PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luân
Phật giáo có bề dày phát triển hàng ngàn năm, có sức ảnh hưởng rất lớn
đối với người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng. Những tư tưởng
triết học Phật giáo, đặc biệt là nhân sinh quan Phật giáo, là một trong những
nhân tố có tác động mạnh nhất đến việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối
sống, nếp sống của con người Việt Nam và con người xứ Huế.
Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan trọng,
có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam. Và Huế
là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất của cả nước. Trong hơn 300 năm
từ 1636 đến 1945, với tư cách là trung tâm chính trị và văn hoá của Đàng
Trong và là kinh đô của cả nước, Huế cũng là thủ đô Phật giáo của cả nước.
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật giáo Huế luôn có nhiều biến đổi rất phức
tạp và phong phú, đôi lúc Huế cũng đã trở thành điểm nóng về tôn giáo của cả
nước thu hút dư luận thế giới.
Phật giáo Huế có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người
Huế hiện nay. Nhắc đến Huế, người ta nghĩ ngay đến cầu Trường Tiền, sông
Hương, núi Ngự Bình, hệ thống lăng tẩm đền đài triều Nguyễn và tháp Phước
Duyên của chùa Thiên Mụ. Đó là những biểu tượng về văn hoá Huế, mà Phật
giáo Huế là một trong những thành tố chung tạo nên nền văn hoá Huế.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua
những bước thăng trầm trong lịch sử. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, những lệch chuẩn các giá trị đạo
đức truyền thống đang diễn ra khá phức tạp, thì ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo trong đời sống tinh thần người Việt Nam nói chung và người
Huế nói riêng càng diễn ra khá rõ nét.
1
Vậy xu hướng ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến con người
Huế là gì? Đây là vấn đề đang đặt ra và cần được làm sáng tỏ ở nhiều góc
nhìn khác nhau. Đó cũng là lý do để tôi chọn đề tài của khóa luận tốt nghiệp
cử nhân ngành triết học của mình là: “Một số ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Huế hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu của khóa luân
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con
người Huế là đề tài khá rộng. Đã có một số công trình nghiên cứu và đạt được
những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên),
Viện Triết học, Hà Nội, 1991 đã nêu một cách có hệ thống lịch sử Phật giáo
Việt Nam từ khi du nhập cho đến đầu thế kỷ XX, và cũng chỉ rõ Phật giáo đến
Việt Nam không xảy ra một lần ở một nơi, mà có sự lan toả nhiều vùng, nhiều
địa danh trong cả nước kéo dài liên tục trong nhiều thời điểm khác nhau, bằng
nhiều con đường. Tuy có nhiều biến đổi thăng trầm khác nhau. Nhưng nó vẫn
có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam có thể thấy từ tín
ngưỡng đến văn hoá, phong tục, tập quán, từ thế giới quan đến nhân sinh
quan, từ tư tưởng đến tình cảm.
Hay trong cuốn “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay” do PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên) cũng chỉ
ra ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân cách con người, đến thế giới quan và tư
duy của con người Việt Nam hiện nay, đồng thời chỉ ra sự khác biệt về ảnh
hưởng của các tôn giáo trong đời sống hiện nay của thanh thiếu niên, hay ảnh
hưởng đối với hệ tư tưởng con người Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra còn có một số công trình khác như: Tư tưởng Phật giáo Việt
Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999; Đại cương
2
triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2002. Hay Nguyễn Hiền Đức với tác phẩm Lịch sử Phật giáo
Đàng Trong, Nxb thành phố Hồ Chí Minh .v.v.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số
điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam, đặc
biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết
hợp với văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần
của con người Việt Nam, nhưng họ rất ít bàn đến ảnh hưởng nhân sinh quan
Phật giáo đến người Huế, nếu không nói là không bàn.
Ở Huế cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về Phật giáo Huế nhưng họ
chủ yếu nói về lịch sử, tín ngưỡng hay là về sự kết hợp danh lam thắng cảnh
của Huế như: Đỗ Bang, Ngô Thời Đôn, Nguyễn Duy Hới…
Còn trong cuốn “Lịch sử Phật giáo xứ Huế” của tác giả Thích Hải Ấn
và Hà Xuân Liêm, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001, đã nêu
lên được một số khác biệt của chùa tháp, pháp khí, tượng phật ở Huế với các
vùng quê khác và nêu lên được một số đóng góp tích cực của Phật giáo Huế
như: nó làm cho con người Huế trở nên thanh nhã, cảnh chùa Huế là môi
trường sinh thái đầy thú vị, hay là những đóng góp về nghệ thuật rất Huế. Tuy
nhiên, Phật giáo Huế còn đóng góp vào việc nâng cao nhận thức, hoạt động từ
thiện hay phát triển du lịch.
Trong luận văn thạc sĩ “Nhân sinh quan Phật giáo Huế qua góc nhìn
lịch sử triết học” của Hoàng Ngọc Vĩnh và đề tài khoa học cấp bộ “Phật giáo
Huế với đời sống văn hóa tinh thần con người Huế” của Thạc sĩ Hoàng Ngọc
Vĩnh. Có thể nhận xét một cách khái quát, công trình nghiên cứu trên đã
khẳng định: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Huế, đặc
biệt là đời sống văn hóa tinh thần. Đã chỉ ra được những đặc trưng riêng của
văn hóa Huế và Phật giáo Huế, qua đó đã làm rõ những tác động mạnh mẽ
3
của Phật giáo đến con người Huế trên nhiều phương diện như: tín ngưỡng,
cấu trúc xã hội, hệ tư tưởng và nhân sinh quan người Huế.
