Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa của đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.57 KB, 29 trang )

A.

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang
đi vào cuộc sống, xã hội nước ta đang ở vào một thời kỳ mới có ý nghĩa rất
trọng đại trong toàn bộ lịch sử dân tộc, đó là thời kỳ công nghiệp hóa hiện
đại hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình lịch sử sẽ đưa nhân dân ta, dân tộc
ta thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu, đồng thời là quá trình rất khó khăn và có
nhiều thách thức lớn. Nó tiếp tục đặt ra và đòi hỏi phải giải đáp nhiều vấn đề
quan trọng và cấp bách cả về thực tiễn và lý luận, nhằm làm sáng tỏ hơn nữa
con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua 25 năm đổi mới nước ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, nhưng
việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng
còn có những sai lầm, hạn chế. Những sai lầm, hạn chế đó là do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức. Do trình độ nhận thức
về học thuyết còn hạn chế, thậm chí còn lệch lạc ở một số vấn đề cụ thể, mặt
khác do sự vận dụng còn mang tính giáo điều, thiếu sáng tạo, chưa phản ánh
đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, vì thế dẫn đến những sai lầm
trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ảnh hưởng tiêu cực tới tiến trình
phát triển của đất nước. Muốn đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
đổi mới nhận thức, phải vận dụng sáng tạo học thuyết vào trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam và đặc điểm mới của thời đại.
Đặc biệt là từ sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một số nước tan rã
sụp đổ thì học thuyết Mác - Lênin nói chung, học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội nói riêng đang bị xuyên tạc và công kích từ nhiều phía. Các phần tử cơ
hội dưới mọi màu sắc, tìm cách phủ nhận học thuyết. Có những người trong


cán bộ, đảng viên cũng tỏ ra nghi ngờ, kém tin tưởng ở sức sống của học


thuyết, do dự trong việc vận dụng học thuyết vào thực tiễn…Vì vậy việc
khẳng định những giá trị khoa học đích thực của học thuyết, từ đó mà có
phương hướng vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào trong thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội là vấn đề đang đặt ra.
Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài “Sự vận dụng
hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa của Đảng ta trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp cử nhân
triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của khóa luận
Vấn đề nghiên cứu và vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Cộng sản chủ nghĩa từ lâu đã được nhiều nhà khoa học và chính trị ở Liên Xô
(cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa quan tâm. Đặc biệt từ sau khi chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ thì vấn đề trên được nhiều
nhà nghiên cứu ở Trung quốc đề cập tới. Chẳng hạn tác giả Du Thúy “Mùa
đông và mùa xuân Mátxcơva - Sự chấm dứt một thời đại” (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà nội 1995), đã đề cập một số nguyên nhân sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội hiện thực ở Liên Xô. Một tập thể tác giả do Mã Hồng làm chủ biên
“kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1995),
đưa ra một số nhận định cần suy nghĩ về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài đăng trên các tạp chí khác trong và ngoài nước.
Vấn đề trên được đặc biệt chú ý ở Việt Nam. Trước đây các công trình
nghiên cứu ở nước ta vẫn tập trung giải quyết vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy thời gian đó hệ thống chủ nghĩa
xã hội vẫn chưa có khủng hoảng trầm trọng, chưa tan rã, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội vẫn chưa có những biến đổi bước ngoặt, cho nên vấn đề trên


được đặt ra và giải quyết có những điểm khác so với hiện nay. Không thể nói
những công trình nghiên cứu trước đây không còn giá trị đối với ngày nay,

song đúng là thực tiễn đang đặt ra những vấn đề mới, cần được bổ sung làm
sáng tỏ.
Vấn đề nêu trên đã được đề cập tới ở một số khía cạnh trong các sách
và bài viết của tác giả:
- Đào Duy Tùng: “Qúa trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994), đã khái quát các
giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Giáo sư Trần Xuân Trường: “Định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam một số vấn đề lý luận cấp bách ”(Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1996),
đề cập đến một số vấn đề của lý luận hình thái kinh tế - xã hội và sự vận
dụng nó trong tình hình mới.
- Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Duy Qúy (Chủ biên) “Những vấn
đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1998), là những kết luận có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn trên cơ sở khái quát quan điểm của C.Mác, Ăngghen,
V.I.Lênin và Hồ chí Minh về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam của Đảng ta.
- Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đức Bách, tiến sĩ Lê Văn Yên, Nhị Lê:
“Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ”(Nxb Lao động,
Hà nội 1998), đã xem xét những đặc thù của con đường lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và một số nội dung của con đường đó.
- Tiến sĩ Phạm Văn Chung: “Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội và
lý luận về con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta ” (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà nội 2005), đã xem xét nội dung khoa học của học thuyết Mác về


