Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

khóa luận tốt nghiệp Từ quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đến tư tưởng “lấy dân làm gốc”của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.45 KB, 66 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải đến lúc chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, quần chúng nhân dân
mới có vai trò to lớn đối với lịch sử. Ngay từ xa xưa, thuở bình minh của nhân
loại, lúc con người mới liên kết lại với nhau tạo nên các “cộng đồng” người, họ
đã biết sức mạnh của “bầy đàn”, luôn lớn hơn sức mạnh của cá thể. Khi các
hình thức tổ chức Nhà nước với những biến chuyển về “chất” lần lượt ra đời
thay thế nhau, cho dù là ở hình thức tổ chức nào đi chăng nữa, dù ở đó luôn có
các cá nhân kiệt xuất, những người con ưu tú của thời đại, đứng đầu dẫn dắt,
lãnh đạo đưa ra các quyết định có tính chất bước ngoặt cho lịch sử, nhưng chỉ
có các cá nhân, lãnh tụ, các vĩ nhân kiệt xuất không thôi chưa đủ, lịch sử khó
có thể sang trang mới, xã hội loài người khó tiến bộ nếu thiếu mất một lực
lượng cơ bản, lực lượng chủ yếu tạo nên các cuộc cách mạng xã hội, quyết định
sự phồn vinh hay suy thoái, tồn tại hay suy vong của xã hội: Đó chính là quần
chúng nhân dân.
Chỉ đến lúc chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, vai trò to lớn đó của quần
chúng nhân mới được khẳng định một cách đúng đắn, khoa học. Chủ nghĩa
Mác-Lênin khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân không chỉ giới
hạn trong phạm vi một lãnh thổ, một quốc gia, một dân tộc hay một thời đại
nào, mà nó đúng ở mọi thời đại, mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới.
Vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được khẳng định như là
một chân lý bất dịch, không chỉ là một quan điểm lý luận mà là một bộ phận
khăng khít của chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử. Hồ Chí Minh là lãnh
tụ đầu tiên ở Việt Nam đã tiếp thu quan điểm đó, vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh Việt Nam và phát triển nó trong điều kiện mới của lịch sử. Người đã
khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không
phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”[13; 7]. Hồ Chí Minh đã thấm
1



nhuần và tiếp thu tư tưởng “Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử thúc đẩy
lịch sử không ngừng phát triển” của chủ nghĩa Mác-Lênin và phát triển nó
trong điều kiện mới của lịch sử dân tộc với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”.
Quan điểm này có trong Nho giáo từ thế kỷ IV TCN. Ở Việt Nam, tư
tưởng này xuất hiện từ Trần Hưng Đạo. Đến thế kỷ XV nó được Nguyễn Trãi
mở rộng và hoàn thiện thêm, và sau này được nhiều nhà tư tưởng Việt Nam
không ngừng hoàn thiện: Lê Thánh Tông, Minh Mạng, Phan Bội Châu, v.v.
Hồ Chí Minh sau ngần 40 năm bôn ba nước ngoài và trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Người nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn chân lý “Nước
lấy dân làm gốc” mà khẳng định: “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”[15; 410]. Trong rất nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí
Minh luôn coi “Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc”.
Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong
triết học Mác-Lênin, đến tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh là hết
sức cần thiết. Trên cơ sở đó chúng ta hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về vai trò của
quần chúng nhân dân trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay và tương
lai.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Từ quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đến tư
tưởng “Lấy dân làm gốc”của Hồ Chí Minh” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân
dân và bài học “Lấy dân làm gốc” là vấn đề đã được khá nhiều tác giả nghiên
cứu dưới các góc độ khác nhau.
 Quan điểm triết học Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân
và cá nhân trong lịch sử được trình bày trong các giáo trình, các bài giảng
môn triết học Mác-Lênin và những tài liệu khác nhau, đặc biệt là các Giáo
trình triết học Mác-Lênin dùng trong các trường Cao đẳng, Đại học do Bộ


2


giáo dục và đào tạo biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, phát hành từ
năm 1992 đến nay.
 Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các trường Cao đẳng,
Đại học do Bộ giáo dục và đào tạo, biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003 đến 2009.
 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc”, của tác giả Phạm Bá
Lượng, Học Viện An Ninh, trên tạp chí Triết học, số 2 tháng 2/2005.
 Luận văn thạc sỹ “Quan điểm của triết học Mác-Lênin về vai trò quần
chúng nhân dân trong lịch sử và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
của Trần Văn Đặng, Huế - 2006.
 “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quần chúng nhân dân và bài
học “Lấy dân làm gốc” trong giai đoạn hiện nay” của Dương Thị Thu Hương,
khóa luận tốt nghiệp, năm 2003.
 Bài học “Lấy dân làm gốc” trong lịch sử tư tưởng Việt Nam với công
tác vận động quần chúng giai đoạn hiện nay”, của Nguyễn Thanh Niềm, khóa
luận tốt nghiệp, năm 2009.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi kế thừa có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu đó, đồng thời góp phần làm sáng tỏ thêm ý nghĩa tư tưởng “Lấy
dân làm gốc” của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân và tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh, từ đó vạch ra ý
nghĩa của quan điểm này đối với giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Nhiệm vụ:
 Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân.

 Chỉ ra những nội dung cơ bản của tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của
Hồ Chí Minh.

