Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.88 KB, 15 trang )

Đề bài:Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.

BÀI LÀM
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân
ta, Hồ Chí Minh đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân
chính ở Việt Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh
đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt
Nam vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất
nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại
cần lao, thốt khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề
dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu
suốt cả đời. Đề cập đến tư tưởng của Người về vấn đề nêu trên, em xin
trình bày khái quát một số quan điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân, hồ bình và thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hồ bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy
bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong
cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và
bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến
quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do
cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai.
Chính vì vậy mà “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, một trong những tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân
lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí


Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
đó được quán triệt trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó
1


được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rơdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại
bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tơi khơng
hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác.
Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa…
Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” (1)
Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ơng
ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần
nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…” (2)
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện
với đồng chí Võ Ngun Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ
thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương
quyết giành cho được độc lập.” (3)
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể
kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập tự do.” (4)
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền
con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho
mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều

kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác
trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một
cách bình đẳng, hồ thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã
hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho mọi người, mọi dân tộc.

2


Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại
ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự
nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thơi. Bởi
có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy
cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi
nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến.
Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của
sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là
phải xố bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người
nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” (5)
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải
quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa

nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện
được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân
loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh
mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác.
Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những
người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng
chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng
kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên
con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và
C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.

3


Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện cơng cuộc
giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được
đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất

nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm
đau có thuốc, già khơng lao động thì được nghỉ, những phong tục tập qn
khơng tốt dần dần được xố bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” (6)
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước
ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc
nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ
anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh
em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói
giúp nhau.”(7)
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến
dùng chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để
kìm hãm các dân tộc trong vịng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc
ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc
đều bình đẳng và phải đồn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh
em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng

4


tiến bộ về mọi mặt.” (8)
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch
chống phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu
quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng

cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền
ngược, Hồ Chí Minh ln coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết
mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng
lợi các mục tiêu của cách mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận
thấy cơ hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào
cả nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương
nịi! Hỡi các bạn cơng nơng, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu
thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đồn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nịi ra khỏi nước sơi lửa bỏng.” (9)
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đồn kết dân tộc,
mà chính Người là hiện thân của sự đồn kết đó, là người trực tiếp tổ chức
khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện
gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đồn kết trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong
cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đồn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ
hoàn cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng
sâu và vùng xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở
miền xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền
núi, xét trên mọi phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế
cho thấy, miền núi và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều
kiện tự nhiên khơng thuận lợi, trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân


5


nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế và giao thơng
đi lại cịn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí
thấp nên những thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn cịn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu
của đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng
giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là
căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi
vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn
sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc
phịng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ
Chí Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các
ngành, từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết
thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước
ngoài và thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là
người dân của nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và
ngược lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính
đảng, thậm chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm và chủ trương
chính sách khác nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương
đồn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi
quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của
đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ
mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp
của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước,

thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh
hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh ln thể
hiện thái độ ơn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân
sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:

6


“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt
đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch
sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ơn hồ. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là
một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông,
sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia
rẽ, khơng có thể và khơng có cớ mà chia rẽ. Để cho cơng cuộc thống nhất
và độc lập của chúng ta chóng thành công.” (10)
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện
quan điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính
mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam,
như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người
Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất
quan trọng trong đời sống kinh tế của Đơng Dương. Nhưng chưa bao giờ
lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất
nước Việt Nam.
Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm
nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được
gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng
như môi vớI răng che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm

lược Viễn Đơng, giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm
lược Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu
chung nổi khổ cực bị áp bức và xâm lược.”
Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em,
trong thư, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta đối với bà con Hoa Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam:
“Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi
luật pháp của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ
bản là bảo đảm tự do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam
chung sức xây dựng nước Việt Nam mới.
Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì
giải quyết với nhau theo ngun tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng
nhường nhịn lẫn nhau, khơng được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá

7


nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…” (11)
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành
công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của
Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc
của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người
ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều
thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam
thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên
tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến
cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các
bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết

cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của
thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là
giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới,
một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào
ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên
không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã
hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa
yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra
đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá
con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các
nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn
gốc mọi sự đau khổ của cơng nhân, nơng dân lao động ở cả “chính quốc”
cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ
(1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này
tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng khơng đưa lại tự do, bình
đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân

8


chủ kì thực trong thì nó bóc lột cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa.
Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng
đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham
gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp
bức, phong trào giải phóng giai cấp cơng nhân ở các nước tư bản. Chính vì
vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến

với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga
thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ
thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt
Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết
luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về
căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt
Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô
sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy,
con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hồn tồn''.
Trong q trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã
đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân
tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận
thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
''chính quốc'' với giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là
chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân

9



tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái
Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các
thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị
quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của
các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các
bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một
cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng
Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện
của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở
chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong
trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do khơng nhận
thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong
''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách
mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình
của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân
và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải
quyết trên lập trường của giai cấp cơng nhân - điều đó phù hợp với xu thế
thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức
mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác
mà là mục tiêu dân tộc ln thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở
định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang
thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay
khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách

mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết
sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hồn thành cách mạng giải
phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng
XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới

10


mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân,
mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc
tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen
đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư
tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo
sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn
nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm
mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách
mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng
sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai q
trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không
phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà
còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực
tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm
thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí
Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng địi hỏi của lịch

sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong
suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn
thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng
khít của cách mạng vơ sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng
của nhân dân, nòng cốt là liên minh cơng nơng, do chính Đảng của giai
cấp cơng nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào
lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nơng dân là
hồn tồn khơng đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia
mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.

11


Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân
tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách
rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế
lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân
tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu khơng giải quyết được vấn đề dân
tộc, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những
tồn thể dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích
giai cấp cơng nhân địi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ
ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết
theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái
kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản ở chính
quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa
vơ sản ở chính quốc với vơ sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách
mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa

không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vơ sản ở chính quốc, mà có thể
và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi
trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó
là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng
tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh khơng được một số người,
trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi
chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và
trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tịi con đường, phương thức riêng
phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khn
những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí
Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta
bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có
lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, q nhấn mạnh

12


vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp,
tầng lớp khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh dân tộc
khơng được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng
ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện
nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho
rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng
trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số

nước khác nào đó, cịn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến,
vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai
cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp,
hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan
điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn
đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những
vấn đề dân tộc, cịn vấn đề giai cấp khơng nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình,
thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải
theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn
đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi
ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa
chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng
Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích
giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ln luốn
gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập
thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân
dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng
theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện

13


pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc
cơ bản của quá trình đổi mới.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hố và hồn thiện đường lối đổi mới
tồn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan
hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng
nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và
phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự
đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai
cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác
liệt lẫn trong những khó khăn của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là
trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy
hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến
hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập,
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình
hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta
vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

14



PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 1, tr 94.
(2) Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 1, tr. 127.
(3) Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đã dẫn, tập 2, tr. 256.
(4) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh, tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 12, tr 108.
(5) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 3, tr. 123.
(6) Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh, tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 10, tr. 591.
(7) Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 217.
(8) Hồ Chí Minh, tồn tập, sách đã dẫn, tập 10, tr. 639.
(9) Hồ Chí Minh, tồn tập, sách đã dẫn, tập 3, tr. 198.
(10) Hồ Chí Minh, tồn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 418.
(11) Hồ Chí Minh, tồn tập, sách đã dẫn, tập 4, tr. 5 – 6.

15



×