Vì vậy trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình đi trước, khóa luận của tôi chỉ là sự góp phần hiểu thêm sự ảnh hưởng
nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần con người Huế hiện nay mà
thôi.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luân
a) Mục đích của khóa luận là:
Làm rõ ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh
thần con người Huế hiện nay.
b) Nhiệm vụ của khóa luận:
Một là, khái quát những nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
Hai là, chỉ rõ ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống
tinh thần của con người Huế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luân
a) Đối tượng nghiên cứu của khóa luận:
Nhân sinh quan Phật giáo và đời sống tinh thần của người dân Huế
hiện nay.
b) Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian: từ 1986 đến 2011.
Về nội dung: Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời
sống tinh thần của người dân Huế hiện nay.
4
5. Cơ sở phương pháp luân và phương pháp nghiên cứu của khóa
luân
a) Cơ sở phương pháp luận là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối, Chính sách của Đảng và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tôn giáo.
b) Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu xuyên suốt phép biện chứng duy vật. Phương
pháp nghiên cứu cụ thể là các phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp
lôgic-lịch sử, phương pháp điều tra-phỏng vấn và kết hợp các phương pháp
khái quát hóa, trừu tượng hóa v.v.
6. Đóng góp mới của khóa luân
Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu có hệ thống hơn ảnh hưởng của nhân
sinh quan sinh Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần con người Huế.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoặc
tư liệu nghiên cứu cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của khóa luân
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 2 chương, bốn tiết:
Chương 1: Những nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
1.1. Vai trò của nhân sinh quan Phật giáo
1.2. Những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh quan Phật giáo
Chương 2: Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến con
người Huế hiện nay
2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh
thần của con người Huế trong lịch sử
2.2 Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời
sống tinh thần của con người Huế hiện nay
5
NỘI DUNG KHÓA LUẬN
CHƯƠNG 1
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Vai trò của nhân sinh quan Phât giáo
1.1.1 Đối với Phật giáo
Những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, về bản chất tôn
giáo là một trong các hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một cách
hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Ph.Ănghen viết: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chi là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người
của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ
là sự phản ánh trong đó lực lượng siêu trần thế.”[9, tr.679 – 680]
Điều đó có nghĩa là, con người sáng tạo ra tôn giáo, con người này
không phải là con người trừu tượng mà chính là thế giới những con người nhà nước, xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo. Tôn giáo
không sáng tạo ra con người song nó lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của
con người trên nhiều phương diện khác nhau từ thế giới quan đến nhân sinh
quan.
Phật giáo là một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời đã hơn
2500 năm nay, đã được truyền bá và ảnh hưởng tới nhiều quốc gia trên thế
giới như: Mianma, Thái Lan, Việt nam, Trung Quốc, Philippin, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Lào, Mỹ và trở thành tôn giáo nhanh chóng mang tính thế giới.
Trong quá trình du nhập trải qua các thời kì lịch sử, Phật giáo phụ
thuộc vào tình hình kinh tế–xã hội của mỗi quốc gia mà đã biến đổi ít nhiều
cho phù hợp với tình hình trong nước và thế giới. Sự ảnh hưởng của Phật
giáo trên phạm vi quốc tế, đã chiếm một vị trí khá sâu sắc trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam nói chung và Huế nói riêng.
6
Người sáng lập ra Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Tất
Đạt Đa, con trai của vua Tịnh Phạn, dòng họ Sakya. Theo truyền thuyết,
Phật có 547 tiền kiếp trước khi đầu thai làm con vua Sakya. Trong những
tiền kiếp trước ông là những con người hoặc là những con vật, đều đầy
lòng từ - bi - hỷ - xả, sẵn sàng hi sinh vì đồng loại. Kiếp gần nhất của ông
là voi trắng 6 ngà. Khi mới sinh ra Phật có 32 dị tướng, 82 điểm phi
thường, trong đó có việc vừa sinh ra đã đi được bảy bước, được tiên đoán
là hoàng đế trị vì thiên hạ, nếu không thì cũng là đức Phật cứu nhân độ thế.
Ông sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên ở Ấn Độ. Ông
được vua cha cưới vợ vào năm 19 tuổi. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ
cuộc đời vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nổi khổ của chúng
sinh. Sau sáu năm liền tu luyện, Tất Đạt Đa đã ngộ đạo, tìm ra chân lý tứ
diệu đế và thập nhị nhân duyên. Tất Đạt Đa đã trở thành Phật Thích Ca
Mầu Ni. Khi đó ngài vừa tròn 35 tuổi.
Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết
thành văn, thể hiện trong một khối lượng kinh điển rất lớn, gọi là “Tam
tạng” gồm ba bộ phận:
- Bộ kinh thứ nhất đó là Tạng kinh (sutra-Pitaka) ghi lời Phật dạy.
- Bộ kinh thứ hai đó là Tạng luật (Vinaya-Pitaka) gồm các giới luật
của đạo Phật.