3


 Chỉ rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc” đã kế thừa và
phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân như thế nào.
 Chỉ rõ ý nghĩa của vấn đề này trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của quần chúng nhân dân.
Các phương pháp nghiên cứu của đề tài là: phương pháp phân tích-tổng
hợp, phương pháp logic-lịch sử, phương pháp đối chiếu-so sánh, v.v.
5. Đóng góp của đề tài
Khóa luận là một công trình nghiên cứu ở trình độ cử nhân. Vì vậy, tác
giả chỉ mong rằng được góp phần của mình vào việc làm rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về “Lấy dân làm gốc” đã kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân như thế nào.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể làm tài liệu học tập,
tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm 2 chương 4 tiết:
Chương1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân.
1.1. Quần chúng nhân dân, nhân tố quyết định lịch sử
1.2. Khái niệm và vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ trong lịch sử

Chương 2: Tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh.
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh
2.2. Nội dung tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh và ý nghĩa
của nó trong giai đoạn hiện nay

4


NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1.1. Quần chúng nhân dân, nhân tố quyết định lịch sư
1.1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định chủ thể chân chính sáng tạo ra và
quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử là quần chúng nhân dân. Quá
trình vận động, phát triển của lịch sử luôn diễn ra thông qua hoạt động của
đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ
chức, nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Bởi vì, mọi lý tưởng giải
phóng xã hội, giải phóng con người tự nó không biến đổi được hiện thực, mà
phải thông qua sự tiếp thu (nhận thức) và hoạt động thực tiễn của quần chúng
nhân dân. C.Mác đã viết: Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê
phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng vật
chất. Nhưng mỗi khi lý luận thâm nhập vào quần chúng thì sẽ trở thành lực
lượng vật chất.
Tuy nhiên, trong lịch sử, vì lợi ích giai cấp mà người ta đã đưa ra nhiều
quan điểm khác nhau, thậm chí là đối lập nhau về vai trò của quần chúng nhân
dân và cá nhân trong lịch sử. Tư tưởng tôn giáo, cho rằng mọi sự thay đổi trong
xã hội là do ý chí của đấng tối cao “thượng đế”, “chúa trời”, “mệnh trời”, được
cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của

các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc; lịch sử do lực lượng siêu
nhiên gọi là “thượng đế”, “chúa trời”, “mệnh trời”, “tinh thần tuyệt đối” sáng
tạo, còn quần chúng nhân dân chỉ là “lực lượng tiêu cực”, là “phiến diện”, là
“công cụ” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình. Nhìn chung giai
cấp thống trị bóc lột cho rằng vĩ nhân lãnh tụ đóng vai trò quyết định trong
việc sáng tạo ra lịch sử. Lý luận đó mang tính chất duy tâm và phản động với
mục đích cuối cùng là nhằm biện hộ cho sự bóc lột của giai cấp thống trị.
5


Cùng với quan điểm đúng đắn, khoa học về con người và bản chất của
con người, triết học Mác-Lênin đã lý giải một cách duy vật khoa học về quần
chúng nhân dân, cá nhân, vĩ nhân, anh hùng, lãnh tụ, về vai trò của quần
chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ trong lịch sử.
Quần chúng nhân dân là khái niệm mang tính lịch sử, gắn với những
hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Trong bất cứ giai đoạn phát triển nào, quần
chúng nhân dân đều được xác định bởi: Những người lao động sản xuất ra của
cải vật chất, đây là bộ phận hạt nhân của quần chúng nhân dân; Bộ phận dân
cư chống lại những lực lượng xã hội phản động ngăn cản sự tiến bộ xã hội;
Những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Khái niệm quần chúng nhân dân có sự thay đổi và phát triển trong lịch
sử, gắn liền với từng giai đoạn lịch sử, với những hình thái kinh tế-xã hội nhất
định, do đó nó là một phạm trù lịch sử. Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và
những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần chúng nhân dân bao hàm
những thành phần, những giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, chứ không
phải toàn bộ mọi người trong xã hội. Quần chúng nhân dân thay đổi theo lịch
sử, có thể trong giai đoạn lịch sử này họ là quần chúng nhân dân nhưng trong
giai đoạn khác họ không phải là quần chúng nhân dân nữa. Nhưng trong bất
kỳ giai đoạn nào của lịch sử quần chúng nhân dân cũng đều được xác định bởi
các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất: những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và của
cải tinh thần cho xã hội, đây là lực lượng hạt nhân cơ bản của quần chúng
nhân dân, do đó thường có tên gọi là quần chúng nhân dân lao động.
Quần chúng nhân dân không phải tất cả các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội, mà nó là bộ phận đông đảo của xã hội, trước hết là người lao động
sản xuất của cải vật chất và của cải tinh thần cho xã hội, là nhân tố quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, lực lượng lao động cơ
bản của thời đại là giai cấp công nhân.
Chính nguời lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, đã
sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Với sức mạnh về vật lực và trí lực của
6


mình người lao động đã tác động vào giới tự nhiên, cải tạo các dạng vật chất
tự nhiên, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất, đáp
ứng cho nhu cầu ngày càng cao của con người và xã hội. Cũng chính quá
trình lao động sản xuất đó, người lao động đã không ngừng được phát triển cả
về số lượng lẫn chất lượng lao động cả về thể lực lẫn trí lực. Ngày nay, cùng
với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình
độ lao động của quần chúng nhân dân ngày càng được nâng cao một cách rõ
rệt.
Thứ hai: những bộ phận dân cư chống lại những lực lượng xã hội
lạc hậu, phản động, giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân
dân.
Quần chúng nhân dân không phải tất cả các bộ phận dân cư trong xã
hội, mà chỉ bao gồm các giai cấp, các tầng lớp xã hội bị thống trị áp bức bóc
lột, đó chính là lực lượng xã hội đối kháng với giai cấp thống trị áp bức, bóc
lột. Chính lực lượng xã hội này đã thực hiện những cuộc đấu tranh giai cấp
chống lại giai cấp thống trị áp bức bóc lột, làm nên những cuộc cách mạng xã
hội đưa lịch sử xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao. Đây chính là lực

