Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.41 KB, 13 trang )

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Một nội dung cơ bản và nhất quán trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Ngay từ rất sớm Người đã nói rõ
"ham muốn" tột bậc của mình là làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc
lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Và qua 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, cuối cùng
Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là con đường để "ham
muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Bác đã trở thành tư tưởng hướng đạo
cho cách mạng Việt Nam.
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không
giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc
lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc
khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân,
do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên
định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc
son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm
1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH.
Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt
xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới.
Người đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi
1


thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng


thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do,
hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất
nước đã khẳng định: "Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng,
quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến
lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh: "Nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng
nước

ta".

Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được
thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên
đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế
kỷ XXI, đại hội của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng
định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
2



Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế đã
trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao
trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của
Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong
khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo
cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên trường
quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố,
tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn của thời
kỳ CNH-HĐH.
Những thành tựu đó do nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân
quan trọng là Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá
trình đổi mới, coi đó là bài học đầu tiên, là nguyên tắc bất biến của sự nghiệp
đổi mới.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta đã
khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong suốt hơn 76
năm qua Đảng luôn kiên trì mục tiêu đó. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam.
Đường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
trước đây khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, mà còn là
đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa khi nhiệm vụ
đổi mới và kiến quốc nổi lên hàng đầu. Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện
của chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu, là điều
kiện để củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng
định rằng "cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn" (1), "có tiến lên chủ
3



nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày
một giàu mạnh thêm"(2).
Từ thực tiễn cách mạng thế giới và từ kinh nghiệm của bản thân cách
mạng Việt Nam, Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: chỉ có con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới được độc lập, tự do, nhân dân ta
mới trở thành người làm chủ, tự quyết định con đường phát triển của mình.
Trong bối cảnh thế giới phức tạp của những năm 80, 90 của thế kỷ XX, khi
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô bị sụp đổ, Đảng ta vẫn kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa. Vì đó là con đường hợp quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam để có được một nước Việt Nam giàu mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh. Đối với Đảng ta, đổi mới không phải là từ bỏ mục
tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức và xây
dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là đổi màu; đổi mới có nguyên tắc
mà nguyên tắc hàng đầu là bảo đảm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho
đất nước. Nếu Đảng ta không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa thì không
thể có công cuộc đổi mới vừa giữ vững những thành quả cách mạng và mục
tiêu cách mạng, vừa kiên quyết, dũng cảm từ bỏ những phương pháp và mô
hình sai lầm, sáng tạo phương pháp và mô hình mới để xây dựng chủ nghĩa xã
hội có hiệu quả hơn. Sự nghiệp đổi mới không chỉ đem lại thành tựu mới mà
còn đem lại phương pháp mới, cách làm mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việc kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta không chỉ
có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải có trí tuệ, dám đổi mới và biết
đổi mới. Đây không phải là một công việc giản đơn, dễ dàng, có sẵn đáp án.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó
khăn, gian khổ bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, luôn bị các thế lực thù địch phá hoại. Đặc biệt sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ
trong lịch sử, lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào
4



khủng hoảng và thoái trào nên lại càng khó khăn. Đây là quá trình vừa làm,
vừa học, vừa làm, vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm, khái quát thành lý luận
trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý. Chính trong quá trình đó,
Đảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ngày
càng phù hợp hơn, từng bước khắc phục những quan niệm giáo điều, đơn
giản, ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm đổi mới, thể hiện tập trung nhận thức mới của Đảng
ta về chủ nghĩa xã hội là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng (năm 1991) thông
qua. Cương lĩnh đó đã khái quát những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những
đặc điểm của thời đại. Từ đó đến nay, qua tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta
đã có sự bổ sung, phát triển một số điểm trong nhận thức về mục tiêu, bản
chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nước ta và chắc chắn chúng ta sẽ phải
tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển
hơn nữa nhận thức đó. Điều đó cũng là đương nhiên, phản ánh quá trình phát
triển của thực tiễn và nhận thức.
Để có đường lối đổi mới đúng đắn, Đảng phải nắm vững, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là
cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình thực tế, để
hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện thực
tiễn của cách mạng Việt Nam. Qua nghiên cứu lý luận và trải nghiệm thực
tiễn ở nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh rút ra kết luận rằng ngày nay
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ chỗ coi chủ nghĩa
5