- Bộ kinh thứ ba đó là Tạng luận (Abhidharma-Pitaka) gồm các bài
kinh giảng về ý nghĩa của những lời Phật dạy và ý nghĩa của việc giữ giới
luật trong tu hành. Về sau được bổ sung thêm các tác phẩm luận giải, bình
chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả đời sau.
Dù trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều cách nhìn
nhận đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước hết là triết lý nhân
sinh giàu lòng vị tha, thương người, rất gần gũi với con người.
7
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận,
thế giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng về tính thiện có kết cấu chặt chẽ
với nhau. Mỗi yếu tố chứa đựng nội dung với chức năng riêng là tiền đề và
hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo là bắt nguồn từ thế giới quan.
Tuy nhiên mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, giải phóng con
người, mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Thích Ca Mầu Ni đã nhìn thấy rõ sự đau khổ ở đời sống của con
người mà sáng lập ra Phật giáo để con người thoát khỏi nổi khổ đau.
Để làm rõ hơn vai trò của nhân sinh quan Phật giáo ta thử so sánh
triết học phương Đông với triết học phương Tây, thì triết học phương Tây
chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học
thuyết, các phạm trù v.v còn triết học phương Đông nghiêng về việc nghiên
cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là
vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên.
Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ vấn đề
con người, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết mối quan hệ giữa người
với người, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của
con người. Mục đích nhận thức thế giới của triết học đều nhằm phục vụ
cho đời sống của con người và xã hội.
Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo
đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc
điểm cơ bản khác biệt của triết học phương Đông so với triết học phương
Tây. Điều này góp phần lý giải vì sao về mặt thế giới quan của Phật giáo,
nhất là Phật giáo nguyên thủy hơi mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh
quan Phật giáo lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục đích cuối cùng
của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nổi khổ của trần thế thông qua
con đường tu luyện về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như không đề
8
cập và không có chủ trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình.
Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có
vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay là
khác nhau, Như Lai sau khi chết có tồn tại không? Thì người chỉ im lặng vì
mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con người.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị
nhân sinh. Sau khi chứng kiến nổi khổ của con người ở đời sống trần thế,
Thích Ca Mầu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để
giải thoát, cứu khổ cho con người ra khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu
nô lệ ở Ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bàlamôn và
chế độ phân biệt đẳng cấp khắt nghiệt, Phật giáo là tiếng nói trong làn sóng
phủ nhận Brahman và Atman. Phật giáo phủ nhận uy thế của kinh Vêđa và
Bàlamôn, tố cáo chế độ xã hội bất công đòi tự do tư tưởng và sự bình đẳng
xã hội, xóa bỏ nổi khổ trong đời sống nhân dân Ấn Độ. Đây là sự thể hiện
tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội
đương thời. Đức Phật tuyên bố: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng
đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Tư tưởng này ta
cũng bắt gặp ở Hồ Chí Minh đó là, “tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sung sướng và tự do”. Ở Hồ Chí
Minh và Phật giáo có điểm tương đồng, đều có tư tưởng bình đẳng. Họ trải
qua những tháng ngày vất vả thậm chí hi sinh cả tính mạng của mình là
xuất phát từ tấm lòng yêu thương nhân loại sâu sắc, yêu tổ quốc nồng nàn.
Phật giáo trong bối cảnh xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, đó là tiếng nói khát
vọng tự do, bình đẳng, mọi người sống yêu thương nhau.
Có thể nói, học thuyết Phật giáo là một học thuyết lớn trên thế giới.
Nó đã nhanh chóng hòa nhập vào đời sống tinh thần của các quốc gia trong
đó có Việt Nam. Nó được nhân dân ta tiếp nhận bởi triết lý nhân sinh sâu
9
sắc của nó. Triết lý nhân sinh sâu sắc ấy đã làm cho học thuyết Phật giáo
trường tồn với thời gian, được các học giả, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng
quan tâm.
1.1.2 Đối với đời sống xã hội
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều triết thuyết, học thuyết, tôn giáo trở
thành tôn giáo, hệ tư tưởng chính thống của một nước, mà nó phải có giá trị
về mặt lý luận và thực tiễn.
Đối với đất nước ta, hệ tư tưởng chính thống là: Chủ nghĩa Mác–
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng của tư tưởng, là kim chỉ
nam cho mọi hành động. “Trong công cuộc đổi mới với tư duy khách quan
khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam xác
định tín ngưỡng “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, đồng thời các tôn
giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[22; 1].
Vì thời gian có hạn nên trong đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân
triết học của mình, tôi chỉ phân tích vai trò của nhân sinh quan Phật giáo và
làm rõ ảnh hưởng của nó tới đời sống tinh thần con người Huế hiện nay.
Phật giáo có mặt ở nước ta ở những thế kỷ đầu công nguyên, Phật
giáo tuy có lúc thịnh suy, nhưng trên thực tế đã luôn gắn bó với truyền
thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê, hưng thịnh và
đạt đến đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã góp phần ổn định, bảo vệ chế độ
phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa Việt
Nam. Nhân sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng
thấm sâu vào đời sống tâm linh, hướng con người vào con đường thiện
nghiệp, tu dưỡng đạo đức.
