Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT HUY NGUỒN lực CON NGƯỜI TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa ở TỈNH lâm ĐỒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.05 KB, 93 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC
ĐỘNG TỚI PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

1.1

Thực chất phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm

1.2

11
11

Đồng
Những nhân tố cơ bản tác động đến phát huy vai trò
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng hiện nay

Chương 2



29

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ Ở LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

2.1

45

Thực trạng và những mâu thuẫn đặt ra đối với phát
huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp

2.2

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng hiện nay
Quan điểm và một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò

45

nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Lâm Đồng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài


63
86
87
91


2

Nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của những phát
minh khoa học vĩ đại, với nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá kinh tế. Chưa
bao giờ nguồn lực con người được chú trọng như ngày nay. Trong cuộc
cạnh tranh quyết liệt của toàn cầu hoá, mỗi quốc gia đều tự tìm cho mình
một chiến lược phát triển, nguồn lực con người đang rất được coi trọng,
phần chiến thắng sẽ thuộc về quốc gia có nguồn lực con người chất lượng
cao, có khả năng sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức khoa học tiên
tiến. Vai trò của con người ngày càng cao, do vậy, việc phát huy vai trò
nguồn lực con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chiến
lược phát triển của nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, gắn với phát triển kinh tế tri thức”[16, tr. 28]
Việc phát huy vai trò nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao, đang là một trong những hướng ưu tiên và là khâu đột phá để
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói
riêng, cùng với quá trình đổi mới toàn diện và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức thì việc xây dựng và phát huy vai trò
nguồn lực con người đang là một đòi hỏi cấp bách hiện nay.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc và Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2006 - 2010), Lâm

Đồng đã chú trọng phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở phát huy vai trò nguồn
lực con người. Là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị,
quốc phòng, an ninh của khu vực Tây Nguyên. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
Lâm Đồng có truyền thống cách mạng, đoàn kết gắn bó với Đảng, với chế độ; có
ý chí anh dũng kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giải phóng dân tộc; là nơi


3

có nhiều nét văn hóa đặc sắc. Lâm Đồng lại có lợi thế về khí hậu, cảnh quan môi
trường, đất đai, khoáng sản, để phát triển du lịch, dịch vụ, rau, hoa quả và cây
công nghiệp…, nằm ở hành lang vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo của Trung ương đóng trên địa bàn, rất thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội.
Qua hơn 20 năm cùng với cả nước thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là
3 năm gần đây, trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII đạt nhiều thành tựu quan trọng, tương
đối toàn diện trên các mặt, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đời
sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng và phát triển, đến nay Lâm Đồng vẫn là tỉnh nghèo. Tốc độ phát
triển chậm và chưa vững chắc, quy mô nền kinh tế nhỏ, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, ch ưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. “Công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp,
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra với quy mô nhỏ và chậm.
GDP bình quân đầu người chỉ đạt 64% mức bình quân chung của cả nước”[7, tr. 12]. Mặt bằng dân trí và tỷ lệ lao động được đào tạo nghề thấp,
trình độ đội ngũ cán bộ, nhất là tuyến cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Đời sống một bộ phận nhân dân còn nhiều
khó khăn.
Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh của mình, những
năm gần đây, Lâm Đồng đã đầu tư cho phát triển công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu. Nhưng nhìn chung đến
nay nhiều tiềm năng to lớn, nhất là tiềm năng con người của Lâm Đồng vẫn
chưa được khai thác và phát huy có hiệu quả, chưa chuyển hoá thành nội lực
cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp ứng được yêu cầu cho sự


4

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII đã
chỉ ra: “Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế” [7, tr. 38]. Vì vậy, để tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Lâm Đồng, vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân
lực tại chỗ đi đôi với tiếp tục thu hút vốn và phân bố lại lực lượng lao động
theo quy hoạch là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như từ thực
tiễn hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
cho thấy, sự nghiệp đó chỉ có thể thành công khi biết phát huy sức mạnh tổng
hợp của các nguồn lực, trong đó “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đối với Lâm Đồng, việc
phát huy vai trò nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá càng trở nên cấp bách. Do vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát huy vai
trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh Lâm Đồng hiện nay” làm luận văn khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ngày nay, trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, các nhà khoa học
đều nhất trí khẳng định rằng, trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vấn đề mấu chốt không phải dựa
vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn vật chất như trước đây mà là việc
phát huy vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển. Từ ý nghĩa và
tầm quan trọng của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá mà những năm gần đây, xung quanh vấn đề công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Trong sự toàn diện và phong phú của các vấn đề đã được
nghiên cứu, có thể khái quát thành mấy khuynh hướng chính sau đây:


