diễn tả sự ham sống của con cò.
Câu thứ hai : “ Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng”
Mặc dù đang ở trong hoàn cảnh hoạn nạn cấp cứu, ngàn cân treo sợi tóc, con
cò vẫn hết sức tỉnh táo, minh mẫn, biết rõ và nhớ rõ sự đời. Cho nên nó đã lường

trước và phòng trước khả năng nó bị “xáo măng” . Và lúc này, con cò lâm nạn
đang đứng trước ba khả năng khác nhau: Một là nó không được cứu và chết
chìm trong nước, hai là nó được vớt lên và được sống, ba là nó được vớt lên rồi
bị xáo măng. Khả năng thứ nhất, có thể tránh được vì đã có người nhìn thấy.
Khả năng thứ hai hết sức mỏng manh, khả năng thứ ba là có thể trở thành hiện
thực nhiều nhất.
Con cò đã suy nghĩ nhiều nhất về khả năng thứ ba. Đó là sự bế tắc trong cảnh
ngộ của mình. Trên cơ sở đó mới có điều kiện để hiểu được lời nói tiếp theo của
nó. Càng nghĩ kỹ, em càng thấy rõ mối liên hệ và sự tương đồng sâu sắc giữa
hoàn cảnh của con cò trong bài ca dao này với hoàn cảnh của những người
lương thiện gặp rủi ro hoạn nạn trong đời sống xã hội còn nhiều bất công. Gặp
hoạn nạn người ta không thể không kêu cứu, nhờ cậy sự giúp đỡ của những
người khác. Nhưng nhiều khi chính sự giúp đỡ cứu vớt ấy lại đưa người ta đến
16


với những nỗi khổ và tai hoạ mới lớn hơn. Bởi vì sự cứu giúp vô tư hào hiệp thật
sự hãy còn đang rất hiếm ở trên đời.
Mặc dù vậy con cò vẫn kêu cứu một cách hồn nhiên, thành thực và tha thiết,
cũng như con người vẫn tin vào lẽ phải và lòng tốt của nhau.
Câu thơ thứ hai còn rất hay ở chỗ nó vừa nói đúng chuyện thực của người,
vừa nói đúng chuyện thực của cò. (Dù hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng,
nghĩa rộng hay nghĩa hẹp ).
Hai câu cuối cùng: “Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”
Đến đây, dụng ý của tác giả và chủ đề tư tưởng của bài ca dao mới được thể
hiện đầy đủ và sâu sắc.
Nếu như câu tục ngữ “ Sống đục sao bằng thác trong” hoặc “ Chết trong còn
hơn sống đục” chỉ đặt con người vào sự lựa chọn giữa sống đục hay thác trong
thì ở bài ca dao này, tác giả đã đặt con cò trước ba khả năng và hai sự lựa chọn