Mác - Lê-nin là "cái cốt của Đảng", "cái gốc của Đảng", đến Đại hội III (năm
1960), Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đặc biệt, đến Đại hội VII (năm 1991)
Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Việc
chính thức đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng đánh
dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận
của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đối với thực chất những tư
tưởng của các nhà kinh điển mác-xít trên nhiều vấn đề quan trọng. Đối với
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta ngày càng xác định rõ những luận điểm gì
trước đây đúng, bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng; những luận
điểm gì trước đây đúng nhưng bây giờ không còn phù hợp do thực tiễn đã
thay đổi; những luận điểm gì vốn trước đây đã không phù hợp; những luận
điểm gì vốn đúng nhưng bị nhận thức sai, làm sai; những luận điểm gì mới
cần được bổ sung vào lý luận qua tổng kết thực tiễn mới. Với tinh thần ấy,
trong những năm đổi mới, Đảng ta đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn đề như vấn đề mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề
sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, v.v.. Nhờ
đó, tư duy lý luận của Đảng ngày càng sâu sắc hơn, đồng thời có sự vận dụng,
phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam, khắc phục bệnh giáo điều,
bệnh chủ quan duy ý chí trong nhận thức và hành động.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta cũng ngày càng nhận thức đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, đã tổ chức
nhiều hoạt động nhằm nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
6



nghĩa Mác - Lê-nin là một thể thống nhất, có mối liên hệ nội tại cả về lịch sử
và lô-gíc.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng nhất là trong 20 năm đổi
mới đã khẳng định, chứng minh giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng là thắng lợi
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Trung
thành và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những
điều kiện bảo đảm cho thắng lợi sắp tới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã kiên quyết
đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực phản động
và cơ hội chính trị, phê phán bệnh bảo thủ, giáo điều và những sai lầm tả
khuynh và hữu khuynh. Gần đây, lợi dụng việc góp ý kiến dự thảo Báo cáo
Chính trị trình Đại hội X của Đảng, một số ý kiến cực đoan với động cơ xấu
đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và định hướng xã
hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đòi "đa nguyên, đa Đảng"... Một
số ý kiến cố tình khai thác, khoét sâu vào những yếu kém, khuyết điểm của
chúng ta để xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta. Họ cố tình quy
kết một cách sai trái những yếu kém, khuyết điểm đó là do chủ nghĩa Mác Lê-nin, do Đảng Cộng sản, do định hướng xã hội chủ nghĩa gây ra.
Những ý kiến bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận định
hướng xã hội chủ nghĩa thường cho rằng "đi vào chủ nghĩa xã hội là đi vào
vết xe đổ của Liên Xô"; "đi lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng, viển vông";
"chỉ có kinh tế thị trường chứ làm gì có kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa"; "định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì đó còn mù mờ". Những ý
kiến này thường đem đối lập "định hướng xã hội chủ nghĩa" với "đổi mới",
với "phát triển", cho rằng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cản trở sự
7



phát triển, làm cho đất nước ta "lạc điệu trong tiến trình phát triển của thế
giới" v.v. và v.v.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy rằng
con đường kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu
khách quan của dân tộc, là chân lý lớn, là động lực xuyên suốt của cách mạng
Việt Nam. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng,
Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử. Sự ra đời của
Đảng ta năm 1930, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra
đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp năm 1954, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước năm 1975, thắng lợi của công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay là
những mốc son chói lọi trên con đường đó, của sự lựa chọn lịch sử dân tộc.
Trong những năm đổi mới nhờ kiên định con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội nên công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử mà thế giới phải khâm phục. Chúng ta vừa giữ vững ổn
định chính trị – xã hội, vừa phát triển kinh tế – xã hội với tốc độ tương đối
nhanh so với khu vực và thế giới; vừa giữ vững nền độc lập dân tộc vừa chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế.
Ngày nay Việt Nam đã là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế. Như vậy, không phải định hướng xã hội chủ nghĩa cản trở cho đổi
mới, cho phát triển mà trái lại nó đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và
đồng bộ hơn, đòi hỏi phát triển nhanh và bền vững hơn. Nhưng sự phát triển
đó phải nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, phát triển vì con người, hướng về con người - mục tiêu cao nhất của
phát triển.
Còn có ý kiến nói rằng "định hướng xã hội chủ nghĩa là mù mờ", là
không khách quan, cố tình nhắm mắt trước thực tế. So với cách đây 20 năm,
nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
8