lượng cơ bản, là động lực chủ yếu của mọi cuộc cách mạng xã hội trong lịch
sử.
Thứ ba: những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hay gián tiếp trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Quần chúng nhân dân không phải mọi lực lượng trong xã hội nói
chung, mà nó chỉ bao gồm các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Là lực lượng
đối lập với giai cấp thống trị bóc lột, đối lập với bọn phản cách mạng, đối lập
với các lực lượng lạc hậu kìm hãm sự phát triển trong xã hội. Chính bằng các
hoạt động thực tiễn của mình, mà trước hết là lao động sản xuất của cải vật
chất, đấu tranh giai cấp và các hoạt động chính trị xã hội khác, quần chúng
nhân dân đã đóng vai trò quyết định làm thúc đẩy mọi mặt đời sống phát
triển, làm cho lịch sử xã hội không ngừng vận động, biến đổi từ thấp đến cao.
7


Ngày nay, quần chúng nhân dân bao gồm toàn bộ lực lượng tiến bộ của
nhân loại, trong đó lực lượng cơ bản là giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, đoàn kết đấu tranh phấn đấu thực hiện cho các mục tiêu cơ bản của thời
đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích cơ bản
gắn liền với một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, bao gồm những thành
phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh
đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Thực chất quần chúng nhân dân là sự liên kết những cá nhân thành một
khối thống nhất được xây dựng trên cơ sở nền tảng là lợi ích cơ bản nhằm
thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Do đó quần chúng nhân dân là một
phạm trù lịch sử, vận động và biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
1.1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

Con người sáng tạo ra lịch sử, song vai trò quyết định đối với sự phát
triển xã hội là ở một cá nhân đặc biệt hay quần chúng nhân dân đông đảo?.
Trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, các trường phái triết học trước
Mác đều chưa nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân. Tư tưởng tôn
giáo và chủ nghĩa duy tâm cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do
ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên và trao quyền cho các cá nhân
thực hiện, lịch sử chỉ còn là lịch sử của cá nhân lãnh đạo, nắm quyền lực cùng
với tư tưởng của họ, quần chúng nhân dân chỉ là vật mang công cụ thực hiện
tư tưởng của các “đấng bề trên” mà thôi. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẩn
chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội, khi cho rằng nhân tố quyết định
sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới
sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu. Khi đề cao vai trò quần chúng nhân
dân, thì lại phủ nhận vai trò vĩ nhân hoặc không lý giải được một cách khoa
học vai trò quần chúng nhân dân.
Với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách
khoa học vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn
8


mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân kiệt xuất trong sự phát
triển của xã hội. Chính quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra
lịch sử, xã hội, và cá nhân kiệt xuất là sản phẩm của thời đại là người lãnh đạo
quần chúng nhân dân đấu tranh, làm cách mạng thắng lợi. Bởi vì, mọi lý
tưởng giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và
hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự do không làm biến
đổi xã hội mà phải thông qua hoạt động cách mạnh, hoạt động thực tiễn của
quần chúng nhân dân (để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời
sống xã hội).
Chính lý luận sắc bén mang tính khoa học và cách mạng chủ nghĩa
Mác-Lênin đã bác bỏ luận điểm của các nhà triết học duy tâm và duy vật

không triệt để trước đó. Đây chính là bước chuyển biến cách mạng trong nhận
thức về lịch sử, về sự phát triển của xã hội. Đó chính là căn cứ khoa học để
giai cấp công nhân, để chính đảng vô sản xây dựng đúng đắn đường lối chiến
lược và sách lược đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản đến thắng lợi
hoàn toàn. Đó cũng là biểu hiện tính khoa học, cách mạng và đậm đà tính
nhân văn, nhân bản của lý luận Mác-Lênin, vì mục đích giải phóng giai cấp,
giải phóng nhân loại đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho con người.
Vai trò của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã
hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
Chúng ta biết rằng, con người muốn tồn tại trước hết cần phải thỏa mãn
những nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, mặc... Để đáp ứng những nhu cầu đó,
người ta phải không ngừng sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất là
hoạt động của toàn bộ xã hội, chứ không phải của một cá nhân nào. Trong đó
lực lượng cơ bản đông đảo và quyết định là quần chúng nhân dân. Trong quá
trình lao động sản xuất, loài người càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và
hiểu biết về giới tự nhiên, cải tiến kỹ thuật sản xuất, công cụ sản suất, cải tiến
9


tổ chức quản lý nâng cao năng suất lao động. Nghĩa là không ngừng phát triển
lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự
thay đổi của quan hệ sản xuất cho phù hợp. Điều đó cũng làm cho phương
thức sản xuất của xã hội thay đổi và phát triển.
Lao động sản xuất ra của cải vật chất của quần chúng nhân dân là
yêu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Quá
trình sản xuất vật chất, chế tạo và cải biến công cụ lao động là hoạt động
của toàn bộ xã hội chứ không phải của một cá nhân. Lực lượng sản xuất

cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm lao động chân
tay và lao động trí óc. Người ta chỉ có thể sản xuất được bằng cách hợp
tác với nhau theo một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau.
Thực tiễn sản xuất của loài người, của quần chúng nhân dân là cơ sở và
là động lực, phát triển của khoa học-kỹ thuật. Khoa học không có lý do tồn tại
nếu không có hoạt động sản xuất. C.Mác, Ph.Ăngghen đã từng nói: “Chính
con người khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình
đã làm biến đổi cùng với sự tồn tại của mình cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy
của mình”[12; 277].
Đến lượt nó khoa học lại thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất
lao động. Khoa học-kỹ thuật cũng không hoạt động riêng lẻ của một số cá
nhân nào. Ngày nay, nhân dân lao động trước hết là giai cấp công nhân và đội
ngũ trí thức là lực lượng cơ bản của nền sản xuất hiện đại, trí tuệ cao. Nền sản
xuất xã hội sẽ sa sút, kém hiệu quả nếu tài năng trí tuệ, năng suất lao động của
đông đảo những người lao động không được phát huy, không được nâng cao.
Trong trường hợp đó khoa học cũng khó phát triển. Đó là cơ sở để khẳng định
hoạt động sản xuất của quần chúng là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai: quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội.
Quần chúng nhân dân không chỉ là lực lượng quyết định sự phát triển
của sản xuất, mà còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
10


Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng, giữa giai cấp
thống trị và giai cấp lao động bị trị. Khi quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng
xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn giai
cấp đối kháng không thể dung hòa, điều hòa được, tất yếu dẫn đến đấu tranh

giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát triển đến giai đoạn đỉnh cao của nó sẽ thực
hiện cuộc cách mạng xã hội để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thiết lập quan hệ
sản xuất mới, giải phóng lực lượng sản xuất hình thành phương thức sản xuất
cao hơn. Cách mạng xã hội sẽ xóa bỏ chế độ xã hội cũ, thiết lập chế độ xã hội
mới tiến bộ hơn.
Quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng cơ bản của cách mạng,
đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các cuộc
cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế-xã hội, quần chúng nhân dân
tham gia đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành thắng lợi.
Cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, là sự nghiệp của quần
chúng chứ không phải sự nghiệp riêng của một cá nhân, anh hùng nào. Lịch
sử của xã hội loài người đã chứng minh điều đó.
Chính trong thời kỳ bão táp cách mạng, vai trò chính trị của quần
chúng được thể hiện, đặc biệt nổi bật nhất là các cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản lãnh đạo. Trong thời kỳ lịch sử này, quần chúng nhân dân được
thức tỉnh một cách mạnh mẽ với một tinh thần nhiệt huyết và tự giác cao
làm cho lịch sử tiến nhanh với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”.
Đánh giá về điều này Lênin nói: “Cách mạng là ngày hội của những
người bị áp bức và bị bóc lột. Không lúc nào như trong thời kỳ cách mạng mà
quần chúng nhân dân tỏ ra là người sáng tạo tích cực như thế trong việc xây
dựng trật tự mới. Trong những thời kỳ ấy nhân dân có thể làm nên những sự
việc kỳ diệu”[10; 13].
Cách mạng là sự nghiệp của bản thân quần chúng, không có sự
tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân thì không thể có
những chuyển biến cách mạng trong lịch sử. Các cuộc cách mạng xã hội
11


trong lịch sử đã chứng tỏ rằng sự chuyển biến từ chế độ xã hội này sang
chế độ xã hội khác, là sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân.

Ngay cả trong thời kỳ hòa bình, tức khi cuộc đấu tranh giai cấp của
quần chúng nhân dân chống lại bọn thống trị áp bức, bóc lột chưa chuyển
thành cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân cũng có tác dụng thúc đẩy mọi
lĩnh vực đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ
thuật,.. phát triển. Không những thế nó còn có tác dụng cải tạo ngay chính cả
bản thân giai cấp cách mạng.
Chính vì vậy, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân là ngày
hội của quần chúng nhân dân, là động lực của những biến cố lịch sử.
Thứ ba: quần chúng nhân dân chính là người sáng tạo ra những giá
trị văn hóa, tinh thần.
Quần chúng nhân dân chẳng những đóng vai trò quyết định trong sản
xuất vật chất, trong cách mạng xã hội, mà còn đóng vai trò vô cùng to lớn
trong sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học,.. đồng thời áp dụng
những thành tựu đó trong hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học,
nghệ thuật, xã hội, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân
vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh
thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân
từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong
đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn
khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở
thành giá trị phổ biến.
Nói về vai trò quần chúng nhân dân trong sáng tạo nghệ thuật,
Hồ Chí Minh nhận định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những
của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa... Những
sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”[8; 623-624].
Quần chúng nhân dân còn là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ nền văn hóa
dân gian trong lịch sử. Họ là chủ thể của những câu chuyện thần thoại, chuyện
12



cổ tích, của kho tàng ca dao tục ngữ, dân ca, của những bức họa tinh tế,
những nét hoa văn của nhiều sáng tác nghệ thuật độc đáo... Những nền văn
học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. Đánh giá
nền văn học dân gian cổ Hy Lạp, C.Mác viết: “Thần thoại Hy Lạp không
những cấu thành kho tàng của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là miếng đất đã nuôi
dưỡng nghệ thuật Hy Lạp nữa”[8; 624].
Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mãi với dân tộc Việt Nam và nhân
dân thế giới, chính là vì tác phẩm đó phản ánh sinh động cuộc sống, tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, đồng thời thừa kế những tinh hoa văn học dân
gian, nhất là ca dao, dân ca, tục ngữ.
Trong xã hội có áp bức giai cấp, quần chúng lao động không có điều
kiện nghiên cứu, phát minh khoa học, song vẫn có không ít nhà khoa học tài
năng xuất thân từ quần chúng lao động. Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
là sự khái quát thực tiễn lao động sản xuất, chế ngự thiên nhiên và đấu tranh
xã hội của quần chúng nhân dân.
Đông đảo quần chúng nhân dân với hoạt động thực tiễn của họ, là cơ sở
sản xuất tinh thần của xã hội. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định
trong sự phát triển lịch sử, những vai trò đó trong từng thời kỳ cụ thể không
giống nhau. Vai trò ấy được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng
thoát khỏi sự trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những
tập quán lạc hậu, và được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng.
Do đó, C.Mác nói: “Tư tưởng một khi thâm nhập vào quần chúng sẽ biến
thành lực lượng vật chất. Đó là những tư tưởng phản ánh đúng ý nguyện và
lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng, chỉ ra được những nhiệm vụ lịch sử
đã chín muồi mà quần chúng nhân dân cần thực hiện”[8; 625].
Dưới chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân thực sự trở thành
chủ thể sáng tạo và hưởng thụ những của cải tinh thần. Chủ nghĩa xã hội
một mặt đã tạo ra được những điều kiện khách quan về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội,.. mà trước hết là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,