hình thái kinh tế - xã hội và mối liên hệ hữu cơ của nó đối với lý luận về con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Giáo sư Hồ Văn Thông: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 4-1994), đã

nêu lên sự cần thiết phải bổ sung, phát triển nhận thức về một số vấn đề của
lý luận đó.
- Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long "Triết học Mác - Lênin với việc
nhận thức xã hội trong thế giới ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 23-1998), đã
đưa ra quan điểm khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận
hình thái nói riêng và vận dụng nó vào nhận thức xu thế xã hội hiện nay.
- Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa "Về nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"
(Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 1-1999), đã khẳng định việc thực hiện kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước ngoặt trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta.
- Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ngọc Quang "Định hướng và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa - một số vấn đề lý luận" (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số
1-1999), đã đưa ra quan điểm trong nhận thức về vấn đề định hướng và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn chung các công trình trên, đặc biệt là các công trình trong nước
đều tập trung vào việc bảo vệ lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng
nó vào việc xác định mục tiêu, thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên thực tiễn luôn vận động, đường hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra những vấn đề mới cần được tiếp tục lý
giải và khẳng định.
Với tình hình nghiên cứu này, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và hệ thống
hóa kiến thức về những quan điểm khoa học của những người đi trước nhằm


đi sâu hơn việc nghiên cứu vấn đề con đường phát triển tất yếu của chủ nghĩa
xã hội ở Việt nam dưới góc độ triết học, nhằm góp phần làm sáng tỏ và đầy
đủ hơn về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề cần nghiên cứu, tôi chọn đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình là “Sự vận dụng hình thái kinh tế – xã hội
Cộng sản chủ nghĩa của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt

Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của đề tài khóa luận là làm sáng tỏ quan điểm lý luận cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
và sự vân dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của đề tài khóa luận:
- Một là: Phân tích sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Từ đó làm sáng tỏ xu thế vận
động tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội trong quá trình lịch sử - tự
nhiên của xã hội loài người.
- Hai là: Làm rõ nguyên nhân của sự lựa chọn con đường quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đọan phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa là đúng
đắn của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Ba là: Nêu lên sự vận dụng của Đảng ta vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận
- Cơ sở lý luận của khóa luận: Phép biện chứng duy vật và quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu của khóa luận: Là các phương pháp phân
tích-tổng hợp, phương pháp lôgíc-lịch sử và một số phương pháp khác.
5. Đóng góp của khóa luận


- Đề tài của khóa luận góp phần làm rõ tính đúng đắn thực sự khoa
học của sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời góp phần vào việc tìm ra các
nguyên tắc và giải pháp của sự vận dụng hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản
chủ nghĩa của Đảng ta trong điều kiện mới của Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của khóa luận

- Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của đề tài được chia làm 2 chương với 5 tiết:
Chương 1: Những nội dung cơ bản của triết học Mác-Lênin về hình
thái kinh tế-xã hội.
1. 1 Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội
1. 2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên
1. 3 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
Chương 2: Sự vận dụng hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản chủ nghĩa
của Đảng cộng sản Việt Nam vào công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
2. 1 Sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2. 2 Những nội dung cơ bản trong thời kỳ đổi mới định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam

B. NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN


CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1 Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội
1.1.1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
1.1.2. Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội
Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội gồm 3 bộ phận cơ bản:
Lực lượng sản xuất: là nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật của hình thái

kinh tế - xã hội, là bộ phận xét đến cùng quyết định sự hình thành và phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất đặc trưng (thống trị): Quan hệ sản xuất được hình
thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, do đó không được thay đổi
tùy tiện kiểu quan hệ sản xuất nào đó nếu không phải xuất phát từ nhu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất.
Kiến trúc thượng tầng: là “da thịt” của cơ thể xã hội, do cơ sở hạ tầng
sinh ra.
Ngoài ba bộ phận cơ bản nói trên, hình thái kinh tế - xã hội còn chứa
đựng các quan hệ khác như quan hệ gia đình, quan hệ dân tộc, quan hệ giai
cấp…
1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử - tự nhiên


Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội
nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách
quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[16, 21].
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật
khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp
đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã

quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất
thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình
thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan. V.I. Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một
cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên"[8, 163]. Con đường phát triển của mỗi dân tộc
không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều
kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế
v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa
dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình.
Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế -


xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch
sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ
qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã
hội nhất định
1.3. Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
1.3.1 Thời kì quá độ
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ
những căn cứ sau:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên sản xuất đại công nghiệp
có trình độ cao.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh

trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải
tạo xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới
mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng
bước làm quen với những công việc đó.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới
của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế.


