Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.54 KB, 22 trang )

I:

T VN

1/ Lý do chọn đề tài
Nh chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là
vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học
sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng nh trình độ học vấn cho các em ngay khi
đang học bậc học THCS và trởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu d ỡng, biết yêu thơng, quí trọng gia đình,
bạn bè, có lòng yêu nớc, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hớng tới những tình cảm cao đẹp
nh lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái
ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có t duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực
cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Tr ớc hết là trong văn học có
năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt nh một công cụ để t duy và giao
tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải h ớng dẫn cho
các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn
văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các ph ơng tiện liên kết trong
đoạn văn. Tuỳ theo từng phơng thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp,
diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết đợc đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng nh vậy để tạo
thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng
các phơng tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều
những phơng tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập nhật
liên tục khiến cho học sinh lao vào con đ ờng say mê
nghiện sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách
kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham đọc sách, ham
nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng là
vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các


em.Hơn thế nữa, tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn
Văn Tiếng Việt, môn Tập làm văn đợc xem nh vị trí cốt lõi trong mối tơng quan


chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Nh vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là
dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông th ờng. Rèn
luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những b ớc
đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn
tập làm văn đợc coi nh vị trí hàng đầu. Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh
THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận
thuyết minh, điều hành ( hành chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các
thể loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những
kiến thức của môn Văn Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có
thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản
khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em b c lộ những
tri thức, vốn sống t tởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế ng ời giáo viên phải biết nắm
lấy u thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời qua việc rèn luyện
kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh những lệch trong vốn
sống, nhận thức, t tởng tình cảm - đặc biệt qua các thể loại văn học mà các em sẽ học
trong chơng trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học sinh
THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu
và xây dựng các bớc để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn đợc tốt hơn.
2/ Lịch sử vấn đề
Nh chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học
sinh đã đặt ra từ lâu nhng cha đợc quan tâm nhiều do phân môn Tập làm văn ch a đợc
xem là phân môn chính và có nhiều quan niệm khác nhau:
Trớc cải cách giáp dục (Từ những năm 1980 trở về tr ớc), phân môn Tập làm văn
thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm Tập làm văn giúp cho học

sinh tạo lập đợc những văn bản văn học.
Đến cải cách giáo dục (1980 2001), Tập làm văn là một phần của môn
TiếngViệt, quan niệm dạy môn này và Tiếng Việt có tính chất nh là công cụ để học
tốt các môn học khác. Làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản.


Giai đoạn hiện nay: phân môn Tập làm văn có tính độc lập nh ng có mối quan hệ
trực tiếp đến phần Văn và phần Tiếng Việt.
Lần thay sách giáo khoa này, phân môn Tập làm văn đ ợc tích hợp cùng phân
môn Văn và Tiếng Việt trong ch ơng trình Ngữ Văn mới. Các kiểu văn bản của Tập
làm văn chính là trục để xây dựng nội dung, ch ơng trình Ngữ Văn THCS từ năm học
2002 2003.
3/ Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích.
Phân môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm đ ợc các thể loại trong chơng trình
tập làm văn ở THCS nh Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh, Điều
hành. Từ đó, giúp học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học
tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết cách xây dựng đoạn
văn với bố cục đoạn văn dù ngắn hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn
chỉnh về hình thức, hớng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục
ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết luận.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. ý chính đó, có thể đứng ở đầu
đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp hoặc ý
chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức
nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu
đợc qua các môn Văn Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội để có thể nói
và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống
đặt ra cho các em.
Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn còn trực tiếp rèn luyện cho học sinh

một số đức tính nh lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trìBởi vì môn này góp
phần phát triển trí tởng tợng óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai, tốt, xấu, phải,
trái Từ đó, nuôi dỡng tâm hồn học sinh hớng tới cái chân, thiện, mĩ.
b. Nhiệm vụ
Ngời giáo viên phải nắm lấy u thế của học sinh nh những tri thức, vốn sống, t tởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó uốn nắn, điều


chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, t tởng, tình cảm của các
em.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi d ỡng tâm hồn, trí tuệ để
học sinh biết rung động trớc cái hay, cái đẹp, hớng các em tới nhu cầu thẩm mĩ, sáng
tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mĩ khi xây dựng đoạn văn.
Là bộ môn khó, đặc biệt yêu cầu kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải
dày công, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kĩ năng phân tích đề,
lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt. Trong đó, cách viết đoạn,
dựng đoạn càng quan trọng trong bớc đầu tạo lập viết đoạn, dựng đoạn càng quan
trọng trong bớc đầu lập văn bản. Cũng từ dựng đoạn, nhiệm vụ của giáo viên Ngữ
Văn là phát huy năng lực t duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, giúp các em biết tích luỹ
vốn kiên thức, biết huy động vốn kiến thức, biết đặt ra các vấn đề và giải quyết các
vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả t duy của mình một cách rõ ràng, chặt chẽ,
có sức thuyết phục trớc từng vấn đề, từng kiểu văn bản khi viết đoạn và trong giao
tiếp. Là phân môn có tính thực hành cao, nên giáo viên cần cho học sinh đọc nhiều
đoạn văn mẫu, viết nhiều đoạn văn để tạo lập văn bản đ ợc dễ dàng hơn. Đó là những
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của giáo viên Ngữ văn trong b ớc rèn luyện kĩ năng
viết đoạn văn cho học sinh THCS.
4/ Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
Điều tra các đối tợng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở trờng THCS
Đối tợng phần lớn là học sinh khối lớp 7 - bậc THCS.
5/ Phơng pháp nghiên cứu.
Trớc hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ ch ơng trình ở cấp THCS

nh sau:
Chơng trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chơng trình Tập làm văn của Tiểu
học nhng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chơng trình ở THCS, mở rộng
các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chơng trình Tập làm văn có
mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn Tiếng Việt Tập làm văn. Để trở thành thao
tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hớng dẫn học sinh nh cách dùng từ đặt câu và cao
hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh đợc học và thực hành 15 loại văn bản ở
bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và tiếp tục học lên ở những bậc trên.


a.Phơng pháp lí thuyết.
Bớc đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen với
những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các tiết học:
Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây dựng đoạn văn,
bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết theo các cách diễn
dịch, qui nạp, song hành, móc xích Từ đó, cho học sinh tập viết đoạn văn, có vận
dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, phơng pháp lí thuyết không quá nặng.
b.Phơng pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối đa để khuyến
khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học Tập làm văn mà
đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hớng dẫn các kĩ năng nghiên cứu, tìm hiểu để
vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc điểm thể loại để tạo lập văn
bản.
c.Phơng pháp kiểm tra, khảo sát.
Với phơng pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn các
thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta mới đi vào
kiểm tra, khảo sát để thấy đợc sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo văn bản qua nhiều
bớc trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để đánh giá học sinh

thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải đánh giá đúng năng
lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy tr ớc yêu cầu thực hành của học
sinh.
d. Phơng pháp cố vấn, chuyên gia.
Đây là những phơng pháp khó đối với học sinh. Học sinh thờng không chú ý đến
những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần tháo gỡ, cần đến
chuyên gia cố vấn.
Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu t ợng, việc kiểm tra, đánh giá, cố vấn,
chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng hơn.
Nh vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên phải định h ớng cho các
em biết đối chiếu giữa thực hành và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình


với yêu cầu chung. Nhng, phơng pháp cố vấn, chuyên gia phải đợc liên hệ một cách
chặt chẽ giữa giáo viên với học sinh.
Trên đây là một số các ph ơng pháp nghiên cứu đối với việc rèn luyện các kĩ
năng viết đoạn văn cho học sinh lp 7