5

Thứ nhất: vấn đề con người và vai trò của nguồn lực con người trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tiêu biểu cho khuynh hướng này
có các công trình: “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá”, Phạm Minh Hạc chủ biên Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995; “Nguồn lực con người, yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Đoàn Văn Khái, Tạp chí Triết học số 4/ 1995; “Về
vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 6/1998; “Nguồn nhân lực, động
lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp
chí Triết học số 1/1996; “Phát triển con người Việt Nam với tư cách là mục
tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Đặng Hữu Toàn, Tạp chí Khoa học xã hội, số 3/1997; “Phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nguyễn Thanh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; “Tài nguyên con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời đại hiện nay”, Nguyễn
Quang Du, Tạp chí Cộng sản số 8/ 1994; “Nguồn nhân lực trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học số 2/
1994.
Các công trình trên đã đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở
lý luận và thực tiễn về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phân tích sự tác động qua lại giữa nguồn lực
con người với các nguồn lực khác: nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ

sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý,…. Từ đó, đi đến khẳng định yếu tố quyết
định thuộc về nguồn lực con người.
Thứ hai: phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ với sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có các
công trình như: “Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự


6

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết
học, số 1/1997; “Phát triển giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2/1996;
“Để giáo dục- đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”, Phạm Ngọc
Minh, Tạp chí Triết học, số 2/1997; “Nghiên cứu giáo dục con người và nguồn
nhân lực Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập”, Vũ Minh Chi, Tạp
chí Nghiên cứu con người, số 5/2002; “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam”, Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; “Vai trò, vị
trí của người thầy giáo trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực vì
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Vũ Thiện Vương, Báo cáo
khoa học thuộc đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, 1999; “Phát triển
giáo dục đào tạo với tư cách điều kiện tiên quyết để phát huy nguồn lực con người,
thực trạng và giải pháp”; Vũ Thiện Vương, Tạp chí Khoa học xã hội số 3/ 2001;
“Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tiềm năng con người và phát huy
tiềm năng trí tuệ của con người”, Nguyễn An Ninh, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số
9/ 1996.
Ở các công trình này các tác giả đều tập trung làm rõ vai trò của giáo
dục - đào tạo đối với việc phát huy nguồn lực con người phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Phân tích rõ vị trí, vai trò,
chức năng của nguồn lực trí tuệ, bộ phận trung tâm, làm nên chất lượng và

sức mạnh ngày càng tăng của nguồn lực con người, là tài sản vô giá của mỗi
quốc gia, dân tộc và của toàn nhân loại.
Thứ ba: công nghiệp hóa, hiện đại hóa với vấn đề xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đời sống tinh thần. Ở khuynh
hướng này có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Chủ tịch Hồ Chí
Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới”, Võ Nguyên Giáp, Tạp chí


7

Cộng sản số 6/1990; “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”, Đặng Hữu Toàn, Tạp chí Triết học số
2/ 2000; “Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển
toàn diện con người”, Huỳnh Khái Vinh, Tạp chí Thông tin lý luận số
3/1999; “Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay”. Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội 1993; “Văn hoá và lối sống của con người Việt Nam trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Phạm Xuân Hằng, Nxb, Chính trị
quốc gia. Hà Nội 2000.
Các công trình này đều khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là động lực của sự phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
gắn liền với nền tảng, truyền thống văn hoá của dân tộc.
Thứ tư: công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và trên thế giới
hiện nay. Ở khuynh hướng này, tác giả thấy có các nguồn tài liệu đáng quan tâm
sau đây: “Phát triển nguồn nhân lực - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước
ta”, Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội 1996; “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, lý luận và thực
tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. Các tài liệu trên đã giới thiệu khái
quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một số nước trên thế giới,
nhấn mạnh vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.

Tác giả không đi sâu nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, song việc nghiên
cứu, tham khảo những công trình của các tác giả trên đã đem lại cách nhìn
toàn diện, phong phú hơn, làm cơ sở cho việc xác định đề tài nghiên cứu.
Đồng thời qua khảo sát tình hình nghiên cứu, cho thấy, việc nghiên cứu vấn
đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Lâm Đồng thì vẫn chưa có công trình nào trực tiếp đề cập đến.


8

Vì vậy, vấn đề: “Phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay” được tác giả lựa
chọn làm đề tài luận văn cao học của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Luận giải dưới góc độ triết học những vấn đề lý luận, thực tiễn của
việc phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Lâm Đồng; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp mang tính
định hướng cho việc phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa bàn chiến lược này.
Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích rõ thực chất và những nhân tố cơ bản tác động đến phát
huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Lâm Đồng hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những mâu thuẫn cần giải quyết
nhằm phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Lâm Đồng hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng cho việc phát huy
vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở

Lâm Đồng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Lâm Đồng hiện nay.