10
Hiện nay, tuy không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống xã hội của người Việt Nam, đặc biệt là khía
cạnh nhân sinh chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của con người
Việt Nam mà biểu hiện rõ nét trong đạo lý, lối sống, nếp sống, văn hóa v.v.
Xét Phật giáo từ góc độ quá khứ và hiện tại chúng ta thấy được Phật
giáo tác động sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam,
bằng chứng là Phật giáo hiện đang được phục hồi và phát triển.
- Ở phương diện tín đồ, nhiều tỉnh, thành phố ở đất nước ta có số
người theo Phật giáo ngày càng đông như Bắc Ninh, Thanh Hóa, Thái
Bình, Hà Nội, Huế, v.v. Số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ
hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống
tinh thần xã hội.
- Số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, có
học vị cao như Hòa thượng Thích Trí Thủ, Thích Tịnh Khiết, Thích Giác
Nhiên, Thích Chân Thiện, Thích Hải Ấn, v.v. Số kinh sách xuất bản hàng
năm cũng tăng.
- Về đời sống tâm linh, tín ngưỡng, lối sống, nếp sống và đạo đức,
hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây, người Phật tử Việt Nam rất
chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa
trong các ngày sóc, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng
năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng
tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo đạo Phật, hầu như
tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này.
Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm Từ bi của Phật giáo. Vì khi
đã trở về với Phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó
giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài.
Trong hành động lời nói và ý nghĩ, người Phật tử phải thể hiện lòng Từ bi. Để
11
đạt được mục đích đó, người Phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay.
Thông thường người Việt Nam, cả Phật tử lẫn người không phải Phật tử cũng
theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và
ngày rằm mỗi tháng. Có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và
30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29. Cũng có nhiều người phát nguyện ăn
chay suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng,
tháng bảy và tháng mười) hay cả năm. Đôi khi có một số người đã phát
nguyện ăn trường trai giống như những người xuất gia. Nó còn được thể hiện
truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng, tức là
những ngày linh thiêng. Vì vậy mà ngững người theo đạo Phật hay lên cầu
nguyện vào những ngày này. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày
Trưởng tịnh, Sám hối, Ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại
thừa.
Ngoài việc đi Chùa Sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm
đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện
lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm
dưỡng tánh của họ. Bên cạnh việc đi chùa để sám hối vào ngày rằm, mùng
một, người Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng Chùa, lễ Phật vào những
ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật đản) và rằm tháng
bảy (lễ Vu Lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong
đời sống người Việt. Hay trong các nghi thức ma chay, cưới hỏi. Đây cũng là
sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma chay, theo phong
tục của người Việt Nam. Như vậy nhân sinh quan Phật giáo đã ăn sâu vào đời
sống xã hội Việt Nam. Là món ăn tinh thần không thể thiếu trong mỗi người
dân Việt Nam là bản sắc văn hóa riêng của người Việt.
Nhân sinh quan Phật giáo còn chiếm một vị trí khá đặc biệt trong đời
sống nghệ thuật mà biểu hiện qua các tác phẩm nghệ thuật, các loại hình nghệ
12
thuật được sáng tác và biểu diễn như: hội họa, điêu khắc, cải lương, kịch hay
trong văn học đã làm phong phú thêm lối sống, nếp sống văn hóa của người
Việt Nam.
Triết lý nhân quả báo ứng thể hiện phong phú qua các vở diễn như:
Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, San Hậu, Tam Nữ Đồ Vương, Diễn
Võ Đình, Nghiêu Sò Ốc Hến, Phạm Công Cúc Hoa, Tấm Cám hay trong các
tác phẩm điêu khắc như: các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn
tay ở Chùa Hạ (Vĩnh Phú, cao 3.2m), 16 pho tượng Tổ bằng gỗ của Chùa Tây
Phương (Hà Tây), Bộ tượng Thập Bát La Hán Chùa Phước Lâm (Hội An,
Quảng Nam - Đà Nẵng) hay trong tác phẩm văn học của Nguyễn Du, Nguyễn
Gia Thiều.
Tất cả những tác phẩm trên đều mang tính chất dân tộc chính thống và
chứa đựng toàn vẹn triết lý nhân quả báo ứng và hướng thiện một cách cao
đẹp. Hay trong các câu chuyên cổ tích của người Việt Nam. Ở Việt Nam, từ
thuở xa xưa, Phật chính là “Bụt”. Bụt ở đây là cách dịch âm khác của
“Buddha” có nghĩa là Phật, là giác ngộ. Hình ảnh ông Bụt hiện lên trong
nhiều câu chuyện cổ tích như truyện Tấm Cám, Cây Khế, Thạch Sanh và Lý
Thông, Cây Tre Trăm Đốt, v.v, luôn là người đem lại niềm vui, hạnh phúc
cho những người tốt bụng mà gặp điều không may, đồng thời Bụt cũng là
người trừng phạt cái xấu, kẻ ác. Qua đây chúng ta rút ra được những triết lý
nhân sinh như ở hiền gặp lành, ở ác thì gặp ác, cái thiện sẽ thắng cái ác, cái
thiện sẽ được hưởng hạnh phúc còn cái ác tất yếu phải bị trừng trị.