II. GII QUYT VN .
Phn I: Lí thuyết về đoạn văn và thực trạng viết đoạn văn của học sinh lp 7
I/ Lí thuyết về đoạn văn
Nh chúng ta đã biết, bài viết đợc cấu thành bởi các đoạn văn( văn bản) theo
những phơng thức và bằng những phơng tiện khác nhau. Dựng đoạn đợc triển khai từ
ý trong dàn bài. Có thể Đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể một ý có
nhiều đoạn. Trong đoạn văn thờng có bố cục ba phần: mở đoạn, phát triển đoạn và
kết đoạn. ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn có thể là đoạn diễn dịch, qui
nạp, móc xích, song hành
Để rèn luyện đợc kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu cầu
diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các ph ơng tiện ngôn ngữ sao cho phù
hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn hút hơn với

ngời đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên lớp. Có triển khai ý
thành đoạn cũng mới tiến hành đợc. Đây là những thao tác, những kĩ năng có khi
thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc.
Qua đó, ta có thể hiểu đợc: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt
đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xống dòng và thờng biểu
đạt một ý tơng đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thờng do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn th ờng có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ đ ợc dùng làm đề
mục hoặc các từ ngữ đợc lặp lại nhiều lần (th ờng là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa)
nhằm duy trì đối tợng đợc biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn
gọn, thờng đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi
là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của
đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành


Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các ph ơng tiện liên kết để
thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều ph ơng tiện liên kết trong đoạn văn:
dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể hiện ý liệt
kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát,và dùng câu nối trong đoạn văn. Đoạn văn
liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn
bản.
Nh vậy, các phơng tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhng đồng thời chúng cũng
là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác, lại có những ph ơng tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa chọn các ph ơng tiện
liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của ngời viết, với sự việc đợc phản ánh và
tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh để
phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn đợc tốt và làm nền tảng cho chơng trình THPT. Mặc dù vậy, học
sinh ở các trờng THCS, phần lớn có khuynh hớng không thích học văn mà đặc biệt là
phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hởng rất nhiều đến việc tiếp thu, vận
dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các em.
II/ Thực trạng viết đoạn văn của học sinh

Cũng bộ môn Ngữ văn, nhng theo khảo sát, phần lớn các em học phân môn Tập
làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn khiến cho giáo viên và học sinh
còn rất lúng túng. Thờng thì thời lợng quá ngắn mà kiến thức nhiều, nên học sinh
không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt Lí
thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn càng bối rối: việc rèn kĩ
năng viết đợc tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết đoạn
từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là
một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn ch a hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc
phân phối thời gian, số l ợng câu cho các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ ch a rõ ràng, cụ thể.
Cho nên, có nhiều trờng hợp viết thừa hoặc thiếu cha xác định cụ thể đề tài, chủ đề
của đoạn văn. Quá trình lập luận, trình bày ch a chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Ch a
biết vận dụng nhiều phơng pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn. Vì
thế các đoạn văn thờng hay đơn thuần, nhàm chán.


Phần lớn học sinh ch a biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu văn
bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Chúng tôi khảo sát thực tế bài làm của học sinh ở lop 7 thấy rằng :
Trên 70% số học sinh cha biết viết đoạn văn
Số học sinh có khả năng dựng đoạn và xử lí yêu cầu của đề bài trên 21%, số học
sinh đạt giỏi là con số 0- một con số đáng báo động trong việc học phân môn Làm
văn hiện nay trong nhà trờng THCS.
Số liệu cụ thể nh sau:
Phân
loại
Cộng: 85

Giỏi

Khá


SL

%

SL

%

0

0

20

23,5

Trung bình
SL
%

yếu, kém
SL
%

43

22

50,5


26,0

Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lí thuyết và rèn luyện các
kĩ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp các năng lực t duy, trình độ,
vốn sống, vốn ngôn ngữ và cả những cảm xúc và rung động thẩm mĩ. Cho nên, việc
rèn luyện các kĩ năng cho học sinh là cả quá trình lâu dài, việc tiến bộ của các em
cũng chậm (không nh các môn khoa học tự nhiên). Vì vậy, giáo viên không nên
nóng vội mà phải rèn luyện cho học sinh tính kiên trì và giáo viên cũng cần kiên trì
khi dạy cho học sinh. Những tình trạng viết đoạn văn nh trên là do nhiều nguyên
nhân.
Điều ta cần nói trớc là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào t tởng lập
nghiệp của học sinh sau này nh thi vào các trờng Cao đẳng, Đại học Ngữ văn ít hơn
các môn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị tr ờng thực dụng, con ngời khô
khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều loại hình cuốn hút học sinh.
Hơn thế nữa phụ huynh lại định hớng cho con em mình theo khuynh hớng trên.
Và ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm văn
khó học, trừu tợng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Hơn thế nữa
nội dung, chơng trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên ch a đáp ứng, chất
liệu của môn Ngữ văn bị giảm suốt vì đa nhiều thể loại văn bản Nhật dụng, văn bản
Chính luận, văn bản Nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập,
khó đợc điểm cao.


Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh và nó cũng có nhiều
nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên chúng ta càng quan tâm nhiều
hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn
trong văn bản.
PHN II. CC BIN PHP GII QUYT VN .
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn biu cm

I/ Đặc điểm của đoạn văn
- oạn văn có bố cục ba phần.
Mở đoạn:
Phát triển đoạn:
Kết thúc đoan
II/ Yêu cầu của đoạn văn
đoạn văn có những yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát
về mặt hình thức cũng nh nội dung đoạn văn. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn
(xây dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn với việc nâng cao năng lực cảm thụ văn
học của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với nhau.
Về mặt hình thức của đoạn văn :
Yêu cầu trớc hết là học sinh phải nắm đợc dấu hiệu, qui ớc khi viết đoạn văn
Đoạn văn là một phần của văn bản đ ợc tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến
chỗ chấm xuống hàng.
Trớc khi viết đoạn văn, giáo viên h ớng dẫn cho các em tìm hiểu đề, xác định ý
và từ việc xác định đợc ý chính của bài mà đi đến xây dựng câu chủ đề. Việc viết câu
chủ đề đúng với ý chính đã tìm đ ợc ở trên sẽ giúp học sinh định h ớng cách lựa chọn
nội dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, qui nạp hay các kiểu cấu trúc khác. Đồng
thời cũng định hớng cho các em lựa chọn các phép liên kết, phơng tiện liên kết, cách
dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm xúc trong bài viết của mình.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể đứng ở cuối
đoạn (theo cấu trúc qui nạp) v.vCâu chủ đề phải mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn
gọn, hàm xúc và thờng đủ hai thành phần chính của câu : chủ ngữ và vị ngữ. Các câu


còn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn giải, chứng minh, làm rõ hoặc kết luận những
cảm xúc đã thể hiện trong câu chủ đề.
Các câu trong đoạn văn phải đợc liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng các
phép liên kết, phơng tiện liên kết, từ ngữ- câu liên kết, hoặc các mối quan hệ phụ
thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.

Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực, giàu
giá trị biểu cảm .
Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng văn trong
nhà trờng vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận dụng vào các tiết
thực hành Tập làm văn và làm văn lp 7
III/ Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn nói riêng không chỉ xuất
phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao) trong
nhà trờng THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của ng ời thầy giáo trong chơng
trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan trọng nhất khi viết đoạn văn là học
sinh nắm vững các thao tác, cách thức trình bày đoạn văn, để từ các kĩ năng Tập làm
văn phát triển thành kĩ xảo, thói quen làm văn.
1. Xác định ý cho bài văn
2. Xác định câu chủ đề.
Từ những ý đã đợc xác định trên đây, giáo viên hớng dẫn cho học sinh tập viết
các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì có viết đ ợc
câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội dung trình bày
của đoạn văn.
Trớc hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn:
Từ đó, giáo viên định hớng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa chọn các
phép liên kết, phơng tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v..
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn.
đoạn văn có một vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành một văn bản
hoàn chỉnh. Vì vậy, các câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách
chặt chẽ.


Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác
không thể thiếu đợc. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể đ ợc viết theo các
cách

4. Cách viết đoạn văn
Trớc hết, giáo viên hớng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu của các
đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.
Đoạn văn mở bài: Khái quát đợc cảm xúc, tình cảm của ngời viết
Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của ng ời viết bằng việc sử
dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần l ợt nêu lên những suy nghĩ của riêng
mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên xoáy sâu vào
các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi a qua b, c, d.
Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh
dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua những bài
giảng cụ thể, qua việc hớng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen dần cách bình
văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết đ ợc lời bình hay, sâu sắc thì bài cảm
nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Có lúc phải biết liên tởng so sánh. Từ hiện tợng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tợng khác tức là liên tởng.
4.1.Cách viết đoạn mở bài .
Trớc hết phải nói rằng mở bài hay nhất là đạt hai yêu cầu sau:
Tính khái quát.
Tính định hớng.
Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học tập,
bắt chớc(bắt chớc nhng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách bài ấy cho
bài của mình.
4.2. Cách viết đoạn thân bài
Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lu ý học sinh: Giọng văn, hơi văn
không gò bó, khô khan, đảm bảo đợc các yêu cầu diễn đạt, dùng từ, đặt câu, lựa chọn


các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là tuỳ thuộc vào mạch cảm
xúc của ngời viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp.
Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài nh sau( lu ý mỗi đoạn

văn đợc viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm đợc ở phần trên)
Nh vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn là diễn dịch và qui nạp. Nó phù hợp với
mạch cảm xúc, tình cảm của ngời viết. Luyện viết đoạn văn ở yêu cầu không khó
khăn lắm là nh cách trình bày trên. Tuy nhiên, để viết đợc đoạn văn theo các cách
trên, thì ngời viết phải bám sát các ý của bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã đ ợc
xác định và các câu chủ đề đã đợc xác lập ban đầu.
4.3.Cách viết đoạn văn kết bài.
Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì vậy, để
có đợc một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài.
Từ câu chủ đề đã xác định đợc nh ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài nh sau:
Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn là thực hiện các thao tác tìm hiểu đề,
tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định h ớng cho việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ
tập đi tập lại nh thế ta sẽ thành thạo. Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập
mà thành thạo và nhạy cảm trong dựng đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc Tập
làm đến việc làm văn là một quá trình đi từ việc rèn luyện kĩ năng cần thiết đến
kĩ xảo (thói quen, thành thạo) Không khó nhng cũng không đơn giản chút nào nếu
cả thầy và trò không chuyên tâm và không yêu thiết tha một tác phẩm văn học.
Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện nhận xét
văn ngời, sửa văn mình.
Một số cách luyện tập viết văn ở đây không phải là tất cả nh ng là cách cơ bản,
chúng ta nên cố gắng thực hành. Trớc khi thực hành đề bài các em đọc kĩ phần dẫn
giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi bắt tay vào làm theo sáng
tạo.
Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì cha hợp lí với mình thì cần có sự điều chỉnh
hoặc sáng tạo thêm.
IV. Mt s on vn tham kho:
1. on vn m bi:


Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân ta và nhân dân thế giới suy tôn là anh hùng

