Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

luận văn thạc sĩ Phát triển du lịch bền vững ở huyện tam đảo tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.39 KB, 101 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Du lịch là ngành tổng hợp mang tính chất chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, thu hút hàng triệu người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ
sản xuất và cung cấp hàng hoá và dịch vụ phục vụ thoả mãn nhu cầu vật chất,
tinh thần của du khách. Khi nhà nước có chiến lược đầu tư thích đáng vào du
lịch; quản lý du lịch; chỉ đạo các chiến lược kinh doanh và hợp tác du lịch…
thì hàng năm du lịch sẽ đem về cho quốc gia lợi nhuận khổng lồ.
Bên cạnh sự phát triển rất nhanh của ngành “công nghiệp không khói”
này, thế giới đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường tại
các khu du lịch, các tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch ngày càng gia tăng.
Điều đó đã trở thành mối lo ngại lớn của các nhà chức trách, của mọi người
dân, thúc dục những người làm du lịch phải tìm hướng đi mới cho mình đó là
phát triển du lịch một cách bền vững.
Tam Đảo là một vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa, đồng thời rất giàu
tiềm năng du lịch như: Khu danh thắng Tây Thiên, khu Thiền viện Trúc Lâm
Tây Thiên, Khu du lịch Tam Đảo, Tháp truyền hình Tam Đảo, Đền thờ Thất
vị Đại Vương, Rừng quốc gia Tam Đảo, các hồ nước lớn như: Xạ Hương,
Bản Long, Làng Hà, Vĩnh Ninh, Đồng Mỏ... Xuất phát từ định hướng đẩy
mạnh phát triển kinh tế công nghiệp, lấy du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
của tỉnh Vĩnh Phúc. Những năm qua, huyện Tam Đảo đã vận dụng và đẩy
mạnh phát triển ngành kinh tế du lịch, bước đầu có những kết quả khả quan,
góp phần không nhỏ trong việc tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển văn
hoá xã hội.
Do điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và
yếu kém; kinh doanh du lịch của huyện còn thiếu tính chuyên nghiệp; các tài
nguyên du lịch chưa được khai thác hết… nên việc phát triển du lịch của
huyện còn chưa tương xứng với tiềm năng. Du lịch Tam Đảo cũng đang đứng
trước những thách thức không bền vững nếu không kiểm soát được.




2

Trước thực tế đó, tác giả chọn đề tài “Phát triển du lịch bền vững ở
huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc” với mong muốn đóng góp phần vào việc
phát triển du lịch của huyện, của tỉnh, đáp ứng nhu cầu của hiện tại và tương
lai khi chất lượng cuộc sống ngày một đi lên.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

2.1. Mục đích của đề tài
- Tổng quan cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
- Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch bền vững ở huyện Tam Đảo.
- Đánh giá hiện trạng hoạt động du lịch và đề xuất các giải pháp phát
triển du lịch bền vững ở huyện Tam Đảo.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển du
lịch bền vững.
- Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng du lịch ở huyện Tam Đảo.
- Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch và đưa ra các giải pháp phát
triển du lịch bền vững ở huyện Tam Đảo.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động phát triển và kinh doanh du lịch ở huyện Tam Đảo.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu toàn bộ lãnh thổ huyện Tam Đảo - nơi có
tiềm năng và các điều kiện phát triển du lịch bền vững ở huyện Tam Đảo.
Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm khai thác hợp lý, tôn trọng mục
tiêu bảo tồn và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương nhằm phát triển

bền vững du lịch huyện Tam Đảo.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Phương pháp định tính
Nghiên cứu và phân tích những tài liệu sẵn có thu thập được trong quá
trình nghiên cứu (số liệu thống kê hàng năm, số liệu tổng hợp của Phòng Văn
hóa thông tin…).


3

4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Dựa trên sự khảo sát thực địa, nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng phát
triển du lịch, số lượng khách, về nhu cầu, sở thích của họ và những dịch vụ
mà họ quan tâm thông qua đó cho phép đề ra những giải pháp nhằm khắc
phục những nhược điểm, phát huy những ưu điểm.
4.3. Phương pháp bản đồ
Sơ đồ và bản đồ được sử dụng để phản ánh những đặc điểm về không
gian địa lý, về nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, hệ
thống kết nối hạ tầng giao thông với các điểm du lịch, các trung tâm kinh tế…
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài xác lập cơ sở khoa học cho việc phát triển du lịch bền vững ở địa
phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân,
đồng thời bảo vệ tài nguyên môi trường…
Những kết quả điều tra, nghiên cứu thực hiện đề tài từ thực tiễn là nguồn
tư liệu cần thiết cho việc nhìn nhận, đánh giá, quy hoạch phát triển du lịch ở
huyện Tam Đảo, nhằm đầu tư khai thác một cách hợp lý và hiệu quả sao cho
tương xứng với nguồn tài nguyên hiện có góp phần phát triển bền vững.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN


Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành 3 chương
sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
- Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch bền vững huyện Tam Đảo.
- Chương 3: Định hướng và những giải pháp phát triển du lịch bền
vững huyện Tam Đảo.