9

- Phạm vi nghiên cứu: Phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lâm Đồng, trong thời gian từ
năm 2005 đến 2010
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của nguồn
lực con người, vai trò của giáo dục đào tạo nhằm phát huy vai trò nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn, tác giả sử dụng một
số phương pháp cơ bản như: phân tích, tổng hợp; đối chiếu, so sánh; lôgíc,
lịch sử, phương pháp thống kê, hệ thống hóa để làm sáng tỏ và cụ thể hóa nội
dung nghiên cứu của luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát huy vai trò nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng hiện nay.
- Phân tích rõ những nhân tố cơ bản tác động tới phát huy vai trò nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm phát huy vai
trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm
Đồng từ nay đến năm 2010.

7. Ý nghĩa của luận văn
Với những kết quả nghiên cứu bước đầu, luận văn sau khi được bảo vệ
và chỉnh sửa có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu giảng dạy về vấn
đề nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời là cơ sở để các
cấp lãnh đạo, các ngành trong tỉnh Lâm Đồng nghiên cứu, tham khảo trong


10

việc hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận và danh mục các tài
liệu tham khảo.

Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG TỚI
PHÁT HUY VAI TRÒ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

1.1 Thực chất phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng
1.1.1 Nguồn lực con người và vai trò nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên tổng thể các nguồn lực: Đất đai,
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vốn, khoa học kỹ thuật, nguồn lực con
người… “Nguồn lực” là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần đang và sẽ tạo ra
năng lực, sức mạnh thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như vậy,
khái niệm “nguồn lực” chỉ ra cái khởi nguyên, cội nguồn sản sinh ra, nuôi dưỡng
các yếu tố vật chất và tinh thần làm nên năng lực và sức mạnh của sự phát triển. Nó

bao gồm không chỉ những năng lực, sức mạnh hiện có thực tế, mà còn cả những
năng lực, sức mạnh dưới dạng tiềm năng và khi có điều kiện sẽ trở thành hiện thực.
Với cách tiếp cận trên, nguồn lực con người hay còn gọi là (nguồn nhân lực)
thường được hiểu là nguồn lực con người của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ,
một địa phương nhất định đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội.


11

Theo tổ chức Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến
thức và năng lực hiện có thực tế và dưới dạng tiềm năng của con người (lực
lượng lao động) để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng. Chương
trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07 của GS, VS, Phạm Minh
Hạc rút ra kết luận: “Nguồn nhân lực cần được hiểu là sự thống nhất giữa
dân số và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của ng ười lao động. Là
tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng
để tham gia phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào
đó” [20, tr. 17]. Với tư cách là nguồn lực con người - chủ thể không tồn tại biệt
lập mà chúng liên kết với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động. Như vậy, nguồn lực con người (nguồn nhân lực) là tổng hợp
những năng lực, sức mạnh hiện có thực tế và dưới dạng tiềm năng của lực lượng
người, mà trước hết, là lực lượng lao động đang và sẵn sàng tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đó là những người lao động có trí
tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo, bồi dưỡng
và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn với khoa học hiện đại.
Từ quan niệm nêu trên ta thấy, nguồn lực con người không chỉ bao gồm
năng lực, sức mạnh đã qua, hiện có mà cả năng lực, sức mạnh dưới dạng tiềm
năng. Dạng hiện thực, là nguồn lực đang trực tiếp đóng góp vào quá trình phát
triển. Dạng tiềm năng, là những năng lực hiện có song còn tiềm ẩn, đang có xu
hướng hiện thực hoá, đang cần những điều kiện để trở thành nguồn lực trong
hiện thực. Mục tiêu quan trọng của quá trình phát huy tiềm năng con người là

làm cho tiềm năng của con người chuyển hoá thành nguồn lực trong hiện thực.
Nguồn lực con người là sự thống nhất của ba yếu tố cơ bản: số lượng
nguồn nhân lực; chất lượng nguồn nhân lực; cơ cấu nguồn nhân lực. Trong
đó chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, đóng vai trò quyết định nhất,
đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ đang phát triển


12

mạnh mẽ thì nguồn nhân lực có chất lượng cao giữ vai trò quyết định trong sự
phát triển nhanh và bền vững.
Trước hết, nguồn nhân lực được xem xét ở mặt số lượng: số lượng
nguồn nhân lực là tổng số lao động đã và đang được đào tạo, đang và sẵn
sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, nó được quy định bởi
quy mô dân số (số lượng dân, mật độ dân số, tốc độ tăng dân số, cơ cấu độ
tuổi, cơ cấu lao động trong các ngành, phân bố dân cư). Trong đó, số dân
trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một cách rõ nhất về số lượng nguồn
nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (thừa
hoặc thiếu) đều tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế có
hai nhóm yếu tố tự nhiên và xã hội tác động ảnh hưởng đến số lượng nguồn lực
con người đó là: nhóm yếu tố tự nhiên là sự tác động của quy luật sinh học đến
tỷ lệ sinh đẻ và tử vong của con người, làm tăng hay giảm dân số và lao động
một cách tự nhiên. Nhóm yếu tố xã hội là quá trình di dân làm tăng hay giảm
dân số và lao động trong một không gian và thời gian nhất định.
Nguồn nhân lực khi xem xét về mặt chất lượng là tổng hợp những phẩm
chất, năng lực, sức mạnh của người lao động đang và sẵn sàng tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nó bao gồm những yếu tố cơ bản như: thể
lực, trí tuệ, kỹ năng lao động, phẩm chất đạo đức, văn hoá, trình độ chuyên
môn của người lao động. Trong đó trí tuệ, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên

môn là những yếu tố quan trọng nhất.
Trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực tư duy sáng tạo, là sản phẩm sáng
tạo về tinh thần của con người. Nói đến trí tuệ là nói đến yếu tố tinh thần, trình
độ văn hoá và học vấn của con người, thể hiện qua việc huy động có hiệu quả
lượng tri thức tích luỹ vào quá trình sáng tạo cái mới, nhằm cải biến tự nhiên, xã
hội và bản thân con người trong sự phát triển xã hội. Trí tuệ là yếu tố quyết định


13

phần lớn khả năng sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan
trọng và quyết định trong chất lượng nguồn lực con người. Khi đánh giá về vai
trò của trí tuệ đối với sự phát triển xã hội, C. Mác đã chỉ rõ: “Lao động phức tạp
chỉ là lao động giản đơn được nâng lên luỹ thừa, hay nói cho đúng hơn là lao
động giản đơn được nhân lên” [25, tr. 75]. Điều này có nghĩa là trong cùng một
điều kiện và một đơn vị thời gian, lao động phức tạp (lao động có hàm lượng trí
tuệ cao) tạo ra được giá trị gấp nhiều lần giá trị của lao động giản đơn (lao động
chủ yếu bằng sức cơ bắp) tạo ra.
Cùng với trí tuệ, đạo đức và năng lực (tài) là thành phần cơ bản không thể
tách khỏi chất lượng nguồn nhân lực. Năng lực hình thành và phát triển trên cơ
sở sự phát triển của trí tuệ thông qua hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh,
đức và tài luôn gắn bó với nhau, trong đó, đức là “gốc”. Người có đức mà không
có tài thì chẳng khác nào ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng
chẳng có ích gì; ngược lại, người có tài mà không có đức thì chẳng khác gì một
người làm kinh doanh giỏi, kiếm được nhiều lãi nhưng tham ô, lãng phí, ăn cắp
của công thì như vậy chỉ có hại cho nước, cho dân, còn sự nghiệp của bản thân
thì sớm muộn cũng bị đổ vỡ. Vì vậy, đức là “gốc”, là vốn quý của cá nhân con
người, của tập thể và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, một dân tộc biết
cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ. Do vậy phát triển nguồn
lực con người là phải chú ý cả hai yếu tố đức và tài, trong đó đức là “gốc”.

Với tư cách là yếu tố quan trọng của nguồn nhân lực, thầm mỹ định
hướng việc bồi dưỡng nhu cầu, khát vọng của con người theo tiêu chuẩn của
giá trị “chân, thiện, mỹ”. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và
hành động cụ thể của con người, tạo nên chất lượng nguồn lực con người. Sự
phát triển của thẩm mỹ đúng đắn sẽ có tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển
trí tuệ ở trình độ cao hơn, đặc biệt nó có giá trị định hướng cho các hoạt động


14

trí tuệ, cho việc sử dụng các thành tựu của trí tuệ, của khoa học vào những
mục đích nhân văn, tiến bộ xã hội, vì cuộc sống hạnh phúc của con người.
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào các yếu tố sau: sức khoẻ và
dinh dưỡng; giáo dục và đào tạo; văn hoá truyền thống dân tộc; tác phong và
tinh thần làm việc; kỷ luật. Sức khoẻ và dinh dưỡng của nguồn lực con người
với sự phát triển xã hội là mối quan hệ hai chiều. Sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức khoẻ
con người và ngược lại sức khoẻ và dinh dưỡng của con người được cải thiện
sẽ nâng cao chất lượng nguồn lực con người, phát huy được vai trò của nguồn
lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo là một
trong những yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển tài năng, trí tuệ, phẩm
chất nhân cách con người. Do đó, con đường cơ bản nhất để phát huy vai trò
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là giáo
dục - đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Văn hoá truyền thống dân tộc, là
những nét văn hoá đặc trưng (truyền thống đạo đức, sự cố kết cộng đồng dân
cư, các mối quan hệ gia đình, xã hội. v.v…) có tác động rất lớn đến hành vi
ứng xử của con người trong công việc cũng như trong cuộc sống. Tác phong,
tinh thần làm việc và kỷ luật cần có là tác phong làm việc khẩn trương, có ý
thức trách nhiệm cao đối với công việc, với cộng đồng, “mình vì mọi người,
mọi người vì mình”, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, chấp hành nghiêm kỷ

luật lao động, luật pháp nhà nước. Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
không thể tách khỏi những yếu tố văn hoá, đạo đức.
Nguồn lực con người, tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau mà có những
cách phân chia khác nhau: Phân chia theo trình độ lao động; loại lao động;
lực lượng lao động. Trong đó, lực lượng lao động còn được phân chia thành
các lực lượng cụ thể, tuỳ theo đặc điểm lứa tuổi, tính chất hoạt động. Nguồn
nhân lực sẵn có trong dân cư bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi


15

lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có việc làm hay
không có việc làm, là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân cư,
tính theo độ tuổi lao động quy định. Ở nước ta hiện nay, nam từ 15 - 60 tuổi,
nữ từ 15 - 55 tuổi. Lực lượng này chiếm khoảng trên 50% dân số. Nguồn
nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội là số người có công ăn việc
làm đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn hoá xã hội. Nguồn nhân
lực dự trữ bao gồm những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông, các
trường chuyên nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học) đang tìm việc làm và
những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Nguồn lực con người có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải huy
động và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực khác nhau (nguồn lực con
người, nguồn vốn trong và ngoài nước, nguồn tài nguyên thiên nhiên,
nguồn lực khoa học công nghệ…). Trong các nguồn lực đó, nguồn lực con
người giữ vai trò quyết định nhất. Vai trò quyết định của nguồn lực con
người được biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất: Nguồn lực con người, đặc biệt là năng lực trí tuệ có vai trò to
lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là trong thời đại

nền kinh tế tri thức hiện nay. Trí tuệ, nguồn “chất xám” của con người là vô hạn,
càng sử dụng thì càng phát triển, (đối với từng con người là hữu hạn, nhưng đối
với cả loài người là vô hạn). Trong khi đó các nguồn lực khác lại là hữu hạn. Tài
nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý thuận lợi đều
vô cùng quan trọng, thiếu chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Song các nguồn lực này dù phong
phú, đa dạng và giầu có đến mấy cũng chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng và tự nó
không thể phát huy tác dụng. Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng


16

thông qua hoạt động có ý thức, sáng tạo của con người, nghĩa là được con người
sử dụng. Mặt khác, các nguồn lực khác có phong phú đi bao nhiêu chăng nữa thì
sau quá trình khai thác và sử dụng, đến một lúc nào đó cũng sẽ bị cạn kiệt.
Nguồn vốn cũng luôn bị giới hạn bởi nhu cầu của sự phát triển. Công nghệ có
hiện đại, tiên tiến mấy chăng nữa cũng sẽ bị lạc hậu theo thời gian.
Con người là chủ thể sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật, trí tuệ con người
phát triển tới đâu sẽ tạo ra trình độ công nghệ, kỹ thuật tương ứng. Vốn, tài
nguyên thiên nhiên rất cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự
giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý sẽ mất ý nghĩa
nếu chủ nhân của nó - “con người” không biết khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Sức mạnh của tài nguyên thiên nhiên phát huy tác được dụng đến đâu còn tuỳ
thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận các nguồn lực đó. Xét đến cùng, thiếu
sự hiện diện của con người với những phẩm chất, trí tuệ và lao động thì mọi
nguồn lực khác đều trở nên vô nghĩa.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ
bão đưa đến sự biến đổi to lớn trong đời sống nhân loại. Sự phát triển này không
chỉ được đánh dấu bởi số lượng của các phát minh khoa học, mà còn ở chiều sâu
của các phát minh đó. Người ta tính rằng, chỉ riêng 30 năm gần đây, lượng kiến

thức nhân loại tiếp thu được về mặt khoa học - kỹ thuật bằng tổng số thu được
trong hai ngàn năm trước đó. “Dự đoán đến năm 2020 sẽ tăng ba, bốn lần so với
hiện nay. Tới năm 2050 những kiến thức khoa học - kỹ thuật đang áp dụng hiện
giờ có khả năng chỉ chiếm 1% lượng kiến thức của thời đó” [6, tr. 87]
Thứ hai: Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất thì con người giữ
vai trò quyết định nhất.
Con người là chủ thể của mọi nhận thức và cải tạo xã hội. Trong quan
niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, con người không chỉ là chủ thể hoạt
động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong


17

lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa, nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt
động của mọi quá trình lịch sử xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên,
không ngừng chinh phục thế giới khách quan, cải tạo hoàn cảnh, phát triển lực
lượng sản xuất và qua đó, hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình.
Điều đó có nghĩa con người vừa là chủ thể, vừa là đối t ượng của quá
trình phát triển lịch sử. Con người làm nên lịch sử của chính mình. Lịch sử
là lịch sử của con người, do con người và vì con người. Lịch sử đó không
chỉ là một chuỗi những biến cố được tạo nên bởi những điều kiện khách
quan, mà còn là một chuỗi những hoạt động do con người thực hiện. Con
người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng đồng thời con người lại là chủ thể
của tất cả những biến đổi to lớn của hoàn cảnh. Bằng hoạt động thực tiễn lao
động sáng tạo của mình, con người không chỉ làm cho bộ mặt tự nhiên thay
đổi, mà cả bộ mặt xã hội cũng thay đổi và ngày một hoàn thiện.
Tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, nhìn nhận một cách biện
chứng, chính là quá trình giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn của đời sống xã
hội. Lực lượng để giải quyết các mâu thuẫn đó không ai khác là con người.

