Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (16)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.82 KB, 10 trang )

BÀI LÀM
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Đối
tượng nghiên cứu của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm lí luận
về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng độc
lập, tự do, về mối quan hệ biện chứng trong sự tác động qua lại giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của các Đảng Cộng Sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi
áp bức bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lê nin. Đối với Người đến với
chủ nghĩa Mác-lê-nin, cũng có nghĩa là đến với con đường của cách mạng vô sản. Từ
đây, Người đã tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để:” Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “
chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc”. Do vậy, để hiểu
được quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ
Chí Minh thì cần phải xuất phát tư quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
Phương pháp phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác là phương pháp khoa học
để nhận thức xã hội giai cấp. Chủ nghĩa Mác cung cấp cho ta phương pháp luận có
tính chỉ đạo để trong hàng loạt những sự phức tạp tưởng như hết sức hỗn loạn có thể
tìm ra bản chất và quy luật trong các hình thái xã hội. Chủ nghĩa Mác yêu cầu việc
phân tích giai cấp phải hết sức toàn diện và năng động, phân tích địa vị các giai cấp,
phân tích hình thái ý thức và lập trường địa vị của các giai cấp, nắm vững sự so sánh
lực lượng giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội, nắm vững mạch nguồn
sống động của xã hội và các phong trào xã hội. Đây chính là chỗ dựa vững chắc để
các chính Đảng chế định chính xác đường lối, quan điểm phương châm, sách lược
cách mạng của mình. Khi nhận thức và xử lí các mâu thuẫn giai cấp cần phải phân
biệt nghiêm túc và chính xác mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn phi giai cấp, phân biệt


sự khác nhau giữa mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng, phân biệt
được mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân với mâu thuẫn “ Địch- ta”.
Cùng với vấn đề giai cấp vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng
có ý nghĩa chiến lược của CMXHCN. Cũng chính trên cơ sở lịch sử ấy mà chủ nghĩa
xã hội của Mác đề ra vấn đề dân tộc và vấn đề nhà nước, không chỉ để giải thích quá
khứ mà còn để dự kiến tương lai một cách mạnh dạn và thực hiện dự kiến ấy bằng
1


một hành động dũng cảm. Dân tộc là sán vật và hình thức tất nhiên của thời đại tư
sản trong quá trình phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân không thể mạnh lên
được, không thể trưởng thành và thành hình được nếu không:” tự tổ chức trong
khuôn khổ của dân tộc”, nếu không:” có tính chất dân tộc”. Nhưng, sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản không ngừng phá vỡ ranh giới dân tộc, phá vỡ sự biệt lập dân tộc,
thay thế những đối kháng dân tộc bằng những đối kháng giai cấp. Vì thế, trong các
nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển thì điều sau đây hoàn toàn là một chân lí:” công
nhân không có tổ quốc”, và ít ra trong những nước văn minh” hành động chung của
họ là một trong những yếu tố đầu tiên để giải phóng giai cấp vô sản”. Nhà nước tức
cơ quan bạo lực có tổ chức, nhất định phải xuất hiện khi xã hội đã phân thành giai
cấp không thể điều hòa, lúc mà xã hội không thể tồn tại được nếu không có một
quyền lực tựa hồ như đứng trên xã hội và tách rời xã hội đến một mức nào đó. Phát
sinh từ những mâu thuẫn giai cấp, nhà nước trở thành nhà nước của giai cấp mạnh
nhất, của giai cấp thống trị về kinh tế, cái giai cấp mà, nhờ có nhà nước, cũng trở nên
giai cấp thống trị về cả chính trị và do đó lại có thêm thủ đoạn mới để khống chế và
bóc lột giai cấp bị áp bức.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp vừa mang tính dân tộc,
vừa mang tính quốc tế, nó kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thực chất mang tính quốc tế, do giai cấp công
nhân ở các quốc gia có địa vị kinh tế xã hội giống nhau, với những đặc trưng cơ bản
giống nhau và có kẻ thù là CNTB quốc tế. Lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích

quốc tế gắn liền và có quan hệ biện chứng với nhau. Giai cấp công nhân không thể
giải phóng hoàn toàn giai cấp mình mà không giải phóng được dân tộc và toàn thể
quần chúng lao động trên phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, sứ mệnh lịch sử có tính quốc
tế của giai cấp công nhân trước hết là phải thực hiện trong khuôn khổ của từng dân
tộc. Mác-Ăng ghen nhấn mạnh rằng:” cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản dù về nội
dung không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu
tranh dân tộc.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác-ăng ghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với
sự phân tích 2 xu hướng của vấn đề dân tộc, Lê nin đã nêu ra:” cương lĩnh dân tộc”.
Đó là một bộ phận không tách rời cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân, là
tuyên ngôn cuả về vấn đề dân tộc của ĐCS trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh trở
thành cơ sở lí luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của ĐCS và nhà
nước XHCN.
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn Các Mác, Ăng ghen không đi sâu giải quyết
vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
2


mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc
thuộc địa.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, Lê nin có cơ sở thực tiễn để phát triển
vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lí luận. Tuy cả Mác, Ăng ghen, Lê nin
đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lí luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến
lược, sách lược của Đảng Cộng Sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực
tiễn cách mạng vô sản ở Châu Âu các ông đã tập chung nhiều hơn vào vấn đề giai
cấp. Điều kiện những năm đầu của thế kỉ XX trở đi đã đặt ra yêu cầu cần vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước

thuộc địa: chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng những yêu cầu đó.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước
lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất,
"muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lênin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ
xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và
chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất,
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của
nó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Muốn bảo vệ và quán triệt
chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ, quán triệt và giương cao
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai
lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát
3


triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và
phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp

thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người
nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, bắt nguồn chủ
yếu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam,
tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành một cán bộ
của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác
nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, cần bổ sung, phát triển chủ
nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử"
của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
không thể có được.
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng
tạo, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm mới,
sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã
thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là chủ
nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc
bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của cách mạng vô
sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải
phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm
năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính

quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng
4


cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng
chính quốc. Nguyễn Ái Quốc kết luận: Muốn giải phóng dân tộc không thể bị động
trông chờ vào sự trợ giúp bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của dân tộc
mình.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
Ương Đảng nêu cao vấn đè giải phóng dân tộc. Tháng 6-1941, Người viết thư kính
cáo đồng bào, chỉ rõ:” Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn
đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt
Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết
Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên
nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về
đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều
tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của
thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công
nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã
hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận
động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho
sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,

người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã
tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh
và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền
bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công
nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc
địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
5


Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là,
lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết
hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc
khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân
tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu
thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh
đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu
dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc
điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt
để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng
XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và
giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan

điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới
giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô
sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô
sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có
thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước
tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong
đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết
sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ
xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát
huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp
6


thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt
động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam

vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào
Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến
theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề
giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan
điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc.
Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn
đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là
không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải
quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi
ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ
ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó
đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều
phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt
Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc
của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo
mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh
đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng
những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng
XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế lạc hậu chưa phát triển, nên sự phân hóa giai
cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống ở
phương Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: Dù là địa chủ hay nông dân, họ
đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước. Từ sự phân tích đó, Người kiến
nghị về cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản là:” Phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất
định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ

truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ
nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là
7


nột chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
quốc tế cộng sản mà Hồ Chí Minh đè cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính, chứ
không phải là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ
giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp ngựa trâu
thì ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt
Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến
lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản
của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh
công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sư
gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Năm 1930, trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người xác định
phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình
trạng áp bức bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân
mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển
hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc cho con
người. Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm: Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời

độc lập cho tất cả các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của
các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết nhưng Hồ Chí Minh không quên
nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn
thế giới.
Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trong mối quan hệ thống nhất biện chứng. Trong khi rất coi
trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước thì Người cũng luôn
đứng vững trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Mục
8


tiêu của cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu lên thể hiện kết hợp vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp
công nhân mới là lực lượng đại biểu trung thành cho lợi ích của dân tộc, mới xây
dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên.
Vì vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác- Lê nin, cần làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được quán triệt sâu sắc trong toàn
Đảng, toàn dân, lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề
của dân tộc và của thời đại hiện nay.

9


Danh mục tài liệu tham khảo


1: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
2: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lê nin
3: Hồ Chí Minh toàn tập
4: Chủ nghĩa xã hội

10



×