Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.02 KB, 15 trang )

LI M U

Trong xã hội có rất nhiều dạng quan hệ giữa ngời với ngời. Trong đó quan hệ
giai cấp và quan hệ dân tộc là hai mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ và
trực tiếp tới bản thân con ngời nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vì vậy
nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc là rất cần thiết. Mác- Lênin và chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc, quan hệ giữa chúng với nhau và với
toàn nhân loại rất chi tiết, khoa học, có hệ thống và đợc ứng dụng vào việc xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ cho chúng ta
thấy rằng, khi nào và ở đâu và vấn đề giai cấp và và vấn đề dân tộc không đợc kết
hợp một cách đúng đắn, quan điểm giai cấp, vấn đề dân tộc đợc vận dụng, xử lý
một cách cứng nhắc và giáo điều hoặc bị coi nhẹ thì cách mạng sẽ không chỉ gặp
khó khăn mà thậm chí còn bị tổn thất nặng nề. Bài học đó thực sự là bổ ích, cần đợc
ghi nhận và vận dụng vào việc xem xét các vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và
mối quan hệ của chúng với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay và trong giai
đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ khi mà nền kinh tế nớc nhà phát triển mạnh mẽ
theo hớng thị trờng và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ đem lại cho
chúng ta nhiều cơ hội nhng cũng kéo theo đầy rẫy những thách thức, nguy cơ và
không ít khó khăn.

1


I.Cỏc quan nim v dõn tc v giai cp:
1.Quan nim v giai cp:
Quan nim trc Mac cho rng giai cp l mt tp hp nhng ngi cú cựng
mt chc nng xó hi,cựng mt li sng hoc mc sng,cựng mt a v v uy tớn
xó hi.Quan nim ú ch l m h, khụng i vo c trng c bn ca xó hi.Cỏc
lý thuyt ú trỏnh ng n vn c bn c bit l cỏc vn quan h sn xut
v t liu sn xut.
Quan nim ca ch ngha Mac-LờNin: Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lê


Nin định nghĩa: Ngời ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những ngời
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ( thờng thờng thì những quan hệ này đợc pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những t liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội, và nh vậy là khác nhau về cách hởng thụ và về phần của cải xã hội
ít nhiều mà họ đợc hởng. Giai cấp là những tập đoàn ngừơi, mà tập đoàn này có thể
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Mỗi giai cấp có những đặc trng riêng, giai cấp không phải là sản phẩm của sản
xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử. Mỗi giai cấp về bản chất là thể thống nhất của các mặt đối lập vì vậy muốn hiểu
đợc đặc trng của giai cấp phải đặt nó trong hệ thống các giai cấp đối lập với nó.
Mi giai cp khỏc nhau v vic nm gi t liu sn xut trong cựng xó
hi,khỏc nhau v vai trũ qun lý, phõn cụng lao ng xó hi, khác nhau về phân
phối sản phẩm, khác nhau về địa vị trong nền sản xuất.Nh vy giai cp khụng
phi l phm trự xó hi thụng thng m l phm trự kinh t, xó hi cú tớnh cht
lch s.
Giai cp c hỡnh thnh da trờn hai con ng. Những kẻ có chức có quyền
trong thị tộc, bộ lạc dùng quyền uy của mình để chiếm đoạt t liệu sản xuất làm của
riêng từ đó hình thành giai cấp thống trị. Tù binh bắt đợc trong những cuộc chiến
tranh bị biến thành nô lệ, còn bao gồm cả những ngời nghèo khổ trong thị tộc, bộ
lạc bị mất hết t liệu sản xuất.
2. Quan nim v dõn tc:
Khái niệm: Để chỉ một cộng đồng ngời ổn định làm thành nhân dân một nớc có
lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý thức về sự thống
nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về: chính trị, kinh tế, truyền
2


thống, văn hoá,truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nớc và bảo