hội đã rõ hơn nhiều, ngày càng sáng tỏ hơn (tất nhiên, bên cạnh những điểm
đã rõ, vẫn còn những điểm chưa rõ mà chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên
cứu để làm sáng tỏ hơn nữa). Ngày nay, nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta tức là hướng đến xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh", do nhân dân làm chủ; giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, thực hiện phát triển nhanh và bền vững; phát
triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Định
hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ
thể của quyền lực nhà nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi phát
triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xem văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hoàn thiện chế độ
phân phối theo hướng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác và thông qua phúc lợi xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa không có
nghĩa là thực hiện chủ nghĩa bình quân mà phải khuyến khích làm giàu chính
đáng đi đôi với đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, tạo bình đẳng về cơ hội phát
triển cho mọi người, tạo điều kiện cho người nghèo nâng cao cuộc sống của
mình, không chấp nhận làm giàu phi pháp, bất chính bằng tham nhũng, tiêu
cực..., khống chế phân hóa 2 đầu, coi trọng các chính sách xã hội, an sinh xã
hội v.v…
Toàn bộ những thành tựu qua 20 năm đổi mới đất nước không thể có
được và không thể giữ được nếu không có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo
của Đảng và chính quyền nhà nước của nhân dân là tiền đề chính trị, là điều

9


kiện tiên quyết để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì hiểu rõ điều đó nên các thế lực đế quốc, phản động và cơ hội chính
trị luôn tập trung tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Việc chúng tuyên
truyền quan điểm "đa nguyên, đa Đảng" chính là sự chuẩn bị về tư tưởng
hòng nhằm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa theo
"kịch bản" mà các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
mong muốn. Bài học về "đa nguyên, đa Đảng" dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn còn nóng hổi, nhắc nhở chúng ta
luôn cảnh giác.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng cần đẩy mạnh đổi mới và chỉnh đốn Đảng, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực, nâng cao tầm trí tuệ, bản lĩnh và sức chiến đấu
của Đảng, kiên định và bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên
quyết đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái, phản động muốn phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin với lập luận cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
"ngoại lai", "ngoại nhập", "xa lạ với Việt Nam", đã lỗi thời vì chỉ thích hợp
với nền văn minh cơ khí ở thế kỷ XIX chứ không thích hợp với nền văn minh
tin học, với kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI v.v..
Đồng thời phải kiên quyết khắc phục bệnh giáo điều (cả giáo điều cũ và
giáo điều mới), nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
thường xuyên đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận, phương
pháp dạy và học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách
thiết thực, hiệu quả, gắn với thực tiễn.
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp được những vấn đề mới do
thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

của nước ta trong bối cảnh mới của thời đại ngày nay. Trong giai đoạn hiện
10


nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải
quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn
về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo
là nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa
bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu
XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Giữa lúc cách mạng Việt
Nam lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc) là người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm ra con đường cứu dân, cứu
nước. Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, đặt chân lên nhiều châu lục, tiến
hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản chủ yếu và
nhiều nước thuộc địa của chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
được xu hướng phát triển của thời đại; từ một người yêu nước nồng nhiệt,
Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người Cộng sản.
Từ đó Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân
tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Đó là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề

thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã
11


khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng
giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu
giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của
một con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của
cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở
chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và
bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em
vô sản ở phương Tây.
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều
vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách mạng
Tháng Tám.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc gắn bó thống nhất với tư tưởng
của Người về chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những
quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận
thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
12



hội ở Việt Nam đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới
hiện nay, nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững độc lập chủ quyền và
tòan vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hơn 70 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được
một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song
con đường phía trước không hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu
sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng
ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm
qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã xây dựng, thế
hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ, để
khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành
đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường
cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, xây dựng thành công CNXH. Trong thời đại ngày nay,
độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là nền tảng
để đi lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới củng cố vững chắc
và phát huy thành quả của độc lập dân tộc, đưa đất nước tiến lên giàu mạnh,
nhân dân ấm no, hạnh phúc.

13



×