khác nhau. Qua hai lần lựa chọn (giữa sống với chết và giữa hai cái chết), em
thấy điều băn khoăn day dứt nhiều nhất không phải là sống hay chết mà là giữa
chết trong hay chết đục.
Sở dĩ như vậy là vì con cò ở đây, tuy rất thiết tha sống nhưng không chủ quan
ảo tưởng tin vào lòng tốt của con người một cách ngây thơ, mà dám bình tĩnh
nhìn thẳng vào thực tế, vào khả năng hiện thực và cái chết không tránh khỏi của
mình để chủ động lựa chọn và bày tỏ thái độ. Câu “ Có xáo thì xáo nước trong”
phản ánh sự lựa chọn cái chết và cách chết rất cao thượng và đáng quý, vừa rất
thành thực và đáng thương của con cò. Câu cuối cùng: “ Đừng xáo nước đục
đau lòng cò con” nghe thiết tha đau đớn và cảm động biết bao !
Hai tiếng “cò con” có thể hiểu theo ba cách khác nhau mà cách nào cũng có
nghĩa và phù hợp với chủ đè tư tưởng của tác phẩm.
Thứ nhất: Cò con có thể hiểu là cách xưng hô khiêm tốn tự hạ mình của bản
thân con cò đang lâm nạn mặc dù nó đã trở thành cò lớn. Hiểu theo cách này thì
sự đau lòng ở trong câu ca dao chính là nỗi đau của bản thân con cò lâm nạn sau
khi đã chết.
Thứ hai : Cò con có thẻ hiểu là cò bé, cò còn nhỏ dại, chưa đủ lông đủ cánh.
Hiểu theo cách này thì bai ca dao càng thêm hay, thêm hấp dẫn và giàu sức
thuyết phục. Bởi vì cò con còn bé bỏng, chưa đủ lông đủ cánh, cho nên khi đậu
phải cành mềm mới lộn cổ xuống ao và không thể tự bay lên được. Tuy còn bé
bỏng nhưng nó đã biết phân biệt điều hay lẽ phải và biết đau lòng nếu phải chết
trong nước.
Thứ ba: Cò con được hiểu là con của con cò đang lâm nạn. Hiểu theo cách
này thì nỗi đau lòng trong bài ca dao là nỗi đau của con cháu, của thế hệ tương
lai, chứ không phải là nỗi đau của con cò đang lâm nạn. Nghĩa là con cò lâm nạn
đang suy nghĩ về sự sống cái chết và lựa chọn cách sống chết đã hướng nhiều về
thế hệ nối tiếp , tương lai của nó và lo cho sự đau lòng vì hổ thẹn và sỉ nhục của
cháu con nếu bản thân nó bị xáo trong nước đục.
Trong ba cách hiểu nói trên, có lẽ em thấy cách thứ ba là cách hiểu hay nhất,
17



phù hợp nhất đồng thời cũng là cách hiểu đơn giản, dễ tiếp thu hơn cả.
Học xong giờ học, đọc hết bài ca dao, gấp trang sách lại, em vẫn thấy hình
ảnh con cò chới với giữa trời khuya, đêm tối mịt mùng… và tiếng kêu than của
nó vẫn vọng vào thinh không : “…Ông ơi, ông vớt tôi nao!...”
Tiếng kêu cứu nạn của con cò, hay tiếng kêu than cầu cứu của những thân
phận, những kiếp người nông dân trong xã hội cũ?! Cảm ơn tác giả dân gian,
cảm ơn cô giáo của em đã cho em những bài học mà suốt cuộc đời em sẽ không
bao giờ quên!
IV. KIỂM NGHIỆM
1. Hiệu quả trong việc triển khai Sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi triển khai hướng dẫn giáo viên vận dụng vào trực tiếp giảng dạy ở 4
nhà trường trong Cụm chuyên môn, tôi đã tiến hành khảo sát 40 em học sinh lớp
7 (mỗi trường 10 em) của 4 nhà trường (THCS Nga Trường, THCS Nga Thiện,
THCS Nga Vịnh, THCS Nga Giáp năm học 2014 – 2015. Danh sách học sinh
tham dự khảo sát được tôi trực tiếp lập một cách hoàn toàn ngẫu nhiên).
Đối chiểu bảng 1 và bảng 2, kết quả cho thấy như sau:
Bảng 1:
Tổng số
Số học sinh
Số học sinh
học sinh
không yêu
yêu thích học
được
thích học tập
tập bộ môn
Năm học
HS lớp khảo sát

Ghi chú
bộ môn Ngữ
Ngữ Văn
ở 4 nhà
Văn
trường
SL
%
SL
%
thuộc
2013-2014
7
40
15
37.5
25
62.5
Bảng 2:
Năm
học

HS
lớp

Tổng số
Số học sinh không yêu
Số học sinh yêu thích
học sinh
thích học tập bộ môn

