Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với cnxh, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.21 KB, 21 trang )

I. Đặt vấn đề

Trong suốt 4000 năm dựng nước và giử nuớc dải đất thân yêu hình chử S dã
sản sinh ra bíêt bao người anh hùng sẳn sàng hi sinh thân mình để gìn giử chủ
quyền thiêng liêng.Truyền thống đoàn kết đùm bọc lẫn nhau truyền từ đời này
qua đời khác, nắm chặt tay nhau vượt qua bao khó khăn giông tố đã trở thành 1
nét riêng biệt đặc trưng cho dân tộc ta.Một dân tộc với những con người hiền
lành, chịu thương chịu khó và ham học hỏi. Chúng ta quên sao được những vị
lãnh tụ tài ba, những người đã lãnh đạo dân tộc ta vượt qua bao gian nan thử
thách:Trần Hưng Đạo.Ngô Quyền…hay vị lãnh tụ, người cha già của dân tộc Hồ
Chí Minh. ``Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của
cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội sự đóng góp quan trọng về
nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và
nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hoá hàng nghìn năm của nhân dân
Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. (Nghị quyết của UNESCO ).
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả
không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những
năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng
ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối
đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật


1
sự của dân, do dân, vì dân…’’(Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương tại Đại hội IX của Đảng )
Chính sự cao cả vĩ đại trong nhân cách sống,cũng như trong Tư tưởng lãnh
đạo của Người, em đã quyết định lựa chọn phân tích câu nói trong ngày kỉ niệm
105 năm ngày sinh Hồ Chủ Tịch : " Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”.
2
II. Giải quyết vấn đề:
1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ chí minh:
a) Truyền thống văn hoá và tư tưởng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: Hồ
Chí Minh là một trong những người con ưu tú của dân tộc. Tư tưởng c ủa Người,
trước hết bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển các
giá trị văn hoá dân tộc.
+ Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước đã hình thành cho dân tộc Việt Nam các giá trị truyền thống phong phú,
bền vững. Đó là ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc, tự lực, tự cường, yêu
nước…tạo động lực mạnh mẽ của đất nước.
+ Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái
trong khó khăn, hoạn nạn.
+ Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất
thắng của chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian
khổ.
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá bên ngoài làm giàu cho văn hoá Việt
Nam. Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường đi cho dân tộc. “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ
chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã giúp tôi tin theo Lênin và đi theo Quốc tế
III.”

b) Tinh hoa văn hoá nhân loại: Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã được trang bị và hấp thụ nền Quốc học và Hán học khá vững vàng,
chắc chắn. Trên hành trình cứu nước, Người đã tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình và phục vụ cho
cách mạng Việt Nam.
+ Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật
giáo, và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
3
Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và
phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đặc
biệt Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân.
Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong
kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao
nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất nhiều dựa trên
nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với Việt
Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái. Phật giáo có tư tưởng bình đẳng,
dân chủ hơn so với Nho giáo. Phật giáo cũng đề cao nếp sống đạo đức, trong
sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động. Phật giáo vào Việt Nam kết hợp
với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dân, hoà vào cộng đồng chống kẻ thù
chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân.
Tư tưởng dân chủ tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn có
ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh, vì Người tìm thấy những điều phù hợp
với điều kiện của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh là nhà mác-xít tỉnh táo và
sáng suốt, biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hoá phương
Đông để phục vụ cho sự nghiệp của cách mạng Việt Nam.
+ Văn hoá phương Tây:
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách
mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền

và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776.
Trước khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái.
Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm chất cao
thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do,
bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp
như Voltaire, Rousso, Montesquieu.
4
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Hồ Chí Minh quan niệm
Tôn giáo là văn hoá. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái. Hồ
Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách
mạng Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng
chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
c) Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp,
quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người góp phần
làm phong phú thêm CNMLN ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành
độc lập, tự do. “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chúng ta… là mặt trời soi sáng
con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội…”. Vai
trò của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện:
- Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quyết định phương pháp hành động biện chứng của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, là tư tưởng
Việt Nam thời Hiện đại.
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh nổi lên
một số điểm đáng chú ý:
Một là, khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn học
vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết các
phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX;
Người tự hoàn thiện vốn văn hoá, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú

nhờ đó Bác đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách
quan và hợp với quy luật”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc
nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ Nghĩa Mac-Lenin là tìm con đường
giải phóng cho dân tộc. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lênin,
“khi ấy ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông
5
đảo quần chúng: hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta.”
Ba là, Người vận dụng Chủ Nghĩa Mac-lenin theo phương pháp mác-
xít và theo tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không
tìm kết luận có sẵn mà tự tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt
Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh.
d) Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
+ Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh
tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên
thế giới.
+ Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức, vốn kinh
nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất,
tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin và tiếp thu được các giá trị văn hoá nhân loại.
+ Bác có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản
nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng
khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. Bác Hồ từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường
cho cả dân tộc đi theo. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí
Minh đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người.
2. Phân tích nhận định
• Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân

tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Sau 30 năm ra đi tìm đu ờng cứu nước Người đã rút ra được nhiều bài học
quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Người đã đi
từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ ngĩa xã hội, việc kết hợp phong trào yêu
6
nước với phong trào công nhân chuyển hóa thành một sự kiện quan trọng. Năm
1930, Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời, đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc
với giai cấp, quốc gia với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ đó
chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thúc đẩy lịch sử dân tộc
Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang tiếp tục đi
trên con đường của thế kỉ mới và cho tới đích cuối cùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức bóc lột và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành
gắn liền với tự do bình đẳng, bác ái đoàn kết ấm no, vì hòa bình hạnh phúc cho
mọi người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, hoàn
toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của
thời đại, xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, là hệ giá trị cơ
bản nhất quyết định sự phát triển của nước ta.
Cả cuộc đời của Người đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi
mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Vần đề
dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người
quan tâm, nung nấu suốt cả đời.
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm
lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà

bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là
khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống
trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và
bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền
bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì
độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân
tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang
lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc
còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân
7
tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau
một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Nhưng bên cạnh đó, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã
hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
cho mọi người, mọi dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt
Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn
mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do
ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói
rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong
kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của
sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Người là phải xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc
thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,

ai cũng được học hành.” Thực hiện được ước nguyện đó, theo Người chính là
nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được
ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp
bức, bóc lột. Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả
những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và
điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra
học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở điểm này.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh
sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải
phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph.
8
Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng
không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng
con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các
quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc của tất cả mọi người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt
lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề
nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già
không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần
được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần

ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” Quan điểm đó của Người được khẳng
định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”.
Hiện nay, mặc dù đã trải qua gần 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng
những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn phát huy trọn vẹn. Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam trong
thời đại ngày nay.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là
nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là
niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam. Đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
• Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, đổi mới sáng tạo.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh
thần. Trước hết là chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức
9
mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc
lập tư do…chính sức mạnh đó được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế
là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nêu rõ, muốn
người ta giúp cho, thì trước hết mình phải giúp lấy mình đã; và tự lực cánh sinh
là một truyền thống quý báu của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh luôn xác định
cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu và lực lượng tiến
bộ của thế giới, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế là một trong
những điều giúp ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Sức mạnh của
Việt Nam là ở sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, là ở việc phát huy mọi
nguồn lực của đất nước, đồng thời ở việc đoàn kết tranh thủ sự ủng hộ và hợp

tác quốc tế. Đó cũng chính là cơ sở để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Đoàn kết quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiêm vụ
cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt thì phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố
quyết định còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua
nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người
ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình cái đã”. Trong đấu tranh
giành chính quyền, Người chủ trương “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong
kháng chiến chống thực dân pháp, Ngườ chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: Phải có thực lực, thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn…
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời phóng viên nước ngoài, người
nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển mọi công việc của chúng tôi, không
có sự can thiệp ở ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các đảng thộc phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập
bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách
10
mạng Tháng tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam
là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã
khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa

vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một
con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách
mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính
quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng
thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản
ở phương Tây.
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn
đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách mạng Tháng
Tám.
Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư tưởng Hồ Chí
Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và nhân dân ta.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng,
toàn dân càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo.
Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ nhu cầu giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí
Minh đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức và hành động, tổng kết thực tiễn, xác
11
lập nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng cộng sản và xây dựng
Đảng trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp
lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền thống phương Đông. Những quan điểm
này thật sự là sáng tạo riêng của HCM, góp phần cụ thể hóa và phát triển lý luận
Mác- Lênin về Đảng cộng sản, làm cho Đảng thật sự trong sạch đạt đến tầm cao
về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
Nhìn về lịch sử, đây là lần đầu tiên Đảng tiến hành công cuộc đổi mới một
cách quy mô và toàn diện. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đây

cũng là một việc làm chưa có tiền lệ trong lịch sử. Trước khủng hoảng sâu sắc
của chủ nghĩa xã hội, mỗi đảng cách mạng đều tự mình tìm thấy con đường
thoát ra khỏi khủng hoảng. Đường lối chung đều là vận dụng sáng tạo lý luận
Mác- Lê-nin vào hoàn cảnh đặc thù của đất nước mình và mỗi đảng đều thu
được những thành quả nhất định. Riêng Đảng ta, nhờ có tư tuởng Hồ Chí Minh
(sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam) dẫn đường,
và kế thừa truyền thống cải cách, đổi mới của ông cha, đã có được những bước
đi vững chắc. Nay, qua hơn 20 năm đổi mới, việc tìm ra những bài học lịch sử
trong kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới là một
điều bổ ích.
Trước hết, sinh thời, Bác Hồ ít dùng từ "đổi mới", nhưng trong thực tiễn thì tư
duy và hành động cách mạng của Người mang nhiều ý nghĩa đổi mới.
Năm 1911, khi ra đi cứu nước, Người đã không theo cách đi của cha anh là
sang phương Đông tìm sự viện trợ ở "những người da vàng" phong kiến, tư sản,
mà quyết đi sang phương Tây nhằm thấy rõ căn bệnh của chế độ "nô lệ thuộc
địa" để tìm phương thuốc cứu chữa. Ở phương Tây, trong khi các bậc cha anh
tìm sự cứu giúp của văn minh tư sản thì với Bác Hồ, khẩu hiệu "Tự do, bình
đẳng, bác ái” tuy vẫn còn cuốn hút sự chú ý của Người, nhưng cái mà Nguyễn
Ái Quốc say sưa tìm hiểu lại là "cái mới” của thời đại. Đó là lý luận cách mạng
vô sản và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gắn với phong trào dân tộc
thuộc địa.
Gặp chủ nghĩa Mác - Lê nin, Nguyễn Ái Quốc nhạy cảm nắm bắt lấy cái mới.
Đó là sự phát triển của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại
cách mạng dân tộc và thuộc địa. Khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”
của Mác đã được Lê-nin phát triển lên thành khẩu hiệu ''Vô sán toàn thế giới và
12
các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”. Đọc Luận cương về các vấn đề dân tộc
thuộc địa của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc lên" vì thấy
rõ: "Đây là con đường giải phóng chúng ta". Thực tiễn của cách mạng Việt Nam
và thế giới đã cho Người thấy: Vô sản chính quốc phải cùng vô sản và nhân dân