nhân tố đóng vai trò quyết định đảm bảo cho quần chúng nhân dân trở
13


thành người làm chủ xã hội nói chung và chủ thể sáng tạo, hưởng thụ
những của cải tinh thần nói riêng, đời sống của quần chúng nhân dân
không ngừng được cải thiện và nâng cao nói chung, đặc biệt là trình độ
văn hóa, khoa học-kỹ thuật. Mặt khác chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi quần
chúng nhân dân phải thực sự là chủ thể của những của cải tinh thần, phải
đem hết khả năng, lòng nhiệt tình, tính tự giác của mình để sáng tạo và
hưởng thụ những của cải tinh thần đó.
Tóm lại, xét từ góc độ kinh tế-chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư
tưởng thì quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Từ khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch
sử, thì một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin vê
vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản là “Liên minh
công-nông”.
Khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở Châu Âu, nhất là Anh,
Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên
minh công-nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên
nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân
không tổ chức được mối liên minh với “người bạn đồng minh tự nhiên” của
mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này giai cấp công
nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành “bài ca ai
điếu”.
Để thực hiện khẳ năng đưa cách mạng tư sản vượt qua mục tiêu ban
đầu của nó tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì giai cấp công nhân phải
thực hiện được sự liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp tiểu tư sản
thành thị để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
C.Mác kết luận về cách mạng Pháp (1848-1850) như sau: “Công nhân

Pháp không thể tiến lên được một bước nào và cũng không thể đụng đến một
sọi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp
vô sản và tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản nổi dậy chống chế độ

14


tư sản, chống sự thống trị của tư bản chưa bị tiến trình của cách mạng buộc
phải đi theo những người vô sản coi là đội tiên phong của mình”[5; 146-147].
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã
vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh
công-nông và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ không chỉ có
liên minh công-nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay
cả trong chuyên chính vô sản, V.I.Lênnin khẳng định: “Chuyên chính vô sản
là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên
phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, tri thức, ... )”[1; 186].
Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên
minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại,
rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục tiêu chung do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
Trong một nước công nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai
cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I.Lênnin đặc biệt lưu ý mối
liên minh công-nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nguyên
tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản
và nông dân để giai cấp có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà
nước”[1; 186].
Qua khối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông
dân được tập hợp cùng thực hiện mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa

xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đây là
điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu
về mặt chính trị-xã hội, là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng vô sản.
Vậy, để giai cấp công nhân - là đội tiên phong, là người lãnh đạo
quần chúng nhân dân - hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải liên minh công-nông.

15


Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, đương nhiên sự liên minh
giữa các giai cấp về chính trị cũng rất cần thiết, nhằm cũng cố và xây dựng
chính quyền cách mạng. Nhưng sự liên minh về kinh tế mới là chủ yếu, ngay
liên minh chính trị cũng cần được cũng cố trên cơ sở kinh tế, Lênin đã nói:
“lúc này chính trị ngay trong kinh tế”.
Lênin còn chỉ ra cách mạng chủ nghĩa xã hội ở một nước mà số đông
nhân dân là nông dân thì chỉ có thể giành thắng lợi với điều kiện có sự thỏa
thuận về kinh tế giữa giai cấp công nhân và nông dân lao động. Theo Lênin,
liên minh công - nông - trí cần được bảo đảm vững chắc về kinh tế, không
phải chỉ trên cơ sở tôn trọng quyền sử dụng ruộng đất của nông dân, mà phải
trên cơ sở mới. Đó là tạo điều kiện cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp
phát triển, thực hiện giao lưu sản phẩm hàng hóa giữa thành thị và nông thôn,
đảm bảo đời sống của quần chúng công - nông - trí thức. Do đó vai trò của thị
trường, thương nghiệp, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, giao thông vận tải trở nên
cực kỳ quan trọng.
Liên minh công - nông - trí hợp thành đội quân chủ lực hùng mạnh làm
hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân, không những đảm bảo vai trò lãnh
đạo của các giai cấp công nhân và giữ vững chính quyền cách mạng mà xét
đến cùng còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của một nước.
Trong khối liên minh ấy, giai cấp nông dân là người bạn đồng hành chiến

lược của giai cấp công nhân trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Thực tế lịch sử chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường
hoặc phủ nhận vai trò của lực lượng xã hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ
đến việc xây dựng, cũng cố khối liên minh công - nông trong các giai đoạn và
các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp công nhân vào một hoàn cảnh
phải chiến đấu đơn độc và đó là một sai lầm chính trị nghiêm trọng.
Do đó khi đánh giá vai trò của giai cấp nông dân nhận rõ tính tất yếu
của sự liên minh công - nông cần khẳng định sự liên minh này là một sự liên
minh “đặc biệt”, trong đó giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo, sự liên
minh có ý nghĩa chiến lược, chẳng những chỉ nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột
16


mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng một chế độ xã hội mới
văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, vai trò của quần chúng nhân dân và
vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt
xuất là sản phẩm của thời đại, đại diện cho lợi ích và ý chí của quần chúng. Chỉ
những cá nhân như thế mới được quần chúng nhân dân công nhận là người lãnh
đạo thực sự của họ. Do vậy, khi xem xét vai trò của quần chúng nhân dân cần
đặt nó trong mối quan hệ với vai trò của cá nhân.
1.2. Khái niệm và vai trò của vĩ nhân, lãnh tụ trong lịch sư
1.1.1. Khái niệm vĩ nhân, lãnh tụ
Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với lịch sử,
triết học Mác-Lênin không hề xem nhẹ hoặc phủ nhận vai trò của vĩ nhân, anh
hùng, lãnh tụ, nhân vật xuất sắc trong sự phát triển của xã hội.