Trên lĩnh vực chính trị.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế: Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các tư liệu
sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại
những thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến
hành xây dựng, củng cố Nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày
càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã
hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng
Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm

vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực
tư tưởng – văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên
truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng
tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của cá nền văn hóa trên thế
giới.
Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phải thực hiện việc khắc phục những tệ
nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển


giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu bình đằng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người
theo mục tiêu lý tưởng là tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự
do của người khác.
1.3.2 Chủ nghĩa xã hội
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của của
chủ nghĩa cộng sản) là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền
đại công nghiệp.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách
tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên
tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước

mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu
sắc.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội,
tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện
1.3.3 Chủ nghĩa cộng sản
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã
hội loài người, C.Mác đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản).


Về mặt kinh tế: lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của
cải xã hội đã trở nên dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát
triển, lao động của con người được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới có thể
thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều
kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng lên cao,
không còn có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.
Như vậy, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, con người sẽ được giải phóng hoàn toàn và được phát triển một cách
thực sự toàn diện. Khi đó, nhân loại có thể chuyển từ “vương quốc của tất
yếu sang vương quốc của tự do”, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực,
mang hết tài năng và trí tuệ cống hiến cho xã hội.
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
2.1. Sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

2.1.1 Giai đoạn những năm trước 1960
Sau khi Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, từ đó Người đưa ra
kết luận “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa vô sản”[20,
314]. Kết luận đó cho thấy Nguyễn Ái Quốc đã đặt cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như thế cũng có nghĩa là Người đã


lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho nước ta và Người đã chuẩn bị cho
việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân.
Vận dụng lý luận về quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội
và lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta ngay
từ khi mới ra đời, đã chọn khả năng phát triển rút ngắn cho cách mạng Việt
Nam. Chính cương vắn tắt của Đảng thông qua tại hội nghị thành lập Đảng
(3-2-1930) đã xác định cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” tức là từ cách mạng tư
sản dân quyền chống đế quốc phong kiến nhằm thực hiện độc lập cho dân
tộc, rộng dất cho nông dân, sau đó chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa
không thông qua chế độ tư bản. Mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam (1951) đã thảo luận và
thông qua báo cáo quan trọng mang tên “Bàn về cách mạng Việt Nam” do
đồng chí Trường Chinh trình bày, đã bổ sung, phát triển các cương lĩnh trước
đó, và chỉ rõ cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo, nên con đường tất yếu
của nó là tiến lên chủ nghĩa xã hội và con đường này là lâu dài, phức tạp vì
điểm xuất phát của chúng ta là thuộc địa nửa phong kiến.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội được xác định trong Chính cương vắn tắt
của Đảng thông qua tại hội nghị thành lập Đảng, sau đó được phát triển tại

Đại hội II năm 1951 là mục tiêu, phương hướng tiến lên của cách mạng Việt
Nam. Để đi tới mục tiêu ấy, bước đi tất yếu của Đảng và nhân dân ta là phải
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” các nhiệm vụ cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, về lực lượng
cách mạng và lãnh đạo cách mạng. Phương hướng tiến lên trong tương lai


của cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và
sức mạnh của “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”
2.1.2. Giai đoạn từ những năm 1960 đến 1985
Năm 1960, tại Đại hội III, Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ cách mạng cả
nước và từng miền. Đối với miền Bắc quá độ lên chủ nghĩ xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa với đặc điểm lớn nhất là nền kinh tế lạc hậu. Trên cơ sở
ấy, Đại hội dã xây dựng đường lối cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Tiếp sau đó còn có nhiều nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị về
vấn đề ấy.
Trong Đại hội IV(1976), Đảng ta đã phát triển một bước đường lối đã
thông qua tại Đại hội III, vạch ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước là: “nắm vững chuyên chính vô sản; phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng
cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học–kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng văn hóa (trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt); đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa…”[32, 67]. Thực hiện nghị quyết Đại
hội IV chúng ta bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, tuy
nhiên trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa chúng ta đã gặp phải những
khó khăn và yếu kém không nhỏ. Sở dĩ như vậy là bởi chúng ta chưa nhận
thức đầy đủ về thời kỳ quá độ đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài phải trải qua

nhiểu chặng đường, mặt khác chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế.