4

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới và ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
khai thác tiềm năng du lịch, phát triển du lịch bền vững, phát triển du lịch có
trách nhiệm với môi trường và xã hội. Các công trình nghiên cứu này đã được
xuất bản thành các tài liệu, sách chuyên đề giảng dạy, bộ công cụ du lịch, bài
viết được đăng tải trên các trang Website... Các tài liệu, và các tác giả đã làm
sáng tỏ cơ sở lý luận về phát triển bền vững, phát triển du lịch bền vững, khai
thác tiền năng du lịch, đồng thời giúp cho tác giả luận văn định hướng nghiên
cứu đề tài “Phát triển du lịch bền vững ở huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc”.
Đây là đòi hỏi khách quan và rất cần thiết với huyện Tam Đảo nhưng chưa có
ai nghiên cứu.
1.2. Những vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Khái niệm “phát triển”
Phát triển là khuynh hướng chung tất yếu của các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan, chúng vận động biến đổi chuyển hóa không ngừng
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Nguồn gốc của sự phát triển là sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự việc, hiện
tượng. Phát triển phổ biến trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Tùy theo những

lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất sự phát triển thể hiện dưới những
hình thức khác nhau. Lênin nhấn mạnh rằng: “Sự phát triển không phải là
một sự lớn lên, sự tăng thêm, đơn giản, phổ biến và vĩnh viễn” mà là “sự tiến
hóa, sự chuyển hóa lẫn nhau” [8, tr.86 ].
1.2.2. Phát triển bền vững
1.2.2.1. Khái niệm về phát triển bền vững
“Phát triển bền vững” là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự
phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn đảm bảo sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc


5

gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, chính trị, văn hoá,
địa lý... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế
mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học.
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường
và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi
rõ: Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu
hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai... Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có
sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ,
gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm
quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung

hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường (Hình 1.1).

Hình 1.1. Mối quan hệ trong phát triển bền vững
- Bền vững về mặt kinh tế: Là phát triển kinh tế nhanh và ổn định trong
một thời gian dài. Tăng trưởng nhanh chưa chắc đã có được phát triển bền


6

vững về mặt kinh tế. Vì thế chúng ta phải luôn duy trì một tốc độ tăng trưởng
ổn định hợp lý và lâu dài không nên chỉ chú trọng và nhấn mạnh vào tăng
trưởng kinh tế nhanh.
- Bền vững về mặt môi trường: Môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự sống và sự phát triển của mỗi cá thể và của cộng đồng, nó bao gồm
toàn bộ các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học... và xã hội bao quanh. Bền
vững về mặt môi trường là ở đó con người có cuộc sống chất lượng cao dựa
trên nền tảng sinh thái bền vững.
- Bền vững về xã hội: Tính bền vững đó phải mang tính nhân văn hay
nói một cách khác là phải đem lại phúc lợi và chia sẻ công bằng cho mọi cá
nhân trong xã hội. Phát triển phải được gắn liền với một xã hội ổn định, hòa
bình, mở rộng và nâng cao năng lực lựa chọn cho mọi người cùng với đó là
việc nâng cao sự tham gia của cộng đồng vào quá trình phát triển.
Ngoài ra, phát triển bền vững còn được xem là sự phát triển “bình đẳng
và cân đối”. Bình đẳng được hiểu là bình đẳng giữa các nhóm người trong
cùng một xã hội. Còn tính cân đối được thể hiện ở việc cân đối giữa các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội - môi trường.
Tiếp sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội
nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái
niệm “phát triển bền vững” này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả
các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp

kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn
gọi là Hội nghị Rio+10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp
tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo
cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc
gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và
đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe,
nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái.


7

a) Phát triển bền vững tại Việt Nam
Từ sau Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển Rio
1992 đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện phát triển bền
vững và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và môi trường. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng VIII (1996)
đã đưa vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
trở thành một thành phần cấu thành không thể tách dời của phát triển bền
vững ở nước ta.
Để thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã
ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương
trình Nghị sự 21 của Việt Nam) và thành lập Hội đồng Phát triển bền vững
quốc gia do Phó Thủ tướng Chính phủ đứng đầu. Việt Nam cũng đã xây dựng
và ban hành một số chương trình Nghị sự 21 ngành và địa phương. Quan điểm
phát triển bền vững được khẳng định trong các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam qua các thời kỳ và được tái khẳng định trong chiến lược
phát triển KT-XH 10 năm tới, đó là: “Phát triển nhanh gắn với phát triển bền
vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược.”
Trong tiến trình thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam, nhiều hoạt
động, mô hình, sáng kiến phát triển bền vững đã được triển khai và đạt được

những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
của đất nước. Trong số những hoạt động, mô hình, sáng kiến đã được triển
khai có những mô hình, sáng kiến tốt, được xem như là những điển hình phát
triển bền vững ở Việt Nam [13].
b) Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam bao gồm:
- Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế:
+ Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao
không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học - công nghệ và sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.


8

+ Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo
hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường.
+ Thực hiện quá trình “công nghiệp hoá sạch”.
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
+ Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương phát
triển bền vững.
- Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội:
+ Tập trung nỗ lực để xoá đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm.
+ Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng
dân số và tình trạng thiếu việc làm.
+ Định hướng quá trình đô thị hoá và di dân nhằm phân bố hợp lý dân cư
và lực lượng lao động theo vùng, bảo vệ môi trường bền vững ở các địa
phương, trước hết là các đô thị.
+ Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề
nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.
+ Tăng số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.

- Mục tiêu Phát triển bền vững trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường:
+ Sử dụng hợp lý, bền vững và chống thoái hoá tài nguyên đất.
+ Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên khoáng sản.
+ Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, ven biển, hải đảo.
+ Bảo vệ và phát triển rừng.
+ Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
+ Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
+ Bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của
biến đổi khí hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.