dân tộc, danh nhân văn hóa. Trong hoạt động và lãnh đạo cách mạng, mỗi khi gặp
hoàn cảnh đặc biệt nào đó, Người thường hứng khởi làm thơ. mỗi bài thơ của Bác là
một mảnh tâm hồn trong sáng, cao đẹp, hài hòa chất nghệ sỹ và chiến sỹ. Bài thơ “
Cảnh khuya”- sáng tác 1947 là một tác phẩm như thế.
2. Đoạn văn kết bài:
“ Cảnh khuya” vừa tả cảnh ngụ tình, vừa trực tiếp giãi bày tình cảm, tâm trạng của
Bác Hồ vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp gian khổ.
Đọc bài thơ, chúng ta vô cùng cảm mến, trân trọng tình yêu thiên nhiên và tấm lòng
yêu nước, tinh thần trách nhiệm lớn lao của Người đối với dân, với nước.
3. Đoạn văn thân bài viết theo lối diễn dịch:
Càng về cuối, kỉ niệm tuổi thơ càng da diết, cảm động. Qua những dòng thơ êm
nhẹ, thánh thót như những nốt nhạc trong veo, hình ảnh người bà hiện lên đẹp như
một bà tiên vậy. Bà dành tất cả sức lực và tình thương yêu cho đứa cháu nhỏ. Bà đã
tần tảo, chắt chiu chăm sóc, nâng đỡ từng quả trứng, từng chú gà con, như chắt
chiu , nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc nhỏ bé, đơn sơ của đứa cháu yêu.Hình ảnh
đứa cháu mặc bộ quần áo mới mua từ công lao nuôi gà của bà ban tặng, hồn nhiên,
ngây thơ làm sao?Chỉ là cái quần chéo go, cái áo cánh trúc bâu là những thứ vải rẻ
tiên mà ngày nay ít dùng nhưng đứa cháu vô cùng cảm động, sung sướng.Đấy đâu
chỉ là bộ quần áo dài rộng, cựa quậy một tí đã kêu sột soạt mà đấy còn là biết bao
hạnh phúc, biết bao tấm lòng của bà dành cho cháu.
4. Đoạn văn thân bài viết theo lối quy nạp:
Hình ảnh và tâm trạng người thiếu niên - những chiến sỹ chống Mỹ thời tuổi ấu
thơ - được khắc họa chân thực, mang bản chất nông dân, bản sắc Việt Nam, thật là
đáng trân trọng. Đó là những con người giản dị, được lớn lên trong tình yêu thương,
nâng đỡ của quê hương, của những người ruột thịt. Được hưởng hạnh phúc ấy, họ
thực sự cảm động và mãi nhớ ơn quê hương, ông bà, cha mẹ.Riêng với nữ sỹ Xuân
Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ
thương, không biết ơn bà, làm sao mà viết được những câu thơ, ghi lại được kỉ niệm



đẹp như thế. Thơ với đời, hiện tại và quá khứ đan xen, gắn bó hài hòa, tự nhiên, hồn
nhiên trong veo như nắng trưa hè vậy.

5. Đoạn văn viết theo lối song hành:
Trên mảnh đất Việt Nam, cây lúa, hạt gạo đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp kì
diệu của mảnh đất và tâm hồn tinh tế của con người. Bằng một tình yêu đằm thắm,
nhà văn Nguyễn Đình Thi trong tác phẩm “ Bài ca Hắc Hải”đã ca ngợi đồng lúa, đất
trời Việt Nam trong hai câu thơ bất hủ:
“ Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”
Trước Nguyễn Đình Thi có một nhà văn, bằng ngòi bút thiên tài của mình cũng đã
dành tình yêu và bao ngôn từ đẹp như thơ để ca ngợi cây lúa Việt Nam.Đó là Thạch
Lam với bài tùy bút” Một thứ quà của lúa non: Cốm” Cốm là sản vật được tạo nên
bởi những hạt lúa nếp non, một sản vật độc đáo của ruộng đồng nhiều miền quê Việt
Nam, nhưng không đau làm ra được thứ cốm thơm, dẻo, ngọt, ngon bằng làng Vòng
ở thủ đô Hà Nội. Chúng ta cùng đọc văn Thạch Lam, cùng thưởng thức cốm Vòngđặc sản Hà Nội, đặc sản việt Nam.


V: Tin hnh thc nghim.
Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành các b ớc thực nghiệm sau:
- Chọn đối tợng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7B (Đủ 3 đối t ợng: giỏi, khá,
TB, yếu).
- Về cơ sở vật chất: Phòng học thông thoáng, có đủ bàn ghế, điện l ới để phục vụ
Dạy - Học.
- Sự chuấn bị của giáo viên ở 2 lớp:
+ ở lớp 7A: Chúng tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu cảm.
+ ở lớp 7B: Chúng tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn Biểu
cảm.
- Sự chuẩn bị của học sinh:
+ Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan đến bài

học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7


- Về thời gian: Dạy - Học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi chiều (Ngoài giờ học
chính khoá).
- Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính xác,
phù hợp với đối tợng học sinh lớp 7.
Đề bài1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh.
(Lớp 7A)
Đề bài2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.
(Lớp 7B)

* Qui trình Dạy - Học
ở lớp 7A - Chúng tôi thực hiện các bớc sau:
Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em và
GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc tr ớc lớp rồi xác định các phần trong bài
làm của ngời viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài, Thân bài, kết bài.
Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn
Biểu cảm. Cụ thể:
I/ Khái niệm văn Biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 3: GV tổ chức cho ngời học viết các đoạn văn biểu cảm theo yêu cầu
của ngời dạy. Đối tợng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn thơ.
Hoạt động 4: GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các đoạn
văn của HS.
Hoạt động 5: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau:
Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh.
Hoạt động 6: GV thu bài và dặn dò HS.