 Khái niệm vĩ nhân
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành trong phong trào của
quần chúng, nắm bắt được những vấn đề cơ bản nhất trong lĩnh vực nhất định

của hoạt động khoa học và thực tiễn.
Đó là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
khoa học, văn hóa nghệ thuật... Sự xuất hiện của những cá nhân, lãnh tụ là
một điều tất nhiên do đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân. Ăngghen chỉ rõ: “Thật là điều ngẫu nhiên thuần túy, mà một
vĩ nhân nào đó xuất hiện ở một thời nhất định nào đó, điều ấy là hoàn toàn
ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta phế bỏ người ấy đi, thì lại xuất hiện sự đòi
hỏi phải có một người khác thay thế và người thay thế này sẽ xuất hiện thích
hợp ít hay nhiều nhưng cuối cùng thì cũng xuất hiện”[8; 626].
Nhận định trên đây nói lên rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch
sử không hề coi nhẹ mà ngược lại các ông đã đánh giá rất cao vai trò của cá
nhân kiệt xuất, lãnh tụ sáng suốt.
 Khái niệm lãnh tụ

17


Lãnh tụ là vĩ nhân, nhưng đồng thời là người dẫn dắt, định hướng cho
hoạt động của dân tộc, của quần chúng nhân dân. Phẩm chất cơ bản của lãnh
tụ là: Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu hướng vận động của
dân tộc, quốc tế và thời đại; Có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống
nhất ý chí và hành động của họ hướng vào nhiệm vụ cụ thể của dân tộc hoặc
của thời đại; Hy sinh quên mình cho lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Các phẩm chất cơ bản của lãnh tụ gồm có:
Một là: có tri thức khoa học uyên bác nắm bắt được xu thế vận động
của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là: có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí
và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế
và thời đại.
Ba là: gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, nguyện hy sinh quên

mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào nếu lịch sử đặt ra những nhiệm
vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất
hiện những lãnh tụ đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Lênin viết: “Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu không đào tạo
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo”[5; 487-488].
1.1.2. Vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ
Vĩ nhân-lãnh tụ có vai trò là người có thể thúc đẩy nhanh tiến trình
cách mạng, mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của quần chúng nhân
dân, nếu họ hiểu và vận dụng đúng quy luật khách quan. Song họ cũng là
người có thể làm lùi bước lịch sử nếu họ làm trái quy luật. Vĩ nhân-lãnh tụ là
người sáng lập các tổ chức chính trị-xã hội, tập hợp nhân tài và là linh hồn
của các tổ chức đó. Không có vĩ nhân-lãnh tụ cho mọi thời đại, vĩ nhân-lãnh
tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong thời đại đó,
vượt qua giới hạn của thời đại, vĩ nhân-lãnh tụ có thể mất đi vai trò tiên phong
của họ.
18


Vĩ nhân-lãnh tụ không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là kết quả của quá
trình đấu tranh cách mạng của đông đảo quần chúng nhân dân, của cả một quá
trình lịch sử tạo nên những điều kiện nhất định, cho việc xuất hiện những
nhân vật với tài năng và đức tính nhất định có thể giải quyết những nhiệm vụ
do lịch sử đề ra. Do đó, vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ lại càng cần thiết đối với
hoạt động chính trị, đối với đấu tranh giai cấp của quần chúng bị bóc lột, bị áp
bức nhằm lật đổ xã hội cũ, xây dựng nên xã hội mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên,
vai trò to lớn của các vĩ nhân-lãnh tụ chỉ được phát huy khi quan hệ mật thiết
với quần chúng, được quần chúng tin yêu và tích cực ủng hộ.
Vĩ nhân-lãnh tụ có vai trò to lớn quan trọng đối với phong trào quần

chúng. Vì họ là những người có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân phát triển mạnh mẽ, đúng hướng đạt tới những thành quả
to lớn nhất. Họ có tác dụng động viên, cổ vũ và tổ chức đông đảo quần chúng
nhân dân làm nên những sự nghiệp vĩ đại. Lịch sử vận động và phát triển theo
xu hướng tất yếu của nó, vẫn mang dấu ấn sự lãnh đạo của các vĩ nhân anh
hùng xét về mặt tốc độ, bước đi, hình thức của phong trào. Nếu một nhân vật
lãnh đạo phạm sai lầm sẽ làm tổn thất cho phong trào, còn một nhân vật lãnh
đạo có lập trường không kiên định, thiếu quả quyết sẽ làm cho phong trào có
lúc ngã nghiêng. Nhưng vô luận tốc độ, bước đi, hình thức như thế nào đi nữa
thì phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân vẫn phát triển theo chiều
hướng khánh quan của nó.
Vai trò của cá nhân anh hùng, lãnh tụ được thể hiện nổi bật trong những
thời điểm cấp bách của lịch sử, khi lịch sử đặt ra cho một giai cấp, một dân tộc
phải giải quyết những tình huống khó khăn và phức tạp để tiếp tục tiến lên, nhất
là trong thời kỳ cách mạng. Lúc này sự sáng suốt, tỉnh táo của lãnh tụ có một tác
dụng hết sức quan trọng đối với diễn biến của tình hình. Đặc biệt với phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp bị áp bức bóc lột khác, nhằm
thủ tiêu các chế độ tư hữu xây dựng nên một xã hội mới, dựa trên nền tảng chế
độ công hữu thì vai trò tổ chức, lãnh đạo của vĩ nhân-lãnh tụ lại càng quan trọng.
Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Mác-Lênin và lãnh tụ xuất sắc nhất của
19