9

1.2.2.2. Các thước đo về phát triển bền vững
Phát triển bền vững có thước đo riêng và rất đặc trưng. Tuy nhiên hệ
thống thước đo này rất phức tạp và nhiều thước đo rất khó xác định vì chúng
phải đánh giá trên cả ba phương diện kinh tế - xã hội - môi trường.
Về mặt kinh tế, tính bền vững thể hiện ở các chỉ số như: Tổng sản phẩm
trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP), cơ cấu GDP và GNP,
GDP/người, GNP/người.... Theo tiêu chuẩn quốc tế thì chỉ tiêu GDP/người
phải ở mức 5% mới được coi là phát triển bền vững và cơ cấu GDP mạnh là
cơ cấu có tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu phải cao
hơn tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu.
Về mặt xã hội, có các chỉ tiêu đánh giá như: chỉ số phát triển con người
(HDI), hệ số bất bình đẳng thu nhập, giáo dục, y tế, văn hoá... HDI là chỉ tiêu
đánh giá tổng hợp sự phát triển của con người vì vậy muốn phát triển bền vững
thì yêu cầu đặt ra đối với chỉ tiêu này là phải tăng trưởng và đạt đến mức trung
bình. Chỉ số bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng là một trong số các chỉ

tiêu quan trọng trong phát triển bền vững vì bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập cũng là nguyên nhân gây ra những xung đột, bất ổn trong xã hội.
Về mặt môi trường các chỉ tiêu đánh giá như: mức độ ô nhiễm (không
khí, nguồn nước...), mức độ che phủ rừng... là những chỉ tiêu quan trọng trong
đánh giá tính bền vững của môi trường. Môi trường bền vững là môi trường
luôn thay đổi nhưng vẫn làm tròn ba chức năng: là không gian sinh tồn; là nơi
cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản suất của
con người; là nơi chứa đựng, xử lý chất thải.
Ngoài ra còn phải quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới; các chỉ tiêu về
giáo dục: tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi, tỷ lệ học trung học, đại
học... các chỉ tiêu về hoạt động văn hoá khác.
Du lịch là một trong những công nghệ tạo nhiều lợi tức nhất cho đất
nước. Du lịch có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp chúng ta đạt


10

các Mục Tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals) mà
Liên Hợp Quốc đã đề ra từ năm 2000, đặc biệt là các mục tiêu xóa đói giảm
nghèo, bình đẳng giới tính, bền vững môi trường và liên doanh quốc tế để
phát triển. Chính vì vậy mà du lịch bền vững (sustainable tourism) là một
phần quan trọng của phát triển bền vững (sustainable development) của Liên
Hợp Quốc và của Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
1.2.3. Phát triển du lịch bền vững
1.2.3.1. Các quan niệm về du lịch và du khách
a) Các quan niệm về du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá - xã hội của
các nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế

quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Du lịch được coi là ngành
công nghiệp - công nghiệp du lịch và hiện nay ngành “công nghiệp không
khói” này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các nước đang
phát triển, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của
quốc gia. Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch, nhận thức đó trải qua quá
trình từ thấp tới cao, từ việc chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Quan niệm trước đây về du lịch:
Trước đây người ta mới chỉ quan niệm du lịch là một hoạt động mang
tính chất văn hoá, nhằm thoả mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết
của con người, du lịch không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính
chất kinh doanh và ít được đầu tư để phát triển. Trong nhiều thế kỷ trước đây,
du khách hầu hết là những người hành hương, thương nhân, học viên và cả
nghệ sĩ... Đến đầu thế kỷ 20, du lịch vẫn còn dành riêng cho những người khá
giả, họ đi du lịch là để giải trí. Còn du lịch ngày nay gắn liền với cuộc sống
hàng ngày của hàng triệu người. Mặc dù vậy, khi đề cập đến du lịch, không ít


11

người thường lầm tưởng rằng: Du lịch chỉ là những kỳ nghỉ hè tầm thường,
với các sân bay, bãi biển đầy người, hoặc hình ảnh những xe du lịch chở du
khách tham quan các phố... Do đó, muốn cho du lịch phát triển mạnh mẽ và
đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của đời sống con người,
trước hết cần phải có quan niệm đúng đắn về du lịch.
- Quan niệm khoa học về du lịch:
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du
lịch họp tai Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa như sau về du lịch:
“Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế
bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà

bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” [12]. Định nghĩa
này là cơ sở cho định nghĩa du khách đã được Liên minh quốc tế các tổ chức
du lịch chính thức, tiền thân của Tổ chức du lịch thế giới thông qua.
Các học giả biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam đã tách hai nội
dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các chuyên gia này,
nghĩa thứ nhất của từ này là một dạng nghỉ dưỡng sức tham gia tích cực của
con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật... Theo nghĩa thứ
hai, du lịch được coi là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ tại chỗ.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm như trên có ý
nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Du lịch không chỉ là một
ngành kinh tế mà nó còn là một hiện tượng xã hội. Chính vì vậy toàn xã hội


12

phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối
với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực văn hoá khác.
Bảng 1.1. Những tác động tích cực và tiêu cực của du lịch
Tích cực
Tiêu cực
- Các kế hoạch quản lý chặt chẽ - Sự phát triển của cơ sở hạ tầng ngành
hơn đối với môi trường tự nhiên du lịch không theo quy định trong
nhằm tạo hành lang quản lý và những hệ sinh thái nhạy cảm.
bảo vệ đầy đủ các hệ sinh thái - Những công trình với kiến trúc nghèo

nhạy cảm.

nàn hoặc bất hợp lý làm hỏng cảnh quan

- Nâng cao nhận thức của người và phá hủy những giá trị không gian.
dân địa phương và khách du lịch - Gây xáo trộn cuộc sống của các loài
về các giá trị tự nhiên và tính động vật hoang dã bởi những chuyến
nhạy cảm của hệ sinh thái để có du lịch có tổ chức và của những du
những hành vi có trách nhiệm khách tò mò trong các vườn quốc gia.
hơn.

