Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn ren viet doan van 2016 2017b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.03 KB, 12 trang )

TÊN ĐỀ TÀI
GIÚP HỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC ĐOẠN VĂN NGẮN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài
Trong Chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt cùng với các
môn học khác trong nhà trường Tiểu học có vai trò quan trọng góp phần đào tạo
nên những con người phát triển toàn diện.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học được chia thành các phân môn nhỏ khác
nhau như: phân môn Chính tả; phân môn Tập viết; phân môn Luyện từ và câu và
cuối cùng là phân môn Tập làm văn. Trong phân môn Tập làm văn đối với lớp 2 sẽ
có nhiệm vụ quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh các kĩ năng nghe, nói,
viết phục vụ cơ bản cho việc học tập và giao tiếp khi các em lên các lớp trên.
Trong phân môn Tập làm văn lớp 2, ngoài các bài về nghi thức tối thiểu, về
một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày thì nó còn rèn luyện cho
học sinh có kĩ năng diễn đạt lời nói, biểu đạt suy nghĩ của bản thân bằng cách viết
các đoạn văn ngắn.
Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt- Học âm – vần, các em đã được luyện
nói từng câu ngắn. Tuy nhiên, do vốn từ của các em còn ít nên việc diễn đạt còn rất
hạn chế. Thực tế sang đầu năm lớp Hai, hầu hết các em chỉ nói được các câu ngắn,
trả lời chưa đủ ý, diễn đạt câu văn còn rời rạc. Do đó nhiệm vụ của giáo viên lớp
Hai là tiếp tục rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho các em.

.

Chính vì những lý do thiết thực được nêu trên mà tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài sáng kiến kinh nghiệm là: “Giúp học sinh lớp Hai viết được đoạn văn ngắn”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Hình thành và rèn luyện kĩ năng diễn đạt của học sinh thông qua ngôn ngữ viết
một cách trôi chảy, rõ ràng và đầy đủ.
1



- Góp phần rèn luyện cho học sinh có kĩ năng diễn đạt lời nói, biểu đạt suy nghĩ của
bản thân bằng cách viết các đoạn văn ngắn sao cho lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu :
3.1. Nhiệm vụ :
- Tìm hiểu thực trạng về kĩ năng biểu đạt ý nghĩ của học sinh lớp 2 qua ngôn ngữ
viết.
3.2. Phạm vi nghiên cứu :
- Đối tượng : Học sinh lớp 2/1
- Tài liệu : Sách giáo khoa Tiếng Việt, sách hướng dẫn giáo viên…
4. Thời gian nghiên cứu
- Tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài này từ đầu năm đến cuối học kì II trong năm
học 2015-2016.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
5.1. Nghiên cứu tài liệu :
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục .... có liên quan đến nội dung đề tài.
- Đọc SGK, sách giáo viên, các loại sách tham khảo
5.2. Nghiên cứu thực tế :
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về kết quả các tiết Tập làm văn.
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Vai trò của phân môn Tập làm văn đối với học sinh Tiểu học
- Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết
trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các

2



em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình
thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.
- Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong
môn Tiếng Việt hội đủ 4 kĩ năng trên. Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân
môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên
cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học
sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến
các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh
nghèo vốn từ ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học
phân môn Tập làm văn nói riêng.
2. Cơ sở thực tế
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được làm
quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong quá
trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt
yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai,cách chấm câu còn hạn chế
có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số
câu nhưng viết không đủ ý.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế
nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để
tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình.
Đây là lý do tôi chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm với nội dung “ Giúp học sinh
lớp Hai viết được đoạn văn ngắn ”.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
1. Thực trạng
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập
làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa
chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân tích để sử

3


dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm
các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
2. Giải pháp
Để giúp học sinh học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu
của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau:
a) Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh kết hợp
phương pháp quan sát và hỏi đáp
Kĩ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi
ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần
khai thác kĩ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng ,
mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng
hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có
cảm xúc về sự vật.
b) Phương pháp thực hành giao tiếp
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói,
trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh
giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tôi thường tổ chức cho học
sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( Học sinh có thể kết nhóm theo ý
thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm )
c) Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường
sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn.
Sử dụng phương pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu,
nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
• Về kĩ năng


4


Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá nhiều
câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để viết được
một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.
2. 1 .Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ.
Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn bị,
đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở
nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, giáo viên
có thể soạn , cung cấp những câu hỏi cho các em .Đồng thời có thể cho các em
quan sát một số bức tranh , hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các em có
thêm vốn sáng tạo cho bài văn thêm sinh động.
Ví dụ
Bài viết về gia đình
- Gia đình em gồm những ai?
- Những người đó làm công việc gì?
- Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
Bài viết về một loài cây
- Đó là cây gì, trồng ở đâu ?
- Hình dáng cây như thế nào?
- Cây có lợi ích gì ?
Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm
- Em ( bạn em )đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (bạn ấy ) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt đó?
2.2 Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn


5


a.Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu )
b. Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể
diễn đạt 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
c.Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong
ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối
tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu:

- Trong thế giới loài chim, em thích nhất là

- Giới thiệu về chim sáo

chim sáo .