Đảng có nhiều kinh nghiệm và nhận thức đúng đắn quy luật khách quan, thì nhất
định sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản không thể thắng lợi. V.I.Lênin
viết: “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu như
nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị, những đại
diện tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[8; 626].
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ có nhiệm
vụ chủ yếu sau:

* Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết
những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
* Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách
mạng.
* Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng thống
nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân nhằm hướng vào giải quyết
mục tiêu cách mạng đề ra.
Từ nhiệm vụ trên thì vĩ nhân-lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong
trào quần chúng như sau:
Một là: thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội.
Hai là: là người sáng lập ra các tổ chức chính trị-xã hội, là linh hồn của
các tổ chức đó. Là người tổ chức, điều khiển, quản lý và có vai trò ảnh hưởng
lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt động của các tổ chức đó.
Ba là: vĩ nhân-lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những
nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vai trò của quần chúng
và vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau, trái lại có
quan hệ khăng khít với nhau. Hai vai trò đó tuy khác nhau nhưng quan hệ mật
thiết với nhau, trong đó vai trò quần chúng nhân dân là quyết định, không có
vai trò của quần chúng nhân dân thì không thể có vĩ nhân-lãnh tụ. Lãnh tụ là
lãnh tụ của quần chúng, anh hùng là anh hùng của tập thể, là con đẻ của
phong trào cách mạng, có nhiệm giải quyết những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra
đưa phong trào đi lên. Cá nhân ưu tú, lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ
20


của phong trào quần chúng nên sức mạnh trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần
chúng nhân dân.
Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân với vĩ
nhân-lãnh tụ được biểu hiện:

* Tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ được
quy định bởi không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân,
không có các quá trình kinh tế-xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân thì
không thể xuất hiện vĩ nhân-lãnh tụ.
* Quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ thống nhất trong mục đích
và lợi ích của mình.
* Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ biểu hiện
trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cũng đóng vai trò
quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng
nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định
hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Nếu những vĩ nhân-lãnh tụ, anh hùng đó vì động cơ cá nhân, vì lợi ích
riêng mà tách ra khỏi quần chúng nhân dân thì nhất định họ bị mất tác dụng
và bị quần chúng nhân dân vượt qua. Không được quần chúng nhân dân kính
yêu và ủng hộ thì cá nhân đó cho dù có tài năng đến đâu cũng không còn gây
được ảnh hưởng, mà làm cản trở tiến trình lịch sử.
Sở dĩ, những vĩ nhân-lãnh tụ, anh hùng phát huy được tác dụng tích
cực đối với lịch sử, là nhờ hoạt động của họ gắn với tiến trình xã hội, phù hợp
với nguyện vọng và lợi ích của quần chúng. Nhờ đó, họ tập hợp được quần
chúng, động viên được quần chúng. Hết sức hết lòng vì lợi ích của quần
chúng nhân dân, dám hy sinh bản thân mình vì tập thể, vì nhân dân mà vĩ
nhân-lãnh tụ được quần chúng nhân dân ra sức ủng hộ. Như vậy, sức mạnh
của vĩ nhân-lãnh tụ không nằm ở đâu ngoài sức mạnh của quần chúng nhân
dân.
Giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động các dân tộc bị áp
bức trên thế giới vô cùng tự hào về những vị lãnh tụ thiên tài có đầy đủ năng
21


lực và phẩm chất lãnh đạo giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao

động làm cách mạng, đó là: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Tên tuổi của
các vị lãnh tụ ấy mãi mãi gắn liền với phong trào cách mạng của thế giới và
thời đại.
Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam còn
có thêm sự tự hào về vĩ nhân-lãnh tụ Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời gắn bó
với quần chúng nhân dân, có lòng thương yêu vô hạn đối với quần chúng
nhân dân. Ở Người đã kết tinh những phẩm chất tiêu biểu nhất của một lãnh
tụ vô sản, lãnh tụ dân tộc. Người là một vị anh hùng giải phóng dân tộc, một
danh nhân văn hóa thế giới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá rất cao vai trò của các vĩ nhân-lãnh tụ
anh hùng trong sự phát triển của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng
bái vĩ nhân-lãnh tụ.
Tệ sùng bái vĩ nhân-lãnh tụ là thần thánh hóa vĩ nhân-lãnh tụ, người
lãnh đạo đi đến chỗ chỉ thấy vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ quyết định tất cả, mà
không thấy hoặc coi nhẹ vai trò của quần chúng nhân dân.
Tệ sùng bái vĩ nhân-lãnh tụ sẽ dẫn đến những hạn chế hoặc tước bỏ
quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng
vào chính ngay sức mạnh của bản thân mình, có thái độ phục tùng tiêu cực
không phát huy được tính năng động sáng tạo của họ trong sự nghiệp cách
mạng.
Khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, nếu người đứng đầu
Đảng và Nhà nước mắc phải tệ sùng bái vĩ nhân-lãnh tụ thì sẽ gây ra nhiều tác
hại cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc.
Những người mắc tệ sùng bái vĩ nhân-lãnh tụ thường thần thánh hóa
bản thân mình, đặt mình lên trên tập thể, trên Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Họ tự coi mình là “cứu tinh” của quần chúng nhân dân, là người quyết định
mọi đường lối, chính sách của cách mạng, còn những người khác chỉ có
nhiệm vụ phục tùng theo ý muốn chủ quan của mình. Tệ sùng bái cá nhân còn
dẫn đến hậu quả vi phạm quyền dân chủ, chia rẽ, bè phái phá hoại đoàn kết
22