- Tiêu thụ nhiều nguồn điện năng,

- Xây dựng các cơ sở xử lý nước nguồn nước cho các hoạt động du lịch.
Môi

thải và chất thải mà đối tượng - Ô nhiễm các dòng sông do thiếu các

trường hưởng lợi chính là khách du lịch hệ thống xử lý chất thải từ khách sạn.
và người dân địa phương.

- Du lịch khiến cho các hoạt động giao

- Tái chế chất thải trong cả nước. thông gia tăng (gây tiếng ồn, ô nhiễm
- Ví dụ tích cực là du lịch có thể không khí) ảnh hưởng xấu tới dân địa
thiết lập nên những tiêu chuẩn phương và động vật hoang dã.
bảo vệ môi trường cao hơn trong
các công trình cũng như các hoạt
động so với những lĩnh vực khác
- Đào tạo nhân viên để nâng cao

nhận thức và trình độ của họ về
các vấn đề bảo vệ môi trường có
thể làm thay đổi thói quen trong
cuộc sống hằng ngày của họ.
Xã hội - Bố trí lại vai trò giới nhằm tạo - Bố trí lại vai trò giới gây ra những
ra những cơ hội mới cho phụ nữ xáo trộn trong xã hội.
và thanh niên.

- Thương mại hóa những truyền thống


13

Tích cực
Tiêu cực
- Các truyền thống văn hóa được và nền văn hóa.
lưu truyền trong cộng đồng và - Thay đổi tập quán văn hóa (ví dụ như
khuyến khích sự sáng tạo trong nghệ thuật, nghề thủ công, trang phục,
nghệ thuật.

lễ hội) để đáp ứng nhu cầu du lịch thực

- Đầu tư mới/mở rộng các dịch sự hay nhận thức (tổn thất văn hóa).
vụ công cộng và tiện nghi.

- Làm trầm trọng hơn những bất bình

- Ổn định nền kinh tế.

đẳng hiện có của xã hội và tạo thêm


- Qua đó gia tăng sử dụng, bảo những bất bình đẳng mới.
tồn tài nguyên thiên nhiên và - Tạo nên những quan niệm mới về đức
văn hóa.

hạnh, quan hệ gia đình, vui chơi giải trí

- Nâng cao chất lượng giáo dục.

trong tổ chức cộng đồng, dẫn đến xung

- Khuyến khích sử dụng ngôn đột giữa các cá nhân hoặc các nhóm xã
ngữ bản địa.

hội.

- Đa dạng hóa sinh kế.

- Các hành động vi phạm của người
dân địa phương (vd. Xâm phạm vào
các khu vực cấm).
- Mất ngôn ngữ.
- Mất dần các giá trị văn hóa, tập quán
bản địa do sự chi phối của giá trị tiền tệ.

Kinh
tế

- Kích thích /tăng cường nền - Hoạt động du lịch được hưởng lợi từ
kinh tế địa phương.


tài nguyên thiên nhiên và văn hóa địa

- Tạo công ăn việc làm và công phương mà không cung cấp phần lợi
việc một cách trực tiếp và gián tiếp. ích thích hợp cho người dân địa
- Tạo cơ hội cho các hoạt động phương.
kinh doanh .

- Tạo ra các căng thẳng xã hội từ tiền

- Kích thích tăng trưởng các lương và thu nhập, gây bất bình đẳng
doanh nghiệp địa phương cả trực giữa chủ và khách, trong cộng đồng
tiếp và gián tiếp.

riêng của mình, và giữa nam giới và

- Đầu tư cơ sở hạ tầng.

phụ nữ (phụ nữ nắm giữ công việc tầm

- Tăng doanh thu thuế.

thường hơn, những công việc có mức

- Cải thiện chất lượng cuộc sống. lương thấp hơn).
- Đa dạng hóa sinh kế.

- Tăng sự phụ thuộc kinh tế vào một khu



14

Tích cực

Tiêu cực
vực hoặc thậm chí là vào một doanh
nghiệp.
- Làm tăng giá đất và chi phí nhà ở /sinh
hoạt.
- Tạo ra những giới hạn, lao động theo
mùa vụ, không có tay nghề hoặc cơ hội
phát triển thấp.
- Gia tăng số người đi tìm việc, tỷ lệ
thất nghiệp và gây ra căng thẳng xã
hội.
- Gây thất thoát cục bộ cao (% chi tiêu
cho nền kinh tế địa phương chủ yếu là
nhập khẩu) như: Nhập nguyên vật liệu
thô và nguồn lao động bên ngoài, các
công ty nước ngoài v.v.
- Khuyến khích sự thống trị của các
công ty đa quốc gia hay “người có ảnh
hưởng lớn tại địa phương” được hưởng
tất cả hoặc phần lớn lợi ích từ các hoạt
động du lịch.
Nguồn: [3]

b) Quan niệm về du khách
Du khách là người từ nơi khác đến vào thời gian rảnh rỗi của họ với
mục đích thoả mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết, phục vụ sức khoẻ, xây dựng

hay tăng cường tình cảm của con người (với nhau hoặc với thiên nhiên), thư
giãn, giải trí hoặc thể hiện mình kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần,
vật chất và các dịch vụ do các cơ sở của ngành du lịch cung ứng. Trong giai
đoạn hiện nay, có thể cụ thể hoá tiêu chí cơ bản này bằng việc nghỉ qua đêm
tại một cơ sở lưu trú của ngành du lịch. Về phương diện kinh tế, du khách là
người sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp du lịch như lữ hành, lưu trú, ăn
uống... Cần phải phân biệt hai loại du khách cơ bản. Những người mà chuyến