Con người với khả năng lao động và năng lực sáng tạo của mình đã làm nên
các cuộc cách mạng trong những thời đại văn minh, từ cổ đại đến hiện đại. Với
khả năng và năng lực đó, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế
xã hội và là chủ thể sáng tạo ra các nền văn minh ấy. Con người với năng lực
nhận biết các quy luật khách quan và bằng hoạt động thực tiễn của mình đã biến
khả năng thành hiện thực theo những quy luật vốn có của thế giới khách quan.
Điều đó cho thấy tính năng động chủ quan của con người trong mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội, cho thấy con người không chỉ có khả năng cải tạo tự nhiên,
mà còn có khả năng cải tạo, biến đổi xã hội, cải tạo chính bản thân mình.


18

Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện
đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm
làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát triển trong thời đại ngày
nay đang đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ hơn nữa “sức mạnh bản chất
người” của mình một cách hiện thực và sinh động hơn, phong phú và đa dạng
hơn, văn hoá và trí tuệ hơn. Đó là những phẩm chất và sức sáng tạo của con
người hiện đại.
Sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm cho năng suất lao động
tăng nhanh. Tuy nhiên, khoa học - công nghệ dù có to lớn đến đâu cũng
không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con người. Nguồn lực con người
vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền
kinh tế dựa vào sự giầu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức.
Trong bối cảnh như vậy, nguồn lực con người trở thành động lực chủ yếu
của sự phát triển nhanh và bền vững của xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng đã chỉ rõ: con người là nguồn lực quan trọng
nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất
nước. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định
sự cần thiết phải thực hiện một cách có hiệu quả chiến lược phát triển con
người. Đại hội lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2010: “Phát
triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất


19

lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phát triển kinh tế tri thức” [16, tr. 187].
Con người với tư cách là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển xã
hội, chủ thể sáng tạo lịch sử mới nên con người phải không ngừng hoàn thiện
những phẩm chất, năng lực, trình độ trí tuệ mới. Như vậy con người là nguồn
lực chủ yếu, vững chắc, lâu bền nhất trong sự phát triển, là chủ thể sáng tạo, là
nguồn lực của mọi nguồn lực.
Thứ ba: Vai trò nguồn lực con người còn được xác định, con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội là vì con người, động lực của
phát triển kinh tế - xã hội là do con người. Để tồn tại và phát triển, con người
cần phải được đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh thần.
Mọi nền sản xuất xã hội, xét đến cùng đều nhằm phục vụ con người. Sản xuất
càng phát triển thì càng có nhiều sản phẩm để đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn
cho con người. Chính sự đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu đó trong điều
kiện các nguồn lực kinh tế - xã hội có hạn đã thúc đẩy con người phải không
ngừng nâng cao khả năng lao động sáng tạo của mình để sản xuất ra nhiều sản
phẩm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người.

Ở nước ta từ buổi đầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khi
vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và giải phóng
con người, Đảng ta đã khẳng định rằng, con người là vốn quý nhất, chăm lo
cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
Trong quá trình cách mạng, việc chăm lo cho hạnh phúc mọi người, mọi nhà
được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là
nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Vì vậy, mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm quán triệt tư tưởng, chăm lo bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện


20

con người Việt nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định: Phát triển con người toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng
đồng và xã hội.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, cách mạng là sự
nghiệp của dân, do dân, vì dân. Chúng ta cần tiếp tục phát huy khả năng to
lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh của cộng đồng
dân tộc, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giầu mạnh
vì hạnh phúc của nhân dân. Xuất phát từ nhận thức đó Đảng ta đã có những
quyết sách đúng đắn trong việc đổi mới công tác quần chúng trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, nhờ vậy mà khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố
vững chắc. Những ý kiến, sáng kiến và nguyện vọng của nhân dân là nguồn
gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng và cũng do nhân dân hưởng ứng
đường lối đổi mới, quyết tâm phấn đấu, vượt qua khó khăn gian khổ thử thách
mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu như hôm nay.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nhân dân ta dưới

sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, từng bước đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao và ổn định, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện,
bộ mặt của xã hội có những thay đổi đáng kể. Một trong những tiền đề tạo ra
sự thành công đó là Đảng ta đã đánh giá đúng vị trí vai trò của việc phát triển
nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri thức, đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Kết quả của hơn 20 năm tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước cũng đã chứng minh rằng, đường lối, chính sách đúng đắn
của Đảng đều xuất phát từ con người, do con người và vì con người. Chính vì