các thuộc địa trên toàn thế giới liên kết lại với nhau mới có thể diệt được "con
đỉa” đế quốc chủ nghĩa "hai vòi”: một vòi hút máu các dân tộc thuộc địa, một
vòi hút máu của vô sản chính quốc để tồn tại.
Từ cái mới của tư duy, Nguyễn Ái Quốc đã có cái mới trong hành động. Năm
1919, Người đã cùng đại biểu các dân tộc thuộc địa gửi Yêu sách lên Hội nghị
Véc-xây, yêu cầu các cường quốc phải quan tâm đến quyền lợi của các dân tộc
thuộc địa. Rồi tháng 12-1930, tham dự Đại hội thành Tua của Đảng Cộng sản xã
hội Pháp, Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế cộng sản III, vì Quốc tế này
coi trọng vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa. Trên đất Pháp, Nga đã hoạt
động không mệt mỏi cho sự đoàn kết chiến đấu giữa vô sản chính quốc với vô
sản thuộc địa.
Khi về nước xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đã chủ trương thành lập chính đảng của giai cấp công nhân từ ba yếu
tố” Lý luận Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đưa
"Phong trào yêu nước” vào thành một trong 3 yếu tố cấu thành chính đảng vô
sản là một đổi mới ''sáng suốt” đến “táo bạo” khiến các nhà lãnh đạo Quốc tế
cộng sản lúc bấy giờ đã cho Bác là một người dân tộc chủ nghĩa. Nhưng lịch sử
đã chứng minh ''đổi mới” đó của Người là đúng đắn, là sáng tạo.
Đến sự thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam,
ngay từ đầu, Chính cương và Sách lược vắn tắt do Người khởi thảo đã ghi rõ
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không phải Đảng Cộng sản Đông
Dương, mặc dầu lúc đó sự nghiệp giải phóng các dân tộc Đông Dương còn do
Đảng lãnh đạo. Cái mới này của Người xuất phát từ thực tiễn lịch sử và cách
mạng của ba dân tộc Việt, Miên, Lào trên bán đảo Đông Dương, mà cũng là sự
thể hiện nghiêm túc nguyên tắc về "Quyền dân tộc tự quyết" chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đổi mới này không phải đã được chấp nhận ngay. Phải đến Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5- 1941) mới được trở thành hiện thực và
ngày càng được lịch sử xác minh là đúng dằn.
13
Tới cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám (1939-1945), tư duy đổi mới của

Người lại tiếp tục được phát huy. Từ nhận thức về mục tiêu cách mạng là "cứu
nước" (tức chỉ nhằm đánh những đế quốc xâm lược Việt Nam để giải phóng dân
tộc) chứ không "phản đế" tức chống mọi đế quốc nói chung, Người đã "đổi mới"
phương châm chiến lược và tổ chức cách mạng, lập “Mặt trận Việt Nam Độc lập
Đồng Minh” (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt trận dân tộc phản đế Đông
Dương, tổ chức ra các đoàn thể công, nông, thanh, phụ "cứu quốc" thay cho
các đoàn thể "phản đế". Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng có
tính chất "ba thứ quân" của Người cũng đã bắt đầu được thực hiện. Đường lối
“Từ khởi nghĩa từng phần tiến đến Tổng khởi nghĩa ” của Người cũng là cái
mới trong lịch sử quân sự Việt Nam.
Đặc biệt là ''Chương trình cứu nước" của Mặt trận Việt Minh do Người đề
xướng đã nêu rõ: ''Thợ thuyền được hưởng luật lao động gìa có lương hưu trí,
cải thiện chế độ làm việc”; "Dân cày có đủ ruộng cày cấy, được, được cứu tế
trong những năm mất mùa; tá điền, được giảm địa tô, chia lại công điền”; “Tư
sản được tự do kinh doanh, được giúp đỡ trong việc mở mang các ngành kỹ
nghệ cần thiết”; “Địa chủ thì: quyền sở hữu về ruộng đất vẫn được coi trọng,
được khai phá đất hoang. Nhà buôn được tự do thông thương, sản nghiệp thương
mại được pháp luật bênh vực ” Có thể nói cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với tư duy và hành
động đổi mới của Người.
Công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay nhằm giải quyết khủng hoảng sâu
sắc bắt đầu từ cuối thập niên 70 cũng là sự kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới
mà Bác Hồ đã thực hiện.
3.Liên hệ thực tế hiện nay:
Trong thực tế hiện nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu, tư
tưởng, cương lĩnh hành động, niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam. Dưới Sự
lãnh đạo của Đảng, sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra 5 bài học lớn. Bản
lĩnh chính trị của Đảng là bài học thứ nhất: “trong quá trình đổi mới, kiên định
mục tiêu độc lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà

14
làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có
hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, ứng dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Bởi vậy, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi dù trong bất cứ giai đoạn
nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc đối với
chúng ta là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của
Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia khác trên thế giới trên mọi lĩnh vực
như kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, khoa học…Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc
một cách vững chắc trong hội nhập kinh tê phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn
hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng
không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
- Về kinh tế: chuyển mạnh từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang phát riển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đây là sự phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ
Chí Minh cho rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kì tất yếu
khách quan, nên Người chủ trương là sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng
phải trải qua thời kì quá độ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là thời kì xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó về chính trị,
mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về kinh tế
thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Quan điểm này đã được nước ta thực
hiện từ khởi sự đổi mới (1986) và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định
trên cơ sở ba chế độ sở hữu(toàn dân, tập thể, tư dân) hình thành nhiều hình thức
sở hữu và năm thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp

luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng cùng nhau phát triển lâu dài, hợp tác cạnh
tranh lành mạnh. Ở đó nên kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
15
chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện
thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Về văn hóa xã hội, con người: Đại hội X đã làm rõ và vận dụng đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng cơ bản và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính chiến
lược trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong thời kì
quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng tinh
thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi,
tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập
trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta
cần ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả
công tác hợp tác quốc tế, phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư,
kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc
chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc
gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh
và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên – lực lượng giường cột
của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cốt cách dân tộc. Chỉ có
bản lĩnh và cốt cách văn hóa dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các
yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu
nền văn hóa dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và
sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
16
nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn,
đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi
trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập khuôn; đã
xác định đường lối đổi mới với các bước đi thích hợp. Thắng lợi của 17 năm đổi
mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình
hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng, trên cơ sở những quan điểm có
tính nguyên tắc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết, càng phải
phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả năng
để thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần khẳng định
rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân nhân dân
ta, do trí tuệ và sức lực của dân ta. Văn kiện Đại hội IX viết: "Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải
đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát
triển đất nước".
Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới trước hết từ sự hoạch định
đường lối của Đại hội VI và sau đó được tiếp tục phát triển, bổ sung qua các đại

hội VII, VIII, IX, X. Để có được sự phát triển nối tiếp đúng đắn đó, vấn đề căn
bản nhất trong lãnh đạo của Đảng là định hướng chính trị đúng cho toàn bộ công
cuộc đổi mới. Điều đó được thể hiện ngay từ những năm đầu của sự nghiệp đổi
mới khi Đảng ta đã đề ra 5 nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới. Đó là
17
đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu
ấy được thực hiện tốt hơn bằng những bước đi thích hợp.
Đổi mới coi xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh
đạo phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ với nhân dân nhưng phải chuyên chính với
kẻ địch. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII (1991) đã đáp ứng những nguyên tắc trên.Cương
lĩnh của Đảng ta được thể chế hoá thành hiến pháp năm 1991 và trở thành cương
lĩnh hành động của cả dân tộc.
Cùng với việc khẳng định rõ nguyên tắc và định hướng đổi mới, Đảng đã kịp
thời phân tích chính xác những nguyên nhân thất bại của các đảng cộng sản và
sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu để đề xuất những chủ
trương lãnh đạo đối với công tác tư tưởng trước những biến đổi của tình hình
trong nước và quốc tế. Đảng kiên quyết không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.

Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đã tiến hành những bước đi đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn, đạt được nhiều thành công nổi bật. Đó là việc kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị một cách thận trọng và vững chắc.

Đại hội X của Đảng (2006), Đảng ta đã có tổng kết 20 năm đổi mới và rút ra 5

bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi
mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động và sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và nhạy bén với cái mới.
18
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.

III.Kết thúc vấn đề

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thực sự là tư tưởng chính trị
đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách
mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc
và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Bên cạnh đó, có thể khẳng định rằng tư
tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó
không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một
chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con
đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người, vì một xã hội, xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng
hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ-

latinh tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song các thế
lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo
lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn
giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận
nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu
xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng
19
chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những
thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng chúng ta tiến hành
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh
không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ
chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số người còn cho rằng đã là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là
không tương dung với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị
trường thì đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng
ta không nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã
hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ
nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng chưa muộn, v.v…
Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục tiêu,
ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối với
cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do
vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng
hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh.

20
21
22

×