Nước ta đã trải hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ ác liệt, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu cần đến sự phát triển. Sau khi học
tập và thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta chuyển từ nền kinh tế quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế nước ta có sự tăng
trưởng xã hội, nhưng bên cạnh đó cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực đến đời
13
sống xã hội Việt Nam như lối sống chạy theo đồng tiền, sống buông thả làm
tha hóa đạo đức. Tuy nhiên với sự góp mặt của Phật giáo mà nhất là ảnh
hưởng của nhân sinh quan Phật giáo làm cho đời sống xã hội Việt Nam có sự
cân bằng hơn, phong phú hơn, chúng ta hòa nhập nhưng không hòa tan, vẫn
giữ được bản sắc truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Nhân sinh quan Phật giáo đem lại trong nhân cách, phẩm chất, lối sống,
nếp sống của con người Việt Nam là lòng nhân ái và sự chia sẽ. Quán triệt
triết lý “nhân nào quả ấy” nên “mỗi người dân Việt Nam luôn đồng cảm với
nỗi đau của người khác và sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” cho nhau với tinh
thần “lá lành đùm lá rách, lách ít đùm lá rách nhiều”. Tư tưởng “thương người
như thể thương thân” đã được nhân dân ta tôn trọng, giữ gìn và truyền lại cho
nhiều thế hệ sau để làm nổi bật nét đẹp trong văn hóa - văn hóa ứng xử của
nhân dân ta - là tinh thần nhân văn, hướng thiện. Tinh thần nhân văn, hướng
thiện là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, tồn tại
xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong
cuộc sống ngày nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động đến lối
sống, cách suy nghĩ của giới trẻ, của học sinh trung học phổ thông. Khi cá
nhân và lợi ích cá nhân được đề cao thì những giá trị nhân văn trong văn hóa
truyền thống của dân tộc không tránh khỏi những thách thức. Do đó, giữ gìn
và phát huy tinh thần nhân văn, hướng thiện cho học sinh trung học phổ thông
hiện nay là một nguồn nội lực quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển bền vững của đất nước. Tấm lòng khoan dung và vị tha - là một
trong những yếu tố làm cho con người Việt Nam trở nên gần gũi - làm cho đất
nước Việt Nam trở nên thân thiện. Vì thế, tuổi trẻ hôm nay phải tiếp bước cha
anh để cho tinh thần khoan dung của dân tộc trường tồn và luôn tỏa sáng. Để
làm được điều đó, các bạn trẻ hãy đi lên bằng đôi chân và làm việc bằng bàn
tay, khối óc của chính mình. Làm việc đúng với khả năng của mình có, không
14
dựa dẫm, ỷ lại, đề cao tính trung thực, phải biết nâng niu những số phận bất
hạnh, biết tha thứ cho lỗi lầm của người khác, hãy luôn dành cho nhau những
nụ cười, những ánh nhìn thân thiện. Đồng thời, hãy tha thứ cho chính mình,
bởi không có lỗi lầm nào là không thể xóa bỏ được. Là tinh thần đoàn kết và
hợp tác trong học tập, lao động.”[16, tr.202 – 203]
1.2 Nội dung nhân sinh quan Phât giáo
Nhắc đến nội dung của Phật giáo người ta nghĩ ngay đến nhân sinh
quan Phật giáo hay là triết lý nhân sinh Phật giáo. Với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu sự qui định của tồn tại xã hội và
tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này giải thích tại sao trong
lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan Phật giáo có sự biến đổi, không
còn giữ nguyên như ở Phật giáo nguyên thủy.
Nghiên cứu chi tiết, trong lịch sử phát triển của đạo Phật ta thấy các
phái Phật giáo có những quan niệm khác nhau về nhân sinh. Phật giáo được
chia làm hai phái, phái Tiểu Thừa và phái Đại Thừa. Giữa hai phái này thì
phái Đại Thừa có số lượng tín đồ nhiều hơn phái Tiểu Thừa. Phái Tiểu thừa
coi trọng “xuất gia khổ hạnh”, chủ trương “ngã không pháp hữu”, đề cao sự
giải thoát chính mình với mục đích cuối cùng là chứng đắc La Hán. Tư tưởng
chủ yếu của Phật giáo Tiểu thừa là “tịnh độ” và “xuất thế gian”, nhấn mạnh cuộc
đời là bể khổ mà nguyên nhân là do “Thập nhị nhân duyên”. Mục đích thoát khổ
là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm tục, diệt dục mới có thể rũ bỏ bụi
trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Còn Phật giáo Đại thừa không quá đề cao xuất
gia khổ hạnh, chủ trương “ngã pháp đều không”, tự giác ngộ và giác ngộ người
khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa cũng có nhiều
biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa ở sự tôn nghiêm cũng như nội dung.
Nếu giới luật của Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới
15
luật của Đại thừa lại thường hướng đến lợi ích cho người khác. Phật giáo Đại
thừa về sau phát triển và lại chia thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ
Ấn Độ và truyền bá ra các nước xung quanh, triết lý Phật giáo nói chung và
nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển ngày càng đa dạng
phong phú để thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc trong
những thời kỳ lịch sử nhất định.