21

vậy việc phát huy vai trò nguồn lực con người cần phải được coi là vấn đề
chiến lược của công cuộc đổi mới, là vấn đề sống còn của đất nước, đáp ứng
yêu cầu cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện
nay.
Thứ tư: Vai trò của nguồn lực con người ngày càng được thể hiện sinh
động trong thực tiễn.
Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy
sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc
hoạch định đường lối chiến lược, sách lược và năng lực tổ chức hoạt động
thực tiễn của chủ thể - (con người). Trên thế giới, không hiếm những nước
giầu có về tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn không thành công trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong khi đó có những nước tài nguyên thiên nhiên
hạn chế nhưng vẫn có sự phát triển vượt bậc. Chẳng hạn Singapore, một đất
nước không được thiên nhiên ưu đãi về mặt tài nguyên, nhưng đã phát huy tốt
vai trò nguồn lực con người, có cơ cấu kinh tế phù hợp, đã có tốc độ phát triển
kinh tế rất cao và trở thành một nước có tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu

người cao nhất trong khu vực. Nước Nhật cũng là nước có bước phát triển thần
kỳ từ sau chiến tranh, mặc dù không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nước
Nhật đã có bước phát triển kỳ diệu và có tổng sản phẩm quốc dân đứng thứ nhì
thế giới sau Mỹ. Sự phát triển thần kỳ đó bắt nguồn từ yếu tố con người và phát
huy vai trò to lớn của nguồn lực con người. Hàn Quốc cũng là một trong những
điển hình của sự phát triển kỳ diệu đó. Chỉ trong hơn bốn thập kỷ, Hàn Quốc từ
một nước nghèo, lại bị tàn phá của chiến tranh Triều Tiên đã trở thành một trong
những nước công nghiệp hoá phát triển vào loại hùng mạnh nhất về kinh tế của
các nước thuộc thế giới thứ ba.
Trong con mắt của các học giả nước ngoài, những thành tựu của Hàn
Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá có thể được coi là một “kỳ tích sông Hàn”.


22

Tuy nhiên, trong con mắt của người Hàn Quốc thì những thành tựu đó không có
gì là kỳ tích, nếu như thấy rõ những cố gắng của người dân lao động làm việc rất
vất vả, được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ, dưới sự quản lý và nuôi dưỡng
bằng văn hoá Khổng Giáo. Mặc dù những quyết định về chiến lược phát triển
của chính phủ và những điều kiện thuận lợi trong môi trường thương mại quốc tế
là những thuận lợi hết sức quan trọng, không thể thiếu được. Song nguồn lực con
người và phát huy vai trò của nguồn lực con người vẫn là cái quyết định trong
quá trình công nghiệp hoá đất nước. Nếu thừa nhận khả năng của nguồn lực con
người là nguyên nhân của sự phát triển kinh tế thì tại sao nhiều nước khác có khả
năng cung cấp lực lượng lao động rất dồi dào lại không thể phát triển nhanh như
Hàn Quốc? Như vậy, khả năng cung cấp nguồn lực con người mới chỉ là điều
kiện cần chứ chưa thể là điều kiện đủ cho sự phát triển kinh tế. Thực chất kỳ
diệu của sự phát triển kinh tế Hàn Quốc trong thời kỳ công nghiệp hoá còn bao
gồm một loạt các điều kiện khác quy định chất lượng nguồn nhân lực, cũng như
những yếu tố kích thích tính tích cực của nguồn lực đó.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, cho thấy vai trò của nguồn
lực con người rất quan trọng, nó quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực khác. Trong khi khẳng định vai trò của nguồn lực con người cần
phải thấy được vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ
thuật. Đây là lực lượng cơ bản, lưc lượng nòng cốt của nguồn lực con người.
Vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ này thể hiện ở chỗ: Một là, bồi dưỡng,
đào tạo lại lực lượng lao động hiện có và quy hoạch đào tạo mới nguồn nhân
lực. Hai là, góp phần soạn thảo chiến lược, các chính sách của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đồng thời cụ thể hoá chúng bằng các chương trình, kế hoạch
và phương pháp hành động cụ thể. Ba là, sáng tạo và tiếp thu những thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại, ứng dụng chúng vào trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục - đào tạo,


23

quản lý…) để thúc đẩy xã hội phát triển. Bốn là, đưa ra các phương án, biện
pháp để điều chỉnh và định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đồng thời góp phần giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình này.
Năm là, dự báo những thuận lợi và khó khăn, khả năng, triển vọng phát triển
của đất nước và cả nguy cơ (nếu có).
Xem xét vai trò nguồn lực con người phải trên cơ sở quan điểm toàn diện
của phương pháp luận duy vật biện chứng, có nghĩa là phải thấy được vai trò
quyết định của nguồn lực con người và vai trò rất quan trọng của các nguồn lực
khác. Không được tuyệt đối hoá một yếu tố nào, đồng thời phải xem xét chúng
trong một chỉnh thể thống nhất của các nguồn lực trong sự phát triển kinh tế xã
hội. Nguồn lực con người không thể tồn tại một cách biệt lập, bởi lẽ, con người
là một thực thể tự nhiên - xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người phải quan hệ
với tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên bằng trí tuệ và sức lao động của
mình nhằm cải tạo tự nhiên, tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người. Mặt