ở lớp 7B Chúng tôi thực hiện các bớc sau:
Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau:
I/ Khái niệm văn Biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm:
1. Xác định ý cho on văn Biểu cảm.
2. Xác câu chủ đề cho mỗi đoạn văn.
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn.
4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm:
4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài.
4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài.
4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài.
Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành khảo sát
bằng đề bài sau:
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.
Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò HS.


PHẦN III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KÕt qu¶ ®¹t ®îc nh sau
Ph©n
lo¹i
7A = 42
7B= 43

Giái
SL

1
2

%
2,4
4,7

Kh¸
SL
11
17

%
26,2
39,5

Trung b×nh
SL
%
22
52,4
25
41,8

yÕu, kÐm
SL
%
8
19,0
6

14,0


III. KT LUN, KIN NGH
1.ý ngha, BI HC.
Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS có tầm quan trọng rất
lớn trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt trong việc thực hiện
mục tiêu chung của trờng THCS, góp phần hình thành con ngời có trình độ học vấn
phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc cao hơn, hoặc vận dụng vào thực tiễn
cuộc sông.
Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của phân
môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối t ơng quan chặt chẽ với văn và Tiếng Viết. Dạy
luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây dựng các loại văn
bản thông thờng. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách viết đoạn văn là dạy cho học sinh
hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây dựng đoạn văn trong bất kì loại văn bản nào.
Đây là bớc đi, thao tác, cách thức trong quá trình học tập văn bản.
Trong chơng trình hiện nay, bộ môn Tập làm văn đợc tích hợp cùng phân môn
Văn và Tiếng Việt trong chơng trình Ngữ Văn mới .Tiết dạy dựng đoạn trong văn
bản cũng đợc quan tâm nhiều hơn trong việc nắm đợc thể loại trong chơng trình. Từ
đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức, thao tác
mà chủ yếu là viết đoạn văn một cách sáng tạo tổng hợp những kiến thức tiếp thu đ ợc
qua phân môn Tiếng Việt và văn học. Viết đúng, viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà


giáo viên quan tâm, yêu cầu viết đúng về đề tài thể loại, những kiểu văn bản khác
nhau trong cuộc sống đặt ra cho các em. Ngoài ra, qua việc rèn luyện viết đoạn văn
cũng trực tiếp tham gia rèn luyện một số đức tính cho sinh nh lòng nhân ái, tính
trung thực, sự kiên trì lòng dũng cảm Viết đoạn văn góp phần phát triển trí t ởng tợng, óc sáng tạo để từ đó giúp các em biết phân biệt cái sai, cái tốt, cái xấu... Và
cũng từ đây các em đợc nuôi dỡng tâm hồn vơn tới cái tốt đẹp hơn.
Qua tiết học, ta nắm đợc u thế của học sinh và phát huy đợc những khả năng