15

đi của họ có mục đích chính là nâng cao hiểu biết tại nơi đến về các điều kiện,
tài nguyên tự nhiên, kinh tế, văn hoá được gọi là du khách thuần tuý. Ngược
lại có những người thực hiện chuyến đi vì một mục đích khác như công tác,
tìm kiếm cơ hội làm ăn, hội họp... Trên đường đi hay tại nơi đến, những người
này sắp xếp được thời gian cho việc thăm quan, nghỉ ngơi. Khi đó họ mới
được coi là du khách. Để nói lên sự kết hợp đó, chuyến đi của họ được gọi là
du lịch công vụ, du lịch thể thao du lịch tôn giáo...
1.2.3.2. Quan niệm về phát triển du lịch bền vững
Du lịch bền vững là khái niệm mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến, nâng
cấp và hoàn thiện khái niệm du lịch của những năm 90 và thực sự được mọi
người quan tâm trong những năm gần đây.
Phát triển du lịch bền vững (Sustainable Tourism) được Tổ chức Du
lịch thế giới (United National World Tourist Organization, viết tắt
là UNWTO) định nghĩa như sau: “Du lịch bền vững là các hình thức du lịch
đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa
phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau. Du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá hủy tài nguyên mà
tương lai của du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết
cấu xã hội của cộng đồng địa phương” [19, tr.237].

Trong các định nghĩa này thì phát triển du lịch đã được hiểu một cách
đầy đủ hơn nó được xem xét trên cả ba lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường.
Theo Hội đồng khoa học, Tổng cục Du lịch (2005), Chương trình du lịch
bền vững có 12 mục tiêu (không xếp theo thứ tự ưu tiên) bao gồm:
- Hiệu quả kinh tế: Đảm bảo tính hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh để
các doanh nghiệp và các điểm du lịch có khả năng tiếp tục phát triển phồn
thịnh và đạt lợi nhuận lâu dài.
- Công bằng xã hội: Cần có sự phân phối lại lợi ích kinh tế và xã hội
thu được từ hoạt động du lịch một cách công bằng và rộng rãi cho tất cả
những người trong cộng đồng đáng được hưởng.


16

- Sự phồn thịnh cho địa phương: Tăng tối đa đóng góp du lịch với sự phát
triển thịnh vượng của nền kinh tế địa phương tại các điểm du lịch, khu du lịch.
- Sự thỏa mãn của khách du lịch: Cung cấp những dịch vụ an toàn, chất
lượng cao thỏa mãn đầy đủ yêu cầu của du khách. Không phân biệt đối xử
giới, chủng tộc, thu nhập cũng như các mặt khác.
- An sinh cộng đồng: Duy trì và tăng cường chất lượng cuộc sống của
ngườn dân địa phương, bao gồm cơ cấu tổ chức xã hội và cách tiếp cận các
nguồn tài nguyên, hệ thống hỗ trợ đời sống, tránh làm suy thoái và khai thác
quá mức môi trường cũng như xã hội dưới mọi hình thức.
- Chất lượng việc làm: Tăng cường số lượng và chất lượng việc làm tại
địa phương do ngành du lịch tạo ra và được ngành du lịch hỗ trợ, không có sự
phân biệt đối xử về giới và các mặt khác.
- Khả năng kiểm soát của địa phương: Thu hút và trao quyền cho cộng
đồng địa phương xây dựng kế hoạch và đề ra các quyết định về quản lý và
phát triển du lịch, có sự tham khảo tư vấn của các bên liên quan.
- Đa dạng văn hóa: Tôn trọng và tăng cường giá trị các di sản lịch sử,

bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống và những bản sắc đặc biệt của cộng
đồng dân cư địa phương tại các điểm du lịch.
- Đa dạng sinh học: Hỗ trợ bảo tồn khu vực tự nhiên, môi trường sống,
sinh vật hoang dã và giảm thiểu thiệt hại đối với các yếu tố này.
- Thống nhất tự nhiên: Duy trì và nâng cao chất lượng của cảnh vật, kể
cả ở nông thôn cũng như thành thị, tránh để môi trường xuống cấp.
- Hiệu quả của các nguồn lực: Giảm thiểu mức sử dụng những nguồn
tài nguyên quý hiếm và không thể tái tạo được trong việc phát triển và triển
khai các cơ sở, phương tiện và dịch vụ du lịch.
- Môi trường trong lành: Giảm thiểu ô nhiễm không khí, nước, đất và
rác thải từ du khách và các hãng du lịch.
Nhiều chuyên gia nghiên cứu về du lịch Việt Nam thống nhất nội hàm
của khái niệm phát triển du lịch bền vững là: hoạt động khai thác có quản lý
các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của


17

khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm
bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự
toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai; cho công
tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng địa
phương.
Kinh doanh du lịch