vệ đất nớc.
Dõn tc ra i cựng vi s ra i ca ch ngha t bn. Dõn tc cú tớnh thng
nht cao va n nh bn vng m bo bi nguyờn tc phỏp lý cao,tụn trng quyn
t quyt ca mi dõn tc. Trong qua trỡnh phỏt trin ca mỡnh mi dõn tc u cú
s thc tnh v ý thc dõn tc,thc tnh v quyn sng ca mỡnh.Cỏc dõn tc Các
dân tộc muốn liên hiệp với nhau dựa trên nguyên tắc bình đẳng nhằm có sự giao lu
kinh tế và văn hoá trong xã hội t bản xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách
giữa các dân tộc.iu ny to ra s t ch,phn do nhng tinh hoa, nhng giai tr
ca nhng dõn tc, b sung cho nhau.Nhng giỏ tr chung hũa quyn ú khụng
xúa nhũa nhng c thự dõn tc m ngc li,nú m bo lu,gi gỡn, phỏt huy
nhng tinh hoa, bn sc dõn tc.
Ch ngha Mỏc-Lờnin cho rng, dõn tc l sn phm ca quỏ trỡnh phỏt trin lõu
di ca lch s. Trc dõn tc l cỏc hỡnh thc cng ng tin dõn tc nh th tc,
b lc, b tc. S phỏt trin ca ch ngha t bn ó dn ti s ra i v phỏt trin
ca cỏc nh nc dõn tc t bn ch ngha. Khi ch ngha t bn chuyn sang giai
on quc ch ngha, cỏc quc thc hin chớnh sỏch v trang xõm lc, cp
búc, nụ dch cỏc nc nhc tiu, vn dõn tc tr nờn gay gt v t ú xut hin
vn dõn tc v thuc a. Sau cỏch mng Thỏng Mi Nga v s ra i h thng
xó hi ch ngha th gii, phong tro gii phúng dõn tc phỏt trin mnh, dn ti s
tan ró ca h thng thuc a ca ch ngha quc v xut hin nhiu quc gia
dõn tc c lp tr tui.
Trong tng H Chớ Minh vn dõn tc c th hin tp trung ch yu cỏc
ni dung v dõn tc trong hon cnh cỏc nc thuc a,quyn thiờng liờng dõn
tc,quan h gia dõn tc v giai cp,c lp dõn tc gn lin vi ch ngha xó
hi,ch ngha yờu nc gn vi ch ngha quc t cng sn.

Nu nh C.Mac bn v cuc u tranh chng ch ngha t bn, V.I.Lờnin bn
nhiu v cuc u tranh chng ch ngha quc,thi H Chi Minh tp trung bn
v cuc u tranh chng ch ngha thc dõn gii phúng dõn tc xỏc lp quyn t
quyt dõn tc v xõy dng mt nh nc c lp.Con ng phỏt trin ca dõn tc

ỳng n l s cn thit gii phúng dõn tc.H Chớ Minh ó vỏch ra rừ trong
lun cng chớnh tr u tiờn ca ng Cng sn Vit Nam,H Chớ Minh vit:
lm t sn dõn quyn cỏch mng v th a cỏch mng i ti xó hi cng sn.

3


Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại
bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn
yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân
mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên
đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã
khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang
tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn.
Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và
toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân,
đế quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu
một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ
quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích
thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân
dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của
Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy

Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà
bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân
dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống
của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân
tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người
không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn
là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong
thế kỷ 20”.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ
khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã
4


hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc
và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay
trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam
trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức
cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản
ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá
bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải
phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì

độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên
CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói:
“ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu
cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố
với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòa sắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau
bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”
II.Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách
mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính,
triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
5


được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới".
Quá trình xử lý vấn đề dân tộc và giai cấp Hồ Chí Minh khẳng định:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.Hồ
Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc,đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu

nước,nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc. sự kết hợp nhuẫn nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh
đạo duy nhấy của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;chủ trương
đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nông,nông dân và tầng
lớp tri thức dưới sự lãnh đạo của đảng;sự dụng bạo lực cách mạng của quần chúng
để chống lại đảo lực phản cách mạng của kẻ thù;thiết lập nhà nước của dân,do dân
và vì dân;gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai,giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ ghĩa xã hội.Khác với các con đường cứu nước của ông cha,gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa phong kiến,con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc,vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.chỉ xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột; thiết lập một nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ,mới
thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân với xã hội,giữa độc lập dân tộc
với tự do và hạnh phúc con người.Hồ Chí Minh nói: “nước được độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chặng có nghĩa lý gì”.Do đó,
sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,làm cho dân giàu,
nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.

6



Người khẳng định: “yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa
xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi một no ấm thêm, tổ
quốc mỗi ngày một giàu thêm”.
Thứ ba,giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.Hồ Chí Minh giải
quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp,nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp
trong vấn đề dân tộc.giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
là điều kiện để giải phóng giai cấp.vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích
giai cấp.
Tháng 5-1941,Người cùng với Trung ương đảng khặng định: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận,của giai cấp phải đặt dưới sự sing tự,tồn vong của quốc gia,
của dân tộc.Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng,không đòi được độc lập,tự do cho toàn thể dân tộc,thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu,mà quyền lợi của bộ phận,giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”.
Thứ tư,giữ vững độc lập dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc
khác. Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không
chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc
của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ
trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự
quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông
qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách
mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên
quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp

dân chủ thế giới.”
Quá trình xử lý mối quan hệ biện chứng dân tộc và giai cấp ta nhận thấy rằng:tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một cách
sáng tạo học thuyết Mac-LêNin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo đó.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mac –Ăngghen đề cập đến vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp như sau:
7


Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì
phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối
đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,
không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như
vậy, Mac –Ăngghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi
sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp
đối kháng: tư sản và vô sản.
Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư
sản.
Vào thời của C.Mac, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành
độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp
công nhân. Mac-Ăngghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân
tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Mac-Ăngghen, để giải quyết sự đối
kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp
là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối

với C. Mac so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu
thôi.
Đến thời LêNin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ
sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận.
LêNin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành
được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại."
Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là
biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
8