khác chính trong thực tiễn hoạt động lao động sản xuất, con người lại không
ngừng phát triển trí tuệ, phẩm chất, sức khoẻ. Đây là mối quan hệ biện chứng
trong sự phát triển của các nguồn lực.
1.1.2 Thực chất phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Lâm Đồng
Theo Từ điển tiếng Việt, phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt, cái đúng toả tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [41, tr. 1023]. Đó là việc khơi dậy, sử dụng và phát
huy các yếu tố tích cực, tiến bộ và hữu ích trong sự vật, hiện tượng vào một mục
đích nào đó. Phát huy là một quá trình liên tục từ thấp đến cao, gắn với cái hay, cái
đúng, cái tốt được nảy nở và gia tăng không ngừng, gắn liền với sự loại bỏ cái
không hay, cái lỗi thời, lạc hậu.
Như vậy, về quan niệm chung: Phát huy vai trò nguồn lực con người là
quá trình phát hiện, khơi dậy tiềm năng, trí sáng tạo, nâng cao sự nỗ lực của


24

mỗi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn gắn với mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước.
Về nội hàm của khái niệm phát huy vai trò nguồn lực con người bao
gồm: thứ nhất, phát hiện ra những năng lực, xu thế vận động và phát triển của
nguồn lực con người, tạo ra những tiền đề, điều kiện để tiềm năng của họ
được bộc lộ ra; giải phóng những tiềm năng hiện có và nâng lên một trình độ
phát triển mới. Thứ hai, bên cạnh việc phát huy những ưu điểm, những mặt
tích cực, đồng thời còn phải khắc phục những hạn chế, điều chỉnh những xu
hướng lệch lạc có thể làm giảm thiểu những năng lực hiện có.
Trên cơ sở cách tiếp cận như trên, tác giả đưa ra quan niệm: phát huy vai
trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Lâm Đồng là quá trình từng bước hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực. Đồng

thời phát hiện, khơi dậy, kích thích mọi tiềm năng, trí sáng tạo, nâng cao sự
nỗ lực cố gắng, của người lao động phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh.
Thực chất của việc phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Lâm Đồng là chủ thể (các nhà quản lý)
phải tìm ra được những động lực bên trong và những nhân tố tác động thúc
đẩy họ hành động một cách tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo nhằm đưa
đến sự phát triển về kinh tế - xã hội của tỉnh.
Phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Lâm Đồng là sự thống nhất biện chứng của một quá trình từ
việc đánh giá, phát hiện, bồi dưỡng đến sử dụng nguồn nhân lực. Quá trình đó
được thể hiện trên các phương diện cơ bản như: hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân
lực; bồi dưỡng nguồn nhân lực; sử dụng nguồn nhân lực gắn với đặc điểm,
điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh.


25

Thứ nhất, hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực. Để phát huy vai trò
nguồn lực con người trước hết tỉnh phải có một lực lượng lao động dồi dào,
chất lượng cao, cơ cấu lao động hợp lý. Hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực
là gia tăng lực lượng lao động với quy mô và cơ cấu hợp lý, bảo đảm một
lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu trẻ. Trước hết cần bảo đảm một tỷ lệ
sinh hợp lý, phù hợp với quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh; bảo
đảm cơ cấu về độ tuổi, cơ cấu trình độ học vấn, cơ cấu trình độ chuyên
môn kỹ thuật, cơ cấu về giới tính, thích hợp với từng giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh. Mỗi quốc gia hay địa phương có quy mô dân số hợp
lý, lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu trẻ là điều kiện tốt nhất để phát
triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.
Để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
cơ cấu kinh tế của Lâm Đồng phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch

vụ; trong từng ngành, từng lĩnh vực cũng phải có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ lệ nguồn nhân lực có chất lượng cao. Lĩnh vực nông - lâm nghiệp và
kinh tế nông thôn phải phát triển theo hướng chú trọng ứng dụng các tiến bộ kỹ
thuật để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, chuyển đổi cơ cấu giống, cây
trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng khí hậu của từng vùng, từ đó đòi hỏi
phải có lực lượng lao động có chất lượng cao. Hiện nay Lâm Đồng đang có sự
mất cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực, ở khu vực nông thôn, miền núi có số
lượng đông nhưng chất lượng thấp. Vì vậy đang đặt ra vấn đề giáo dục đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ cho người dân ở khu vực nông thôn, miền núi. Số lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nếu
số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (thừa hoặc thiếu) đều tác động
xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Giữa số lượng và chất lượng của nguồn
nhân lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ
gây khó khăn cho quá trình phân công lao động xã hội. Nếu nguồn nhân lực


×