Du lịch
không
bền
vững


Du lịch biển
Du lịch nông thôn

Du lịch
bền
vững

Du lịch sinh thái
Du lịch văn hóa

Hình 1.2. Quan niệm phát triển du lịch bền vững
Như vậy: Phát triển du lịch bền vững là một vấn đề không thể thiếu
được trong quá trình đi lên của đất nước nói chung và của ngành du lịch nói
riêng. Tuy nhiên bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không
thể tách rời của quá trình phát triển.
1.2.3.3. Những nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Muốn đảm bảo phát triển du lịch bền vững, thì nhất thiết chúng ta phải tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc của phát triển bền vững theo hai cách tiếp cận sau:
a) Các nguyên tắc theo Chương trình nghị sự 21 Việt Nam
Chương trình nghị sự 21 Việt Nam về tài nguyên và môi trường là định
hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Đây là một chiến lược
khung bao gồm các định hướng lớn làm cơ sơ pháp lý cho các Bộ, ngành, địa
phương, các tổ chức, cá nhân phối hợp nhằm đảm bảo phát triển bền vững đất
nước trong thế kỷ 21. Định hướng chiến lược được xây dựng trên 8 nguyên
tắc cơ bản sau [16]:
- Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng
ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân


18


dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là
nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển.
- Thứ hai, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát
triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững,
bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi
trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt kinh tế, xã hội và
môi trường đều cùng có lợi”.
- Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực và chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con
người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc “người gây thiệt hại đối với tài
nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn”. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng
bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ động gắn kết và có chế
tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch,
kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về bảo
vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá phát triển bền vững.
- Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công
bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các
thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã
hội có cơ hội bình đẳng để phát triển; được tiếp cận tới những nguồn lực
chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng; tạo ra những
nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau; sử
dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được; gìn giữ và cải
thiện môi trường sống; phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi
trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
- Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất

nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên


19

sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất. Trước mắt, cần được đẩy mạnh sử
dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả
năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
- Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp
chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp,
đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối
đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định
về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy
mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng
cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của phụ nữ, thanh niên, đồng
bào các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về
các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.
- Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển các quan hệ
song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu
có chọn lọc các tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát
triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng
lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các tác động xấu đối với môi
trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.
- Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
b) Các nguyên tắc cơ bản theo cách tiếp cận của ngành du lịch để không tổn
hại đến môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, và môi trường xã hội
- Phát triển du lịch phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội của địa phương. Phát triển du lịch phải có vai trò hỗ trợ, dẫn dắt kinh tế
địa phương phát triển.

- Khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn
một cách bền vững. Giảm thiểu chất thải và tiêu thụ quá mức tài nguyên sẽ


20

góp phần làm giảm chi phí cho việc xử lý ô nhiễm môi trường và nâng cao
chất lượng dịch vụ du lịch.
- Duy trì tính đa dạng tự nhiên, đa dạng xã hội và đa dạng văn hoá.
- Cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho du khách, quảng bá du lịch
một cách có trách nhiệm qua đó giúp du khách thoả mãn tối đa nhu cầu của mình.
- Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch giúp cho
du lịch phát triển đa dạng và bền vững hơn.
- Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương, làm tăng tính trách
nhiệm của cộng đồng trong việc phát triển du lịch và bảo vệ môi trường.
Như vậy, muốn du lịch phát triển bền vững thì nhất thiết phải tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản trên để không tổn hại đến môi trường tự nhiên, môi
trường kinh tế, và môi trường xã hội. Du lịch bền vững sẽ tác động tích cực
đến đời sống xã hội và kinh tế. Du lịch thực sự đóng vai trò quan trọng và là
ngành mũi nhọn chỉ khi nó được phát triển một cách bền vững. Mặt khác cần
triển khai các nguyên tắc trên trong toàn bộ hệ thống của nền kinh tế - xã hội
thì khi đó mới đem lại hiệu quả cao, hiệu quả tốt nhất.
1.2.3.4. Du lịch bền vững du lịch, không bền vững
Trong các loại hình du lịch thì có những loại hình du lịch được coi là
bền vững hơn các loại hình khác. Thực tế ở hầu hết các nước cho thấy, nhiều
loại hình du lịch phát triển với quy mô rất lớn, do đó trở nên không bền vững
như: du lịch tình dục hoặc du lịch 3-S (Sun, Sea and Sand: Nắng, Biển và
Cát). Các nhà nghiên cứu cho rằng, phần lớn các mô hình du lịch có thể làm
cho bền vững hơn thông qua những thay đổi định lượng hoặc định tính.
Bảng 1.2. Loại hình du lịch phân loại theo khả năng tương thích

với khái niệm du lịch bền vững
Tương thích cao
Du lịch sinh thái

Không tương thích
Du lịch bờ biển có thị trường lớn

Du lịch văn hóa thu hút khách tìm hiểu Kỳ nghỉ có tác động tiêu cực tới môi
lịch sử, văn hóa của một khu vực

trường tự nhiên

Điểm du lịch đô thị có sử dụng những Du lịch tình dục
khu vực trống


21

Tương thích cao
Du lịch nông thôn có quy mô nhỏ

Không tương thích
Du lịch săn bắn và câu cá ở những nơi
quản lý kém

Kỳ nghỉ bảo tồn, trong đó du khách thực Đi du lịch ở những nơi có môi trường
hiện công tác bảo tồn trong suốt kỳ nghỉ

nhạy cảm như rừng nhiệt đới, Nam Cực
Nguồn: [19]