Tóm lại, Mac -Ăngghen, LêNin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục
tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề
giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Mac-LêNin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt
Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Mac
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch

sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại.
Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng
cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và
người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung
Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung
cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở
đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi
trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với
vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân
tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải
phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc
không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai
cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập
cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
9


Lun im v mi quan h gia vn dõn tc v vn giai cp l mt trong
nhng sỏng to ln ca H Chớ Minh trong vic vn dng v phỏt trin ch ngha
Mac-LờNin. Nú cú tỏc dng ln lao i vi vic tp hp lc lng vo s nghip
gii phúng dõn tc Vit Nam cng nh cỏc nc thuc a núi chung.
Trong sut quỏ trỡnh lónh o cỏch mng Vit Nam, H Chớ Minh luụn gii quyt

ỳng n mi quan h gia dõn tc v giai cp. Ngi khng nh, phi i t gii
phúng dõn tc n gii phúng giai cp; dõn tc khụng thoỏt khi kip nga trõu thỡ
ngn nm giai cp cng khụng c gii phúng. ng li ca cỏch mng Vit
Nam l i t gii phúng dõn tc, xõy dng ch dõn ch nhõn dõn, tng bc tin
lờn ch ngha xó hi; kt hp c lp dõn tc vi ch ngha xó hi. ng lc c
bn ca ton b s nghip cỏch mng ú l i on kt ton dõn trờn nn tng liờn
minh cụng nhõn, nụng dõn, trớ thc di s lónh o ca ng Cng sn.
H Chớ Minh ó vn dng sỏng to v phỏt trin hc thuyt ca ch ngha MacLờnin v cỏch mng thuc a thnh mt h thng lun im mi m,sỏng to,bao
gm c chin lc, sỏch lc v phng phỏp tin hnh cỏch mng gii phúng dõn
tc thuc a.iu ú ó c thc tin ca cỏch mng chng minh ú l thng
li ca cỏch mng Thỏng Tỏm 1945,thng li in Biờn Ph (7/5/1954) chn ng
a cu va khộp li nhng thng li ca cỏch mng vit nam trong th k XX l
ginh thng li trong cuc khỏng chin chng M cu nc.
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nứơc, chúng ta đã mắc
sai lầm chủ quan nóng vội, quá chú trọng đến vấn đề lợi ích giai cấp mà có phần
coi nhẹ vấn đề lợi ích của toàn dân tộc. Đại hội VI Đảng ta đã sớm nhận ra sai lầm
và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện một cách kiên quyết và nhất quán. Đảng
ta đã tiến hành nhận thức lại và vận dụng sáng tạo theo cách nhận thức mới quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là t tởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
dân tộc và giai cấp, để giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong những
điều kiện mới của đất nớc và của thời đại. Nhờ vậy, chúng ta đã khắc phục đợc một
cách đáng kể sự quá tải và máy móc của cách nhìn nhận trớc đây về vấn đề giai
cấp, vấn đề dân tộc và đấu tranh giai cấp.
Mục tiêu dân giàu, nứơc mạnh, xã hội công bằng, văn minh đợc các kỳ đại
hội Đảng vừa qua kiên trì khẳng định và đợc báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành
Trung ơng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng bổ sung là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh thể hiện rất rõ quan điểm biện chứng về sự thống nhất
giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Mục
tiêu này vừa thể hiện vừa đáp ứng nguyện vọng của toàn thể dân tộc, của các giai

cấp và của mỗi ngời dân yêu nớc.
10


KẾT LUẬN

Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay,
việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các
nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong
việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích
các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh
dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng
ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận
thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt
Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối,
khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất
ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi
vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không
lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn
đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân
tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi
giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ
11



bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân.
Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân
dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi
ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý
tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự
giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền
vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân.
Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác
định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn
hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện
pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản
của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà
thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong
công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự
lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau
lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong
những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ

Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang
12


đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào
tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ
quyền, bất chấp luật pháp.

Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở
vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước
trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

13


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

……………………………………………………1

I.Các quan niệm về dân tộc và giai cấp…………………………………………….2
1.Các quan niệm về giai cấp………………………………………………….2
2.Các quan niệm về dân tộc…………………………………………………..2
II.Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh……....5
KẾT LUẬN


……………………………………….……..11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

14


TI LIU THAM KHO

1. Giáo trình triết học Mác- Lênin.
2. Tạp chí triết học
3. Tạp chí cộng sản
4. Những vấn đề lý luận đặt ra tại văn kiện Đại hội IX của Đảng
5. Hồ Chí Minh toàn tập
quc

6.ng Cng sn Vit Nam: Vn kin ng ton tp,Nxb.Chớnh tr
gia.
7.Tp chớ quc phũng ton dõn

15



×