Mặc dầu Phật giáo có nhiều tông phái, hơn nữa trong quá trình phát
triển, giáo lý được bổ sung hoàn thiện. Tuy vậy các tông phái vẫn đề cập đến
vấn đề cơ bản như vấn đề bản thể và nhân sinh quan. Trong khóa luận này,
tác giả chỉ bàn về nhân sinh quan Phật giáo.
1.2.1 Về con người
Nếu như triết học Tây Âu trung cổ cho rằng con người có nguồn gốc từ
thượng đế do thượng đế sinh ra. Thì Phật giáo cho rằng con người không do
thượng đế hay thần thánh sinh ra mà quan niệm về con người của Phật giáo
tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái
sinh.
Nếu như theo quan niệm của triết học Mác–Lênin, con người là thực
thể sinh học – xã hội, “bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”[14, tr.11]. Thì theo Phật giáo con người là sự
kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Nó thể hiện trong thuyết
Danh sắc.
Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh
thần nhờ duyên Danh-Sắc. Có hai cách lý giải:
+ Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:
16
- Địa: Nghĩa là đất, xương thịt.
- Thủy: Nước, máu, chất lỏng.
- Hỏa: Lửa, nhiệt khí.
- Phong: Gió, hô hấp.
- Không: Các lỗ trống trong cơ thể.
- Thức: Ý thức tinh thần.
Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu tức là: địa, thủy, hỏa, phong, không
thuộc về vật chất, còn yếu tố cuối cùng tức là yếu tố thức thuộc về tinh thần.
+ Thuyết Ngũ uẩn: Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.
- Sắc: Vật chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong.
- Thụ: Tình cảm, cảm giác con người.
- Tưởng: Tưởng tượng, tri giác, ký ức.
- Hành: Ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động.
- Thức: Ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành.
Trong 5 yếu tố này thì yếu tố đầu tức là sắc bao gồm: địa, thủy, hỏa,
phong, thuộc về vật chất, còn 4 yếu tố sau tức Thụ, Tưởng, Hành, Thức là các
yếu tố thuộc về tinh thần.
Phật giáo cho rằng con người được cấu tạo bởi phần sinh lý và phần
tâm lý là sự biến đổi theo chu trình của Lục đại hoặc Ngũ uẩn. Phần sinh lý
bao gồm: địa, thủy, hỏa, phong, không được giới hạn bởi mối quan hệ sắc
hình và sắc tướng cùng với mối quan hệ cụ thể là: xương, thịt, da. Còn phần
tâm lý được biểu hiện với mối quan hệ thụ, tưởng, hành, thức cùng với các
trạng thái khác nhau của con người đó là ái, ố, nộ, hỉ, lạc, ái dục. Như vậy đây
17
cũng là sự biểu hiện trong mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác tức là không
do một đấng sáng tạo nào hay thần thánh nào tạo nên mà là sự kết hợp của
danh và sắc hay giữa tâm và vật. Con người là sự kết hợp giữa phần tâm lý và
sinh lý, khi thể xác con người mất đi thì phần tâm lý của con người mất đi
nhưng lại chuyển sang một trạng thái khác và những trạng thái này gọi là luân
hồi bởi nghiệp chi phối.
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ
uẩn là phổ biến hơn cả. Phật giáo cho rằng, con người không có thực thể là
“không”, gọi là “nhân vô ngã” (nhân không). Con người được tạo thành từ
Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thường tự tại. Con người là sản vật,
tự nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất
trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính
cách, màu da. Có bốn loại thực:
- Đoạn thực: Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn
nước uống hàng ngày.
- Xúc thực: Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
- Tư thực: Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
- Thức thực: Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng
tinh thần thanh cao.
Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì
là vĩnh hằng, bất biến. Xuất phát từ triết lý nhân duyên khởi, Phật giáo cho
rằng thế giới là luôn luôn biến hóa, vô ngã, vô thường. Theo Phật giáo, có hai
loại vô thường. Đó là sátna vô thường và tương tục vô thường. Trong đó,
sátna vô thường chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian cực ngắn. Còn tương
tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh - trụ - dị - diệt
18
(đối với sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối với con
người là sinh - lão - bệnh- tử.
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của
những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn
như thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả không có thực, con
người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là hư
vọng tạm bợ. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra gọi
là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô thường con
người tưởng là thường, vô ngã mà tưởng có ngã. Thân xác con người là
nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ như đói khát, sinh, lão, bệnh, tử,
nóng, giận, dâm dục v.v. đều có gốc từ con người mà ra. Điều này cho thấy,
Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con người là khổ.
Triết học Mác–Lênin cho rằng con người chết là hết, không có con
người hiện hữu ở thế giới bên kia, chỉ có con người tồn tại trong thế giới hiện
thực. Nếu ta đem quan niệm này vào trong Phật giáo là chưa hiểu đúng Phật
giáo, mà theo Phật giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Nó
chuyển sang một trạng thái khác, những trạng thái này gọi là luân hồi và
nghiệp. Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng thuyết luân hồi
nghiệp báo. Khi con người hình thành thì mọi suy nghĩ, hành động được ghi
lại ở một nơi là Alaya, cứ thế tích tụ thành Karma - Luật vô hình đặc trưng
của người. Khi con người chết luật vô hình quay lại gặp điều kiện thuận lợi
tạo thành sinh linh mới chịu quả ở kiếp trước và nhân ở kiếp sau cứ thế luân
hồi. Cuộc đời con người là một mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một
gợn sóng trên mặt biển bao la. Cuộc sống của con người trên trần thế không
thay đổi được, nó do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả, mọi việc làm của
con người đều là nhân của sự kết hợp ngũ uẩn tiếp theo.