Muốn củng cố khái niệm du lịch bền vững, nhiều nhà nghiên cứu đã
nghiên cứu tác động của du lịch và so sánh các yếu tố được coi là bền vững với
các yếu tố được coi là không bền vững trên cả ba lĩnh vực kinh tế, môi trường,
xã hội. Tùy thuộc vào đặc điểm của khu du lịch để sử dụng các yếu tố để đánh
giá tính bền vững của phát triển du lịch cho phù hợp.
Bảng 1.3. Du lịch bền vững và du lịch không bền vững
Du lịch kém bền vững hơn

Khái niệm
chung:

Du lịch bền vững hơn

Phát triển nhanh

Phát triển chậm

Phát triển không kiểm soát

Phát triển có kiểm soát

Quy mô không phù hợp

Quy mô phù hợp

Mục tiêu ngắn hạn

Mục tiêu dài hạn


Phương pháp tiếp cận theo số lượng

Phương pháp tiếp cận theo chất lượng

Tìm kiếm sự tối đa

Tìm kiếm sự cân bằng

Kiểm soát từ xa

Địa phương kiểm soát

Chiến lược

Không lập kế hoạch, triển khai

phát triển:

tùy tiện

Quy hoạch trước, triển khai sau

Kế hoạch theo dự án

Kế hoạch theo quan điểm

Phương pháp tiếp cận theo lĩnh vực

Phương pháp tiếp cận chính luận


Tập trung vào các trọng điểm

Quan tâm tới cả vùng

Áp lực và lợi ích tập trung

Phân tán áp lực và lợi ích

Thời vụ và mùa cao điểm

Quanh năm và cân bằng

Các nhà thầu bên ngoài

Các nhà thầu địa phương

Nhân công bên ngoài

Nhân công địa phương

Kiến trúc theo thị hiếu của khách du lịch

Kiến trúc bản địa

Xúc tiến Marketing tràn lan

Xúc tiến Marketing có tập trung


22


Du lịch kém bền vững hơn

Du lịch bền vững hơn
theo đối tượng.

Sự dụng tài nguyên nước, năng Sử dụng vừa phải tài nguyên

Nguồn lực:

lượng lãng phí

nước, năng lượng

Không tái sinh

Tăng cường tái sinh

Không chú ý tới lãng phí sản xuất

Giảm thiểu lãng phí

Thực phẩm nhập khẩu
Tiền bất hợp pháp, không khai
báo rõ ràng

Thực phẩm sản xuất tại địa
phương
Tiền hợp pháp


Nguồn nhân lực chất lượng kém

Nguồn nhân lực có chất lượng

Số lượng nhiều

Số lượng ít

Không có nhận thức cụ thể

Có thông tin cần thiết bất kỳ lúc
nào

Không học tiếng địa phương

Học tiến địa phương

Khách du

Bị động và bị thuyết phục, bảo thủ

Chủ động và có nhu cầu

lịch:

Không ý tứ và kỹ lưỡng

Thông cảm và lịch thiệp

Tìm kiếm du lịch tình dục


Không tham gia vào du lịch tình
dục

Lặng lẽ, kỳ quặc

Lặng lẽ, riêng biệt

Không trở lại tham quan

Trở lại tham quan
Nguồn: [19]

1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp với sự tham gia của nhiều thành phần
xã hội. Sự phát triển của du lịch phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế,
chính trị của đất nước cũng như của khu vực, sản phẩm du lịch được hình
thành từ nhiều yếu tố. Vì vậy việc xác định các dấu hiệu nhận biết phát triển
du lịch bền vững là công việc phức tạp. Các tiêu chí cơ bản của phát triển du
lịch bền vững cần được nghiên cứu và xem xét bao gồm.
1.3.1. Tiêu chí về kinh tế
Để phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và


23

ổn định lâu dài của các chỉ tiêu kinh tế du lịch (lượng khách, thu nhập, GDP,
cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động…) Theo xu thế chỉ tiêu kinh tế phát triển
mức (7 - 10)% (trên dưới 10 năm) là phát triển bền vững.
- Khách du lịch: Đây là chỉ tiêu quan trọng quyết định thành công hay

thất bại. Để đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững thì số lượng về khách
tăng năm này qua năm khác, các tiêu chí khác như thời gian lưu trú, số khách
quay trở lại, mức độ hài lòng…cũng cần được phát triển liên tục và bền vững.
- Thu nhập và tổng số sản phẩm quốc nội ngành du lịch: Sự tăng
trưởng liên tục của khách du lịch sẽ kéo theo sự tăng trưởng về thu nhập. Tỷ
trọng GDP du lịch càng cao, ổ định và tăng trưởng theo thời gian thì ngành du
lịch càng phát triển gần với mục tiêu phát triển bền vững.
- Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Phải được đầu tư đồng bộ,
phát triển về số lượng, chủng loại và chất lượng đáp ứng nhu cầu, hấp dẫn,
thu hút khách du lịch. Bao gồm (cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, điểm/
khu du lịch, y tế, thông tin liên lạc, phương tiện vận chuyển…).
- Nguồn nhân lực du lịch: Phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ
cấu của đội ngũ lao động du lịch sẽ đảm bảo cho sự phát triển về chất lượng
các sản phẩm và dịch vụ du lịch.
- Tuyên truyền quảng bá du lịch: Đây là hoạt động có ý nghĩa quan
trọng trong việc thu hút khách du lịch, cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin
về tuyến điểm, sản phẩm du lịch sẽ tạo lòng tin cho du khách.
1.3.2. Tiêu chí về xã hội
- Tác động đến xã hội: Để đảm bảo phát triển bền vững, các tác động
tiêu cực đến xã hội từ các hoạt động phát triển du lịch cần phải được kiểm
soát và quản lý. Cần thiết phải có văn bản pháp luật nhà nước, quy định của
địa phương và năng lực thực hiện của cả bộ máy. Hiệu quả của hoạt động này
được thể hiện qua số lượng các vụ vi phạm được phát hiện và xử lý.
- Phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch: Ngoài ý nghĩa về mặt
kinh tế, việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp có ý nghĩa cao về mặt xã
hội, tạo điều kiện để một bộ phận lao động địa phương có công ăn việc làm,