được khảo học tập bộ môn Ngữ Văn
Ngữ Văn
sát ở 4

SL

%

Tỷ lệ %
tăng so
với năm
học
trước

SL

%

Tỷ lệ
% giảm
so với
năm
học
trước

2014
7
40
38
95

50
2
5
57.5
2015
2. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu :
Sau một thời gian tìm tòi nghiên cứu và đưa vào ứng dụng sáng kiến kinh
nghiệm này trong quá trình giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn trong các nhà
18


trường thuộc cụm chuyên môn (THCS Nga Trường, THCS Nga Thiện, THCS
Nga Giáp, THCS Nga Vịnh), phương pháp này đã mang lại những kết quả như
sau:
Qua việc dự giờ, kiến thực tập của bản thân tôi ở từng nhà trường trong cụm
chuyên môn và nắm bắt từ các đồng chí giáo viên bộ môn Ngữ Văn ở 4 nhà
trường trong cụm chuyên môn trong mỗi kỳ sinh hoạt chuyên môn cụm (Mỗi
tháng 1 lần), tôi nhận thấy rằng, với cách làm này, ở 4 nhà trường được vận
dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy, tình trạng dạy “diễn nôm
ca dao” ở giáo viên và “học đối phó” ở học sinh không còn nữa. Chất lượng bộ
môn Ngữ Văn được nâng lên rõ rết ở mỗi nhà trường.
Học sinh có nhiều hứng thú học ca dao nói riêng và học tập bộ môn Ngữ
Văn nói chung. Học sinh yêu thích học ca dao hơn, có ý thức sưu tầm học hỏi,
đọc và thuộc nhiều câu ca dao hay,
Học sinh được phát huy cá tính sáng tạo, óc thông minh, khả năng tư duy,
bộc lộ cảm xúc một cách tích cực chủ động
Qua giờ học, việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả tốt hơn.
Nhiều em có những bài bình giảng nội dung sâu sắc tinh tế. được chấp nhận và
có tính thuyết phục cao.
Bằng việc thực hiện các giải pháp đã trình bày ở phần trên, ngoài ra, trong

những thời gian ngoài giờ lên lớp, tôi đã cố gắng gần gũi, tìm hiểu những tâm tư
tình cảm của các em, kịp thời có những trao đổi tâm tình thân mật, cởi mở, nhằm
động viên khích lệ kịp thời, giúp các em tự tin, phấn chấn hơn trong quá trình
học tập và bồi dưỡng.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:
Với việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ môn Ngữ Văn nói
riêng, học sinh được thực sự phát triển năng lực sáng tạo. Từ đó các em trở
thành những con người có óc phê phán, có năng lực phát hiện, đặt ra và giải
quyết được những vấn đề của khoa học, xã hội và cuộc sống. Như vậy, qua dạy
học tác phẩm văn chương, mỗi người thầy giáo, cô giáo sẽ đào tạo được những
con người có tư duy sáng tạo và hoạt động tích cực, chủ động trong đời sống,
phù hợp với yêu cầu của thời đại ngày nay. Người thầy làm cho mỗi tác phẩm
văn chương đích thực trong nhà trường có khả năng gây ấn tượng tình cảm, tạo
không khí cảm xúc cho từng học sinh và cả lớp học.
Vận dụng phương pháp đổi mới, dạy học theo định hướng phát triển năng
lực, học sinh thật sự được đặt vào vị thế mới, là nhân vật trung tâm của hoạt
động dạy học. Học sinh làm việc tích cực, có cảm xúc thật sự và biết giải quyết
vấn đề theo cách riêng của mình, tránh được những hoạt động, cảm nghĩ giả tạo
theo kiểu đối phó...
Bản thân người giáo viên dạy học theo phương pháp đổi mới đã thực hiện
được nguyên tắc đề cao nhân cách học sinh, tôn trọng bản lĩnh của người học và
tạo điều kiện để họ phát triển và hoàn thiện thêm nhân cách của mình. Đồng
thời, đã phá bỏ những thói quen xấu đã cũ, thói quen tiêu cực trong việc truyền
19