19
Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào
hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này ra sức học tập thì
đời sau thông minh sáng suốt, đời này lười biếng thì đời sau ngu đần dốt nát,
đời này sát sinh thì đời sau chết yểu, đời này phóng sinh thì đời sau sống lâu,
đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ, đời này có tâm vỗ về an ủi
người khác thì đời sau hạnh phúc, đời này giận dữ cáu kỉnh thì đời sau tướng
mạo xấu xí.
Như vậy Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ
phổ biến và chi phối tất cả. Phật giáo nguyên thủy cho thế giới này không có
nguyên nhân đầu tiên cũng như cuối cùng, thế giới không do một đấng tối cao
nào sáng tạo ra, từ đó đi đến bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Thượng đế hay
linh hồn là lực lượng đầu tiên sáng tạo ra muôn vật. Tuy nhiên, quan niệm về
mối liên hệ nhân quả mà Phật giáo đề cập và nhấn mạnh thuộc lĩnh vực đạo
đức, tinh thần.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng sự vật trong vũ trụ là hệ
thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô
cùng tận, thế giới là vô thủy vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến.
Mọi cái đều biến đổi vận động không ngừng, không có cái vĩnh hằng, mọi vật
đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới
hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc,
thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Theo luật nhân quả của Phật
giáo, những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra sự ngũ uẩn tiếp
theo. Bản thân nghiệp này do kiếp trước quy định, cứ thế con người ở trong
vòng luân hồi sinh tử không ngừng từ đời này sang đời khác. Điều đó ít nhiều
mang tính biện chứng. Tuy nhiên, do tuyệt đối hóa sự vận động và gắn sự vận
động với tính giả tạm vô thường của sự vật, cho nên Phật giáo không có được
quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng im
20
tương đối, không thấy được sự vận động bao giờ cũng gắn với sự phát triển
mà điều này ta thấy rất rõ trong triết học Mác–Lênin, ta thấy được tính khoa
học về vấn đề này trong triết học Mác–Lênin.
1.2.2 Về cuộc đời con người
Triết học Phật giáo được liệt kê vào hệ thống triết học không chính
thống bởi vì nó bác bỏ Brahma và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi
Samsara và nghiệp Karma của Upanisad, cho rằng, mọi vật mất đi ở chỗ này
là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử luân hồi đó là do
nghiệp chi phối theo nhân quả. Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả
luân hồi sinh - tử, tử - sinh đó. Phật nói: ‘‘Này các đệ tử, ta nói cho mà biết,
nước ngoài biển khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta ở đây chỉ có một vị là vị
giải thoát.” Như vậy múc đích cuối cùng của Phật là tìm ra con đường giải
thoát, đưa chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi bất tận đó. Đức Phật nêu ra Tứ
diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Đây là quan niệm được phản ánh trong bài
thuyết pháp đầu tiên của đức Phật nhằm cắt nghĩa bản chất của nhân sinh,
nguyên nhân gây ra đau khổ và con đường khắc phục. Tứ diệu đế là bốn chân
lý giải thoát tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người đều phải nhận thức được
đó là: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
a) Khổ đế (Duhkha – satya)
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người từ
khi sinh ra và chết đi là bể khổ. Phật nói : “Đời là bể khổ, đời là cả những
chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều
hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển.”
Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết
học Phật giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là tạm bợ. Do vô minh,
con người không nhận thức được điều đó, do đó cứ chìm đắm mãi trong biển
21
sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy rẫy những nỗi khổ, nhưng không ai
nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có
thể chia làm ba loại khổ hay tám thứ khổ. Như vậy Phật giáo đã dựa trên hiện
thực xã hội Ấn Độ bấy giờ để đưa ra ba loại khổ và tám thứ khổ. Đánh dấu
thời kì cuộc sống của con người bị áp bức bóc lột về thể xác cũng như tinh
thần.
+ Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khổ: Muốn nói tới cái khổ chồng chất nối tiếp cái khổ. Mỗi
chúng sinh là nạn nhân của bao cái khổ. Cái khổ có ở ngay thể xác như bệnh
tật hiểm nghèo lại có cái khổ khác bên ngoài thể xác như động đất, núi lữa,
sóng thần, chiến tranh. Tất cả những cái khổ đó liên tiếp dồn dập đến với con
người.
- Hoại khổ: Do sự thay đổi tạo nên tuân theo luật vô thường - không có
cái vĩnh hằng. Ca dao có câu “nước chảy đá mòn”, để nói một sự vật vững
chắc, cứng rắn như đá nhưng cùng với thời gian chịu tác động của ngoại cảnh
cũng phải thay đổi rồi bị hủy diệt tan biến. Con người cũng vậy, không thể
nằm ngoài quy luật chung đó.
- Hành khổ: Những nỗi khổ về tinh thần con người, do không làm chủ
được mình bị lôi kéo vào những dục vọng làm cho tâm bị dằn vặt sinh ra buồn
vui, giận hờn, yêu ghét.