24


cải thiện chất lượng cuộc sống nâng cao dân trí, thu hút nguồn lực to lớn của
xã hội (nhân lực, vật lực, trí lực) cho phát triển du lịch.
- Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương: Cộng đồng
dân cư địa phương - chủ nhân của các nguồn tài nguyên du lịch là người bảo
vệ nguồn tài nguyên và môi trường, ủng hộ và hợp tác đối với phát triển du
lịch bền vững. Vai trò - lợi ích - trách nhiệm của họ phải được quan tâm.
(Phát huy vai trò của cộng đồng trong việc xây dựng và triển khai quy hoạch,
Giám sát thực hiện các dự án đầu tư, mức độ tham gia của cộng đồng vào các
hoạt động kinh doanh du lịch, ưu tiên cộng đồng tham gia đầu tư xây dựng và
phát triển du lịch, phúc lợi chung của cộng đồng được nâng cao).
1.3.3. Tiêu chí về môi trường
- Số lượng các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn: Mục
tiêu phát triển bền vững là nhằm hạn chế tối đa việc khai thác quá mức và
lãng phí các nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên tự nhiên không có khả năng
tái tạo. Nơi nào có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư, bảo tồn, tôn tạo thì
chứng tỏ hoạt động phát triển ở nơi đó với mục tiêu phát triển bền vững.
- Số lượng các khu, điểm du lịch được quy hoạch: Là một tiêu chí quan
trọng nhằm xác định các phương án phát triển phù hợp, đảm bảo việc khai
thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và đề xuất các giải pháp nhằm
hạn chế tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường, mang lại
hiệu quả cao về kinh tế xã hội.
- Áp lực lên môi trường: Liên quan đến khả năng sức chứa, đó là quản lý
số lượng khách đến không vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên và không
làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của các hệ sinh thái trong khu vực.
- Cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch: Số lượng khách đến
điểm du lịch càng tăng chứng tỏ sự lớn mạnh của điểm du lịch nhưng không
được vượt quá tiêu chuẩn cho phép về môi trường, về tiêu thụ năng lượng và
sức chứa. Việc gia tăng mạnh mẽ về số lượng khách sẽ đồng nghĩa với việc



25

các nguồn tài nguyên du lịch bị khai thác quá mức dẫn đến suy thoái và cạn
kiệt tài nguyên, do đó việc phải giới hạn số lượng khách đến trong một chu kỳ
phát triển là một vấn đề quan trọng và cấp bách.
- Mức độ đóng góp từ du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài
nguyên và bảo vệ môi trường: Được thể hiện qua tỷ lệ qua tỷ lệ giữa phần
đóng góp và tổng nguồn thu. Tỷ lệ này càng lớn thì mức đóng góp càng cao
và đảm bảo cho việc khai thác các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du lịch
theo hướng bền vững.
1.4. Vai trò của phát triển du lịch bền vững trong nền kinh
tế - xã hội hiện nay
Du lịch của một nước phát triển làm tăng ngân sách nhà nước, giải
quyết đời sống xã hội, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế có liên quan phát triển
theo. Theo Báo Nhân Dân [2], trên thế giới nhiều nước do du lịch phát triển
đã đem lại cho ngân sách nguồn thu ngoại tệ lớn. Năm 2012 châu Âu đạt mức
tăng trưởng mạnh nhất 6%, nhất là khu vực Trung, Đông và Nam Âu cũng
như vùng Địa Trung Hải. Tỷ lệ tăng trưởng này vượt ước tính ban đầu và tăng
gấp hai lần mức tăng trưởng du lịch trung bình tới châu Âu năm 2000. Ngành
du lịch Anh đạt doanh thu kỷ lục từ khách du lịch nước ngoài trong năm 2013
với 22 tỷ USD trong tám tháng đầu năm. Tại Hy Lạp, quốc gia bị khủng
hoảng kinh tế nặng nề thì ngành “công nghiệp không khói” nước này đón số
lượng khách quốc tế cao kỷ lục 17 triệu người, với doanh thu trực tiếp tăng
10%, lên mức 11 tỷ Euro. Tại châu Á, Trung Quốc dẫn đầu về tăng trưởng du
lịch, với số khách du lịch nước ngoài tăng 22% và thu nhập du lịch trong
nước của Trung Quốc năm vừa qua đạt 26 nghìn tỷ NDT, tăng 14% so với
năm 2012. Trong khu vực, ngành du lịch Inđônêxia vẫn duy trì được nhịp độ
tăng trưởng hơn 7% trong năm 2013 với lượng khách du lịch quốc tế hơn 8,63
triệu lượt người và đem lại tổng doanh thu ngoại tệ 9,78 tỷ USD, thu hút hơn
10 triệu lao động. Tại châu Mỹ, Mê-hi-cô cũng là một điểm sáng du lịch của



×