Để góp phần khắc phục những sai lầm và yếu kém nói trên trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội Đại hội V của Đảng (3-1982) đã đưa ra tư tưởng
về sự phân chia thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa thành nhiều chặng đường trong
đó “chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ ỏ nước ta bao gồm thời kỳ 5
năm 1981-1985 kéo dài đến 1990”.
Tuy nhiên có thể thấy rằng, những bước tiến tới trong nhận thức lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội V
của Đảng đã đạt được lại chưa có đủ thời gian cần thiết để biến thành những
thay đổi tích cực trong thực tiễn kinh tế - xã hội. Phân tích tình hình thực tế
lúc này hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa V (12/1980) của Đảng chỉ ra
rằng tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn gay gắt, nền kinh tế có
nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng, lưu thông phân phối có nhiều diễn biến
xấu, thị trường rối loạn, công tác quản lý lỏng lẻo. Do vậy, khủng hoảng kinh
tế - xã hội ngày một nghiêm trọng chính vì vậy để vượt qua khỏi thực trạng
đất nước trong giai đoạn này vấn đề cấp bách đặt ra đòi hỏi Đảng là phải tiếp
tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra cuộc cải biến cách mạng
đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng.
2.1.3 Thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
Sau khi phân tích những nguyên nhân sâu xa của những sai lầm và
khuyết điểm trong những năm 1975 - 1985 xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước, năm 1986 Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện nhằm nhận thức đúng đắn hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cho rằng bên cạnh những thành
công là cơ bản, chúng ta cũng phạm phải nhiều sai lầm yếu kém trong việc
xác định mục tiêu và bước đi, về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo

xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Từ đó, Đảng đã phân tích sâu sắc những
nguyên nhân dẫn đến những sai lầm, những khuyết điểm như bệnh giáo điều


rập khuôn trong việc áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất
nước kém phát triển.
Đại hội chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với
những hình thức kinh doanh phù hợp coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân,
lợi ích cá thể, tập thể và xã hội chăm lo phát triển toàn diện và phát huy nhân
tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI được xem là
khâu đột phá trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội không phải là thay đổi mục tiêu
xã hội mà Đảng nhân dân ta đã lựa chọn mà là tìm ra nhưng phương thức,
con đường hợp lý để đạt được mục đích và hiệu quả cao hơn trong những
điều kiện hoàn cảnh mới. Với những cải cách và đổi mới trong tư duy của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã
phần nào đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam trong
những năm trước đó, đánh dấu bước ngoặt chuyển biến quan trong trong
nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Đại hội VII tháng 6 /1991 trên cơ sở tổng kết việc thực hiện đường lối
đổi mới do Đại hội VI đề ra, đặc biệt là nhận thức lại một cách đúng đắn
quan điểm về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đại hội đã nhất trí mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn đồng thời khẳng định quyết tâm theo
đuổi đến cùng con đường dẫn tới mục tiêu ấy. Tại Đại hội Đảng ta khẳng
định kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất và coi đó là
sự lựa chọn của chính lịch sử, lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 ngay từ khi
Đảng ta mới ra đời và vậy “nhân dân ta quyết tâm không chấp nhận con
đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”[35, 110].



Với tầm quan trọng đó, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục trình bày vấn đề
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó nhấn mạnh đến điểm xuất
phát của nước ta từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, trình độ lực
lượng sản xuất rất thấp lại trải qua chiến tranh kéo dài với những hậu quả
nặng nề, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ đó,
cương lĩnh đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Đó là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất là chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột bất công làm theo năng lực
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới.
Tiếp tục đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa được đề
ra trong Đại hội VII, trên cơ sở phân tích đánh giá những thành tựu đã đạt
được ở nước ta sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 đã
rút ra kết luận: “Nước ta đã rút ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất nước
chuyển sang thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện
đại hóa”[37, 68]. Đại hội VIII còn tiếp tục làm rõ hơn định hướng xã hội chủ
nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần bằng việc
làm sáng tỏ sáu điểm trong nội dung định hướng về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cụ thể hóa hơn nữa bước đi đó, Đại hội đã chỉ ra
nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn từ 1996 - 2000 là “Tập trung mọi lực lượng,
tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách



toàn diện và đông bộ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mức chỉ tiêu được đưa ra”[37, 69–70].
Đại hội X (4/2006) đã tiếp tục làm sáng tỏ hơn về nhận thức chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; hệ thống quan điểm lí luận
về công cuộc đổi mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Đồng thời, tiếp tục
được bổ sung và phát triển nội dung xã hội chủ nghiã mà chúng ta xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện, các cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Sau 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991. Đại
hội Đảng lần thứ XI (1/2011) Đảng ta đã tiếp tục bổ sung và phát triển làm
sáng tỏ hơn mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta tiếp tục xây
dựng trong thế kỷ XXI. Kế thừa 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh 1991. Trong cương lĩnh Đại hội lần thứ XI của Đảng đã bổ sung
và phát triển thành tám đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa. Tám đặc trưng đó là:
“Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, do nhân dân làm chủ.
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu.



Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện.
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
Bảy là, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,do
nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân trên Thế
giới.”[40, 72]
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa thể hiện
tính toàn diện và sự thống nhất của các đặc trưng đó trong một chỉnh thể,
phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Những đặc trưng ấy trả lời câu hỏi xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì?
Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể
hiện như thế nào?
Có thể nói, tính toàn diện và tính thống nhất của các đặc trưng thể hiện
ở chỗ các đặc trưng này phản ánh toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quan hệ đối ngoại, và sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế
và chính trị, kinh tế, chính trị và xã hội, đối nội và đối ngoại.
2.2 Những nội dung cơ bản trong thời kỳ đổi mới định hướng xã
hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam
2.2.1 Phát triển kinh tế thị trường là một động lực xuyên suốt thời
kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Đối với nước ta, để chuyển từ nền kinh tế kém phát triển lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa phải phát triển kinh tế thị trường khắc phục tình trạng
kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát
triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng


công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng,

chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích trụ tập trung sản xuất,
mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy
việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo
ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội một cách hợp lý, tiết
kiện,… Vì vậy việc phát triển kinh tế thị trường được coi là đòn xeo để xây
dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hóa nền sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở khẳng định kinh tế thị trường là một động
lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất, phát triển nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa Cộng sản. Kinh tế thị trường là phương thức
tổ chức, vận hành kinh tế là phương tiện điều tiết kinh tế, lấy cơ chế thị
trường làm cơ sở để phân bố các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ
giữa người với người.
Có thể nói Việt Nam lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ là hoàn toàn phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của xã hội hiện đại. Ngày nay, để phát triển,
mỗi nước phải vận dụng cơ chế và các quy luật kinh tế thị trường nhằm phục
vụ các mục tiêu và lợi ích xã hội của các chế độ khác nhau. Để giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong khi phát triển kinh tế thị trường,Việt Nam chủ
trương:
- Phát triển kinh tế phải đảm bảo tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.
- Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển giáo dục – đào tạo, văn hóa
và khoa học công nghệ.
- Phát triển kinh tế phải dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước.
- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.


2.2.2 Đẩy mạnh CNH, HĐH đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở

Việt Nam
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, chưa trải qua công nghiệp hóa, lao động thủ công là phổ biến. Theo
lý luận hình thái kinh tế - xã hội, thì mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một
trình độ phát triển nhất định về lực lượng sản xuất, tức cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho xã hội đó. Để có chủ nghĩa xã hội chúng ta phải có một cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, việc xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ
hàng đầu đảm bảo cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội .
Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội thì cái thiếu
lớn nhất của Việt Nam là nền đại công nghiệp. Vì vậy, việc thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là một đòi hỏi khách quan tất yếu trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nước ta từ nông nghiệp đi lên. Vì vậy, để xây dựng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tạo cơ sở vật chất–kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thì điều trước
tiên là chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Đặc
biệt nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà đặc điểm
to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa. Do đó chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân
cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực
khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao
động cả nước. Hơn thế nữa Đảng ta coi đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng,


vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của đất nước.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, là vấn

đề có vị trí chiến lược và có vai trò tác dụng to lớn trong sự nghiệp đổi mới
đất nước nói chung và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho đất nước
nói riêng, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân là giải pháp cơ bản để
chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế có cơ cấu công –
nông nghiệp – dịch vụ tiên tiến.
2.2.3 Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ
quá độ
Trước thời kỳ đổi mới, với quan niệm cho rằng, mỗi bước tiến của
quan hệ sản xuất cũng là bước tiến của lực lượng sản xuất và do vậy, đã có
lúc, Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến làm nền cho sự
phát triển lực lượng sản xuất. Từ đó. Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng
quan hệ sản xuất mới. Dùng “quan hệ sản xuất tiên tiến để kéo theo lực lượng
sản xuất lạc hậu tiến lên”. Đi vào đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấy
rõ sự sai lầm của quan niệm này.
Từ khi tiến hành đổi mới tư duy, nhận thức về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng khoa học hơn, theo lý luận
hình thái kinh tế xã hội thì xã hội vận hành, phát triển tuân theo quy luật
khách quan: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp thì nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển; ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất phải gắn liền với việc xác
lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Đảng ta cũng khẳng định: “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại


gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý, và phân phối”[40, 87]. Điều đó cũng có nghĩa là quan hệ sản xuất do trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Việc xóa bỏ sở hữu tư nhân
đối với tư liệu sản xuất phải lấy trình độ xã hội hóa rất cao của lực lượng sản

xuất làm tiền đề. Mọi chế độ sở hữu, mọi loại hình kinh tế đều có vai trò tích
cực đối với sự phát triển của xã hội, khi chúng còn tạo điều kiện sự giải
phóng lực lượng sản xuất, trong đó yếu tố quan trọng nhất là người lao động.
Có thể khẳng định rằng, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng
con người, là thiết lập xã hội mà ở đó, “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện chọn sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và
Ph.Ăngghen). Xóa bỏ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất chỉ là điều kiện
để đạt mục tiêu đó. Cho nên, tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất mà xác lập quan hệ sản xuất phù hợp là quan niệm đúng đắn.
Ở Việt Nam, lực lượng sản xuất còn ở trình độ phát triển thấp nên
chưa thể xác lập ngay quan hệ sản xuất tiên tiến xã hội chủ nghĩa.
Để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì tùy theo trình độ phát triển của
nó, chúng ta phải chủ động xác lập quan hệ sản xuất phù hợp; không để cho
quan hệ sản xuất “lạc hậu” hoặc “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì tùy theo trình
độ phát triển của nó, chúng ta phải chủ động xác lập quan hệ sản xuất phù
hợp; không để cho quan hệ sản xuất “lạc hậu” hoặc “vượt trước” trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. để nền kinh tế phát triển đảm bảo giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường,
phải làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phân phối theo
kết quả lao động phải là hình thức phân phối chủ yếu.


2.2.4 Kết hợp chặt chẽ gữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và
các mặt khác trong đời sống xã hội
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác trong đời
sống xã hội mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; nâng cao vai trò của
các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân; phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài theo quan điểm của Đảng, đó là “quốc sách hàng
đầu”; giải quyết tôt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và dân chủ trong
đời sống xã hội.
C. KẾT LUẬN
Sự vận dụng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt nam đã được vạch ra từ năm 1930 trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và trong Luận cương 10/1930 của Đảng. Đó
là một lựa chọn đúng đắn và thực sự khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt nam. Đó là sự lựa chọn hoàn
toàn phù hợp với tất yếu khách quan, là lôgíc của sự vận động biện chứng
của lịch sử dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng, hoạt động kiên quyết không gì
cản nổi của nhân dân lao động nước ta.


Sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa thuộc về loại hình phát triển rút ngắn của quá trình lịch sử - tự
nhiên của hình thái kinh tế - xã hội đã được Mác và Ăngghen dự báo và
Lênin phát triển. Lý luận và thực tiễn lịch sử loài người đã chứng tỏ loại hình
phát triển rút ngắn đó áp dụng trong những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ
thể của từng nước vẫn nằm trong lôgíc khách quan của sự vận động phát
triển lịch sử toàn thế giới, là lôgíc của quá trình lịch sử - tự nhiên.
Khi đã giành được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được xác lập

là một chế độ xã hội, khi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã từng
bước được thực hiện, dù phải trải qua nhiều khó khăn phức tạp và lâu dài,
Đảng và nhân dân ta vẫn kiên trì sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Đó là sự lựa chọn đúng đắn của cả dân tộc Việt Nam, của
cả thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh chỉ có đi tới thắng lợi nếu sự nghiệp ấy được đảm bảo bằng chính
sự lãnh đạo đúng đắn và khoa học của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đối với Việt Nam, là một nước nông nghiệp lạc hậu thuộc địa nửa
phong kiến, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên xã hội chủ nghĩa
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với yêu cầu thời đại,
phù hợp với thực tế lịch sử Việt Nam - nó là một tât yếu khách quan, là quá
trình lịch sử - tự nhiên.
Qua 25 năm đổi mới, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
ngày càng xác định rõ hơn, sâu sắc hơn, xử lý nhạy bén và linh hoạt hơn,
khác về căn bản so với các giai đoạn trước. Đổi mới – đó là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực chất là việc bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã


×