+ Tám thứ khổ (Bát khổ): Theo Phật giáo tám thứ khổ trong cuộc đời
của một con người gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất
đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa, biểu hiện một cách rõ nét hơn về các
nỗi khổ của chúng sinh ở trần thế, song nội dung thì được bao hàm bởi ba khổ
trên.
22
- Sinh khổ: con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời, trước đó
còn ở trong bụng mẹ thì chật chội tăm tối, người mẹ mang thai con thì vất vả
mệt nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác.
- Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước
hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại. Muốn vậy, con người phải lao động
hết sức vất vả, cực khổ, tất bật trong công sống mưu sinh. Đó là về mặt vật
chất, còn những nỗi khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi
khổ về vật chất, nó làm con người suy kiệt, ốm yếu (lão khổ). Con người đến
lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác quan, hoạt động kém dễ
sinh bệnh gây đau ốm cho người bệnh và người thân xung quanh.
- Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế
để lại nỗi xót thương vô hạn cho người thân, bè bạn dẫu biết đó là qui luật.
- Ái biệt ly: nỗi khổ khi phải xa cách chia ly người mình thương yêu
như vợ chồng, cha mẹ, anh em. Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt
ly: Sống phải xa nhau là khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì
đó là nỗi khổ tình thương.
- Oán tăng hội khổ: nỗi khổ vì phải sống cùng với người mà mình
không hề yêu thích.
- Sở cầu bắt đắc khổ: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước
ao mà không được.
- Ngũ thụ uẩn khổ gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân
tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ.
Triết lý khổ đế đã chỉ ra những nỗi khổ lớn nhất trong cuộc đời con
người. Trên bình diện triết học cái khổ còn là sự vô thường, thay đổi không
hoàn thiện. Khổ còn là trạng thái bị quyết định. Khổ trong Phật giáo có ý
nghĩa là làm cho con người vươn lên sống tốt sống thiện để đời sau tốt hơn.
Giá trị của nó còn ở chỗ thử thách con người trong đau khổ mới thấy được giá
23
trị phẩm chất con người. Nỗi khổ có ở đời khi gặp phải không làm cho tinh
thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ
được bản thân, vượt lên trên số phận. Nhưng mặc khác nó cũng bộc lộ hạn
chế đó là với triết lý khổ đế này làm cho con người chìm đắm trong đau khổ
mà không thấy mặt lạc quan. Đó là bi kịch đau khổ của con người. Phật giáo
đã không nhìn thấy khả năng phản kháng, đấu tranh vươn lên của con người.
b) Tập đế (Samudaya – satya)
Từ khổ đế Phật giáo đi đến giải thích mười hai nguyên nhân dẫn đến
nỗi khổ của con người là thập nhị nhân duyên.
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái
khổ. Phật giáo cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị
nhân duyên. Đó là lòng tham sống mà luân hồi sinh tử: càng tham, càng
muốn, càng được lại càng tham. Con người tham sống, tham sướng, tham mạnh,
sợ chết. Nguyên nhân của lòng tham là vô minh, vô minh nghĩa là không sáng
suốt, u tối, không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo
giả, mà cứ cho là thực, Vì thế con người cứ chạy theo thế giới đó và chính nó
dẫn đến lòng tham tham sân si dục vọng ở trong con người. Phật giáo đã đi
đến các giới luật để các tăng, ni trong Phật giáo làm theo hạn chế dục vọng,
tăng có 250 điều, thì có 348 điều cấm. Vô minh chính là nguyên nhân gây nên
nổi khổ cho con người là tinh thần có giá trị quyết định đến con người trầm
luân trong bể khổ hoặc giải thoát con người.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục
là hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa
ái dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là tam độc:
tham, sân, si.
- Tham: Biểu hiện sự tham lam của con người làm xúi dục con người
hành động để thỏa mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không
24
có giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như
chém giết, xâm hại lẫn nhau.
- Sân: Sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về
điều gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận
quá mất khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con
người. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng
công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở.
- Si: Sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở;
điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham sân nổi lên mà có
trí sáng suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân.
Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhân của 12 nỗi khổ (Thập
nhị nhân duyên).
- Duyên hành: là hành động có ý thức, ở đây đã có sự dao động của
tâm, có mầm mống của nghiệp. Nghiệp sinh ra nổi khổ trong đời sống. Bất
cứ hành động nào dù lớn hoặc nhỏ đều để lại kết quả tất yếu là nghiệp.
- Duyên thức: Thức là sự vận động của ý thức , của tư duy biến đổi
theo khuynh hướng mất cân bằng, trong sáng của tư duy, lầm lỗi không nhận
thức được chân lý với nghĩa ấy nó lại quay trở về với vô minh. Đấy chính là
sự mất cân bằng của tư duy và ý thức trong đời sống của con người.
- Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần , là sự
gặp gỡ giữa con người và vạn vật nói chung là nơi bắt đầu của nổi khổ của
con người.
- Duyên lục nhập: là căn nguyên để hình thành nổi khổ của con người
từ yếu tố bên ngoài làm cho con người mê đắm dẫn tới vô minh, ái dục.
- Duyên xúc: Là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc,
là quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
25