Các câu phát triển:
- Kể về chim sáo

Chim sáo được ông em nuôi đã hai năm rồi.
Mỏ nó vàng. Lông màu nâu sẫm. Nó hót suốt
ngày. Đôi khi còn nói được cả tiếng nguời.
Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc,
nuôi trong một cái lồng rất to, bên cạch một


Câu kết thúc:

cây hoa lan rất cao toả bóng mát.
Em thích nhất chim sáo vì chúng là

- Tình cảm của em đối với những con vật hiền lành, dễ thương.
loài chim này
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các
em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình
thành kĩ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi
các em phải thể hiện được ngay những kĩ năng mới được hình thành. Trong quá
trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho học
6


sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho việc học tập môn
phân Tập làm văn ở các lớp trên.
B .Về kiến thức
2.1.Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn
ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho học sinh. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề
bài sau đây:
Viết một đoạn văn ngắn về
 Cô giáo ( hoặc thầy giáo ) cũ của em
 Gia đình
 Một em bé
 Các mùa trong năm
 Kể một việc làm tốt
 Một con vật
 Tả ngắn về biển

 Viết về Bác Hồ
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
2.2 Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức có
liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu với
phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện
tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp
những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề
tài, vận dụng kĩ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ
Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần 16),
với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình, cùng
7


với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ ngữ cho
học sinh, ngoài việc giúp học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là
những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thông qua các
nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng
cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn cung cấp
thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù
hợp với đề tài ( ông bà, cha mẹ, anh em ) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp tới ( viết
về người thân ), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và lựa chọn
những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi và kích
thích tinh thần học tập của các em.
2.3. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý
Các bước hình thành
- Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh

trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
- Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp và gợi ý để các em có
thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu văn có
hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn ( khuyến khích học sinh
khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là
phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so
sánh , cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra với đối tượng học
sinh lớp 2 ).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn
chỉnh bài làm miệng.
- Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết liền mạch
các câu trả lời thành một đoạn văn.
- Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích thích tinh
thần học tập của học sinh.
2.4. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài
8


Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều
chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập
nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai .
Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết lựa
chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo viên
giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi sửa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước,
hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy
sự khác nhau về cach diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng những bài
làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.
3. Kết quả đạt được
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn

Tập làm văn của lớp tôi đạt kết quả như sau:
Lớp 2/1
(20 em )
Trước khi thực hiện

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

7 em

5 em

3 em

5 em

10 em

6 em

4 em

0 em

đề tài ( Đầu năm)

Sau khi thực hiện đề
tài ( Cuối HKII)

III. KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau:
- Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học.
9


- Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh
hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát
triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
-Sử dụng nhiều hình thức: thi đua , khen thưởng để khuyến khích các em nỗ
lực học tập.
2. Một vài đề xuất
Trên đây là sáng kiến mà tôi đã áp dụng để dạy phân môn Tập làm văn ở lớp
Hai.
Tôi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng học tốt phân
môn Tập làm văn của học sinh.Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm
tòi, sáng tạo ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất
lượng giờ dạy.
Tôi chỉ có một kiến nghị nhỏ: đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục trang bị thêm
cho chúng tôi tranh ảnh, mẫu vật, băng hình có nội dung theo các bài học để giờ
dạy đạt kết quả cao hơn.
Rất mong Ban giám hiệu và các đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình.
Hòa Phú , ngày 5


tháng 12 năm 2016

Người viết

Trần Thị Bìn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

10


- Tạp chí giáo dục tiểu học
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học
- Tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt 2
- Sách giáo viên Tiếng Việt 2
- Sách thiết kế bài giảng Tiếng Việt 2
- Phương pháp dạy học Tiểu học
- Từ điển Tiếng Việt

MỤC LỤC
Trang
11


I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Thời gian nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu

II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I : Cơ sở lý luận
1. Vai trò của phân môn Tập làm văn đối với học sinh Tiểu học
2. Cơ sở thực tế:
Chương II : Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng
2. Giải pháp
3. Kết quả
C. Kết luận
1. Bài học kinh nghiệm
2. Một vài đề xuất
3.Tài liệu tham khảo

1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
4
9
10
10
10

11

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×