thụ kiến thức theo lối áp đặt nhồi sọ trước kia.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh nói chung và bộ
môn Ngữ Văn nói riêng thực sự là phương pháp dạy học tiến bộ, đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ của nhà trường THCS. Học sinh đã tạo được hứng thú học tập,
chủ động tích cực tiếp nhận những vấn đề đặt ra của môn học.
Những đổi mới tiến bộ của dạy học theo phương pháp đổi mới nói chung
và bộ môn Ngữ Văn nói riêng trong nhà trường Trung học cơ sở đã giúp người
giáo viên có khả năng tìm tòi nghiên cứu, phát huy sự sáng tạo và sự lành nghề
trong năng lực chuyên môn, tạo hiệu quả cao trong giảng dạy.
II. ĐỀ XUẤT:
Để tiếp tục đáp ứng những yêu cầu thiết yếu về dạy học môn Ngữ văn
trong nhà trường theo tinh đổi mới phương pháp, đặc biệt nhằm nâng cao chất
lượng dạy học, phù hợp với nhu cầu đào tạo con người, phát triển toàn diện của
xã hội hiện đại, tôi mong muốn được sự quan tâm của ngành Giáo dục các cấp
Phòng, Sở trong việc tổ chức những lớp học chuyên đề, trao đổi sáng kiến kinh
nghiệm, hội thảo khoa học về đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ
môn Ngữ Văn nói riêng.
Sáng kiến kinh nghiệm này của tôi mới chỉ là bước đầu tìm tòi nghiên cứu
học hỏi và là những suy nghĩ mang tính chủ quan của cá nhân. Vì vậy sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được góp ý và bổ sung của các đồng
chí đồng nghiệp để vấn đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoàng Thị Yến

Thanh Hóa, ngày 6 tháng 4 năm 2015
CAM KẾT KHÔNG COPY

Tạ Thị Lài

D. CÁC MINH CHỨNG:
Hình1, 2: Một số hình ảnh tại giờ học Ngữ Văn lớp 7A Trường THCS Nga

Giáp – Nga Sơn – Thanh Hóa : Tiết 13 “Những câu hát than thân” do cô giáo
20


Hoàng Thị Sắc và các em học sinh lớp 7A trường THCS Nga Giáp – Nga Sơn
thực hiện. ( Tiết 2 thứ 2 ngày 15/9/2014)

Hình 1.

Hình 2.
Hình 3, 4: Một số hình ảnh tại giờ học Ngữ Văn lớp 7B Trường THCS Nga
Trường – Nga Sơn – Thanh Hóa : Tiết 13 “Những câu hát than thân” do cô

21


giáo Phan Diệu Linh và các em học sinh lớp 7B trường THCS Nga Trường –
Nga Sơn thực hiện. ( Tiết 2 thứ 6 ngày 19/9/2014)

Hình 3.

Hình 4.
Hình 5: Hình ảnh em Lê Thị Trang – Học sinh lớp 7B trường THCS Nga
Trường, trong giờ học Ngữ Văn (Tiết 13 –“ Những câu hát than thân” do cô
22


giáo Phan Diệu Linh và các em học sinh lớp 7B trường THCS Nga Trường –
Nga Sơn thực hiện - Tiết 2 thứ 6 ngày 19/9/2014 )- HS đạt giải Nhì kỳ thi chọn
hSG cấp huyện môn Ngữ Văn lớp 7 – Năm học 2014 - 2015


Hình 6: Hình ảnh các em học sinh lớp 7A trường THCS Nga Thiện trong phần
luyện tập Tiết 13 “Những câu hát than thân” do cô giáo Đặng Thị Nga và các
em học sinh lớp 7A trường THCS Nga Thiện – Nga Sơn thực hiện. ( Tiết 3 thứ 3
ngày 16/9/2014)

23



×