làm văn của các em. Từ đó, học sinh có dịp để uốn nắn điều chỉnh, hạn chế những
lệch lạc trong nhận thức, đời sống t tởng tình cảm của của các em. Cũng từ đó, hiệu
quả giáo dục của Tập làm văn nói chung, viết đoạn văn nói riêng đ ợc nâng cao và đợc học sinh yêu thích.
Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, học sinh đ ợc uốn nắn, điều chỉnh, hạn
chế những thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao hơn. Ngoài ra các
em còn đợc bồi dỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động tr ớc cái đẹp, biết hớng tới
giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ, bjiết tích luỹ vốn tri thức và vận dụng
trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác nhau. Dùng từ đặt câu, viết đoạn sẽ đ ợc các em
vận dụng tốt trong mọi điều kiện để h ớng tới cái chân thiện mĩ, biết tự hào và
sử dụng Tiếng Việt trong sáng, hoàn mĩ hơn.
Cũng từ việc rèn kĩ năng viết đoạn giúp học sinh vận dụng để viết đ ợc nhiều
đoạn văn và viết tốt ở nhiều thể loại.
2. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn nhiều hạn chế. Vì
đây là một tiết khó của môn học, nếu đơn thuần giáo viên không h ớng dẫn cụ thể về
cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý t ơng ứng với bao nhiêu đoạn trong văn bản. Hoặc học
sinh cha tìm đợc câu chủ đề để từ đó phát triển mở rộng thành đoạn văn. Để tích hợp
đợc với văn và Tiếng Việt, giáo viên ch a hớng dẫn khái niệm đoạn văn, câu chủ đề,
quan hệ giữa các câu và cách trình bày đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn theo các yêu cầu về cấu trúc và ngữ nghĩa.
Hạn chế nữa là trong ch ơng trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh không đ ợc học
các nội dung trình bày trong đoạn văn theo các đặc điểm, cấu trúc diễn dich, qui nạp,
song hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn văn, học sinh rất lúng túng trong
việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn.


Hơn nữa, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh còn lúng túng trong
việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn các phép liên kết
câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi khi không nắm vững các
đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt câu ở một số học sinh còn nhiều
hạn chế: nh dùng từ, ngữ không trong sáng, thiếu trau chuốt, từ ngữ không có tính

lôgic.
Hơn nữa, giáo viên cha thật kiên trì trong việc cung cấp những đơn vị kíên thức
về xác định ý, viết câu chủ đề, xây dựng đoạn theo các đặc điểm (diễn dịch, qui
nạp), các phép liên kết câu, liên kết đoạn, và uốn nắn cách viết đoạn cho học sinh.
II. kiến nghị và đề xuất
Sắp xếp số lợng kiến thức hợp lí cho một tiết dạy có khả năng phát huy đ ợc
tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em học không bị nhàm chán.
Các đoạn văn mẫu phải đa dạng phong phú hơn về từng lợng kiến thức.
Tiết học mang nặng tính thực hành, nên cho học sinh thực hành nhiều, viết
nhiều các đoạn văn (tất nhiên không qúa thời gian tiết học và sức tiếp thu của học
sinh).
Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng tr ớc năng lực thực
hành của mỗi học sinh. ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy tr ớc yêu cầu thực hành,
trớc những thao tác và kĩ năng thực hành của học sinh. Yêu cầu giáo viên dày công
luyện tập cho các em, kiên trì trong việc đánh giá kết quả không nên nóng vội, có
tinh thần trách nhiệm cao. Tuỳ từng đối tợng ở các khối lớp, tuỳ từng vùng để có phơng pháp vận dụng đúng đắn. Với phơng châm là ngời truyền đạt kiến thức và chủ
thể tiếp nhận kiến thức và mục đích cuối cùng là viết đ ợc các đoạn văn sáng tạo với
đầy đủ các kĩ năng mà các em tiếp thu đợc.
Về số lợng tiết học viết đoạn văn còn quá ít, nên tăng c ờng thêm số lợng cũng
nh thời gian cần đợc phân bố cân đối hài hoà để tránh học sinh ngại học căng thẳng
mà ngợc lại các em ham học hơn.
Trong sự phát triển đi lên của đất n ớc và của văn học nớc nhà, văn học nhân
loại, trong đó có không ít các nhân tài đất nớc là giáo viên, là học sinh- chủnhân tơng
lai của đất nớc. Vì vậy việc dạy chữ, dạy ngời là rất cần thiết. Đặc biệt trong nhà tr -


ờng THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp cận với kiến thức nhân loại, phân biệt
cái tốt, cái xấu, cái phải cái trái đối với học sinh cũng là vấn đề then chốt. Hơn nữa,
giúp các em ham học, thích học môn văn (trong đó có môn Tập làm văn, thực hành
các kĩ năng viết các đoạn văn) cũng là vấn đề mà giấo viên cần nghiên cứu.

Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có còn
tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn
tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hơng đất nớc.



×