trong Đảng, trong nhân dân, tạo ra tình trạng mất lòng tin của cán bộ và quần
chúng.
Vì thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn coi sùng
bái cá nhân, vĩ nhân-lãnh tụ là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất,
mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô
sản như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức khiêm tốn,
gần gũi với nhân dân, đề cao vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân,
xứng đáng là những vĩ nhân kiệt xuất mà toàn thể loài người tôn kính và
ngưỡng mộ.
Triết học Mác-Lênin phê phán tệ sùng bái cá nhân, vĩ nhân-lãnh tụ,
điều đó không có nghĩa là coi thường cá nhân, vĩ nhân, anh hùng, lãnh tụ. Trái
lại, luôn luôn giáo dục quần chúng nhân dân luôn tôn trọng và kính yêu vĩ
nhân-lãnh tụ, kiên quyết chống lại mọi luận điệu của bọn phản động, bọn cơ
hội chủ nghĩa nhằm hạ thấp đi đến đã kích vào các lãnh tụ của giai cấp vô sản.
Mặt khác, triết học Mác-Lênin cũng luôn luôn đặt vai trò lãnh tụ trong mối
quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân.
Như vậy, triết học Mác-Lênin đã đưa ra một quan điểm khoa học
và cách mạng về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử. Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, nó được thay đổi
theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng quần chúng nhân
dân luôn là người quyết định làm nên lịch sử. Trong bất kỳ thời đại nào quần
chúng nhân dân cũng là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Vĩ nhân, lãnh
tụ, anh hùng có vai trò to lớn quan trọng đối với phong trào quần chúng, đối
với sự phát triển của lịch sử, vì họ là người giác ngộ, hướng dẫn, tổ chức quần
chúng sáng tạo ra lịch sử. Vai trò của vĩ nhân, anh hùng, lãnh tụ luôn được đặt
trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân.
Tóm lại: Trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, các nhà triết học duy
tâm và duy vật đều không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân và

mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với vĩ nhân-lãnh tụ.

23


Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi thay đổi trong xã hội đều do ý chí của
đấng tối cao và được các cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho rằng lịch
sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi
lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng tiêu cực, là phương tiện của
các bậc vĩ nhân mà thôi. Các nhà triết học duy vật trước Mác tuy không tin
vào thần linh, thượng đế, nhưng cũng không hiểu được vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử, nếu họ không tuyệt đối hóa vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ
thì cũng rơi vào tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà phủ định
vai trò của vĩ nhân lãnh tụ.
Mãi đến chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời và phát triển mới có quan điểm
đúng đắn, khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân với
vĩ nhân-lãnh tụ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: “Quần chúng nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử và là chủ thể của lịch sử”, bởi lẽ:
Họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của lịch
sử (là lượng sản xuất trực tiếp và cơ bản của mọi giai đoạn phát triển của lịch
sử).
Họ là chủ thể của hoạt động cải biến các quá trình kinh tế-xã hội
(là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội).
Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa
là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: “Vĩ nhân-lãnh tụ có vai trò là người
có thể thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao nhất cho
hoạt động của quần chúng nhân dân nếu họ hiểu và vận dụng đúng quy luật
khách quan. Song họ cũng là người có thể làm lùi bước lịch sử nếu họ làm trái

quy luật. Vĩ nhân-lãnh tụ là người sáng lập các tổ chức chính trị-xã hội, tập
hợp nhân tài và là linh hồn của các tổ chức đó. Không có vĩ nhân-lãnh tụ cho
mọi thời đại, vĩ nhân-lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ
đặt ra trong thời đại đó, vượt qua giới hạn của thời đại vĩ nhân-lãnh tụ có thể
mất đi vai trò tiên phong của họ”.
24


Vĩ nhân-lãnh tụ có vai trò đó bởi lẽ, từ những phẩm chất cơ bản của họ
đã quy định họ có các chức năng: Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời
đại dựa trên cơ sở những hiểu biết quy luật khách quan của các quá trình kinh
tế - chính trị - xã hội; Định hướng chiến lược, hoạch định chương trình hành
động cách mạng; Tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân
dân và thống nhất hành động của họ vào những vấn đề then chốt nhất.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò vĩ nhân-lãnh tụ, nhưng kiên
quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân thường dẫn đến bè phái,
mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như xu nịnh, quan liêu, gia
trưởng ... Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn
toàn xa lạ với hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh, vĩ nhân-lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam và phong
trào công nhân, phong trào cộng sản quốc tế và của nhân loại tiến bộ, suốt đời
luôn gắn bó với quần chúng nhân dân, yêu thương và hết mực tôn trọng quần
chúng nhân dân. Người luôn căn dặn cán bộ, Đảng viên phải học hỏi ở dân,
phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên từ cuối giữa đầu thế kỷ XX, đã xác định
đúng vai trò của trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc tuân thủ con
đường cách mạng vô sản, lấy liên minh công-nông-trí thức làm nguyên tắc
cao nhất
Liên minh công-nông-trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của

giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển
của trí thức.
Liên minh công-nông-trí thức là sự hợp tác toàn diện giữa công nhân,
nông dân và trí thức trong tất cả các mặt khác nhau của đồi sống xã hội.
- Nội dung liên minh về kinh tế: nhằm thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích
kinh tế của công nhân, nông dân và trí thức.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công-nông-trí
thức dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây
25


×