Tải bản đầy đủ (.doc) (197 trang)

Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế kinh tế tri thức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 197 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứ của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Thị Hạnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT
1
2
3
4
5

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội
Giáo dục và đào tạo
Khoa học và công nghệ
Kinh tế thị trường

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
CNXH
GD & ĐT


KH và CN
KTTT


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

Chương 1. KINH TẾ TRI THỨC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM

1.1. Kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
1.2. Quan niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Chương 2. THỰC CHẤT VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM

2.1. Thực chất đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.2. Những nhân tố quy định đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Chương 3. TÌNH HÌNH VÀ NHẬN DIỆN CÁC MÂU THUẪN
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP

ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Tình hình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
3.2. Nhận diện các mâu thuẫn trong đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
hiện nay
Chương 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Nhóm giải pháp xây dựng môi trường đào tạo, sử dụng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay
4.2. Nhóm giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay
4.3. Nhóm giải pháp phát huy tích cực của chủ thể tham gia đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
11
34

34
51
62
62
72

90
90
109
120
120
128
138
154
156
157
167


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài luận án“Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ trong nhiều năm
giảng dạy, nghiên cứu khoa học với sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu các
công trình khoa học, nhất là những công trình liên quan trực tiếp đến đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực.
Trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới ở nước ta, yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đang đặt ra rất cấp bách. Để tránh

tụt hậu, việc sử dụng hiệu quả tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền
vững các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; đưa tri thức khoa học,
công nghệ vào đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc lại nền kinh tế, ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại là những vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở lý luận, thực tiễn sinh động giúp tác
giả nghiên cứu, thực hiện mục đích, nội dung, nhiệm vụ đề tài luận án đặt
ra.
Theo hướng nghiên cứu đã xác định, trong chương 1, tác giả tập trung
phân tích, làm rõ vấn đề phát triển kinh tế tri thức, xác định những yêu cầu của
nguồn nhân lực phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Trong chương 2, xác định
nội dung vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, chỉ ra những nhân tố tác động đến đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Trong chương 3, tác giả luận án đánh giá thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở
nước ta hiện nay; trên cơ sở đó, nhận diện những mâu thuẫn cơ bản trong đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Trong chương 4, tác giả luận án đề xuất ba nhóm giải pháp đào tạo nguồn nhân


6
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
2. Lý do chọn đề tài luận án
Để hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả, chúng ta đồng thời phải
làm nhiều việc, trong đó, các trường đại học, cao đẳng phải đào tạo, bồi dưỡng
phát triển con người Việt Nam ngang tầm yêu cầu và nhiệm vụ mới; có bản lĩnh
và trí tuệ; biết kế thừa, tiếp thu và làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại, sáng tạo
tri thức mới, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy, luận án được tác giả
lựa chọn nghiên cứu với những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực và

yêu cầu cấp bách phải đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão; trong
đó, tri thức khoa học, công nghệ và thông tin ngày càng đóng vai trò quyết định quá
trình sản xuất vật chất, dẫn tới sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức. Nhận thức
đúng xu thế phát triển tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri
thức, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, trên cơ sở ổn định
kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển
nhanh và bền vững đất nước. Chúng ta lựa chọn con đường phát triển đất nước dựa
vào khoa học và công nghệ, giáo dục, đào tạo gắn chặt với sản xuất, kinh doanh. Vấn
đề then chốt có ý nghĩa quyết định là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng còn nhiều hạn chế, bất cập trong đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Lý luận và
thực tế chỉ ra rằng, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam phải là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, nhân tài được xem là
nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của Việt Nam trong quá


7
trình phát triển kinh tế tri thức. Điều đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành, địa phương phải chú trọng và ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay và những năm tới.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Hiện nay, Việt Nam là một quốc
gia có tỷ trọng kinh tế nông nghiệp khá lớn, kinh tế công nghiệp và dịch vụ đang
phát triển nhưng chưa chiếm ưu thế để chuyển nước ta thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được qua 30
năm đổi mới chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu

tư và lao động trình độ thấp, giá rẻ. Cách thức phát triển của nền kinh tế “nâu”
chưa phát huy tốt vai trò của tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao, làm cho
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ngày càng rõ. Thách thức không chỉ ở sự tụt
hậu xa hơn về kinh tế mà còn tụt hậu về văn hóa, phát triển con người. Sự tụt
hậu về kinh tế tạo ra những thách thức về chính trị mà Việt Nam phải đối mặt là
rất lớn. Điều đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải đổi mới mô hình tăng trưởng,
tái cấu trúc lại nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ tư, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu cơ bản,
hệ thống, chuyên sâu về đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam. Vì vậy, “Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” được nghiên cứu sinh lựa chọn
làm đề tài nghiên cứu luận án, với hy vọng đóng góp phần công sức của mình vào
sự nghiệp “trồng người”, góp phần đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích
Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế


8
tri thức ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, từ
đó đưa ra những vấn đề mà luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về kinh tế tri thức, nguồn nhân
lực, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển kinh tế tri thức; khái quát những yêu cầu
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, đánh giá đúng tình hình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân,
bước đầu nhận diện các mâu thuẫn trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Thứ tư, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bản chất quá trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam là vấn đề lớn, phạm vi, quy mô rộng. Với điều kiện cho phép, luận án tập
trung vào đào tạo nguồn nhân lực ở trình độ đại học.
Tài liệu, tư liệu phục vụ nghiên cứu luận án chủ yếu từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, tập trung vào
nhóm tài liệu, chủ yếu 10 năm gần đây (từ 2006 đến nay).
Các đơn vị điều tra khảo sát thực tế, phục vụ đánh giá thực trạng luận án
là một số trường đại học ở khu vực Hà Nội và các khu công nghiệp ở các tỉnh


9
phía Bắc.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về phát triển kinh tế tri
thức, hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đặc biệt
là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển, lý luận về hình thái kinh tế - xã
hội, vấn đề con người, bản chất con người và phát triển con người. Đồng thời, kế

thừa, vận dụng lý thuyết khoa học liên ngành có liên quan đến đề tài luận án để
luận giải, làm sáng tỏ mục đích, nhiệm vụ, nội dung của luận án.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay, chủ yếu dựa vào báo cáo tổng kết năm, giai đoạn,
thời kỳ của các cơ quan chức năng, các trường đại học, kết quả khảo sát thực tế
của tác giả luận án về tình hình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thời gian qua.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, kết hợp với sử dụng phương pháp: phân tích và tổng hợp; lịch sử
và lôgic; khái quát hóa và trừu tượng hóa; phương pháp khảo sát thực tế, điều tra xã
hội học…để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án có một số đóng góp mới sau đây:
- Làm rõ hơn những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức ở Việt Nam, về đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Xác
định những nhân tố quy định quá trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu


10
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Đánh giá đúng tình hình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam, bước đầu nhận diện một số mâu thuẫn trong đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, địa

phương hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Luận án có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho cán bộ, giảng viên, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh
chuyên ngành triết học, kinh tế học, quản lý xã hội… và những người quan tâm đến
vấn đề này tham khảo.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, tổng quan tình hình nghiên cứu, danh mục tài liệu
tham khảo, danh mục các bài báo của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài
luận án và một số phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.


11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế tri thức
và phát triển kinh tế tri thức
1.1. Những công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức
Trong những năm gần đây, kinh tế tri thức là một chủ đề được các nhà
quản lý và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Dale Neef (chủ biên) “Nền kinh tế tri thức” [134], đã trình bày các khía
cạnh khác nhau về nhận thức và thực tiễn của nền kinh tế tri thức ở nhiều nước
trên thế giới, ông phác thảo một bức tranh toàn cảnh về sự xuất hiện và hiệu quả
của kinh tế tri thức đối với con người, chỗ làm việc, các doanh nghiệp, nền kinh
tế và toàn bộ xã hội. Tác giả đã chỉ ra các nguồn lực truyền thống đang giảm dần
tầm quan trọng và bị ảnh hưởng; tri thức, khoa học, công nghệ đang trở thành nhân
tố quyết định sự cạnh tranh của mỗi quốc gia, dân tộc. Theo ông, đặc trưng nổi bật
của kinh tế tri thức là tri thức khoa học đã vượt qua các nhân tố sản xuất truyền
thống. Từ đó, Dale Neef đã đặt ra câu hỏi tại sao chúng ta lại cho rằng, ngày nay sự
tập trung của các dịch vụ tri thức và công nghệ cao sẽ tạo ra sự thay đổi sâu sắc
trong các nguyên tắc kinh tế so với thay đổi mà sự phát kiến ra Penicillin hoặc việc

chia nguyên tử trước đây đã tạo ra? Và câu trả lời là chúng ta đang có nhiều công
nhân tri thức hơn bao giờ hết, cũng như có các công cụ và kết cấu hạ tầng công
nghệ cao hơn và chính nó đã và đang lan tỏa các tri thức rất nhanh chóng…Theo
lập luận của tác giả thì có một lý thuyết kinh tế mới - lý thuyết về nền kinh tế dựa
trên cơ sở tri thức sẽ hoàn toàn khác với lý thuyết hiện hành.
Tachiana Leonova (2011) “Hệ thống đổi mới của Phần Lan: mô hình xây
dựng nền kinh tế tri thức” [145], đã khẳng định: Phần Lan là quốc gia phát triển,
theo các thông số Ngân hàng thế giới, các thành tố của kinh tế tri thức đều phát
triển hài hòa và cân đối giữa nghiên cứu lý luận khoa học và nghiên cứu thực


12
hành thử nghiệm. Đến nay, các yếu tố này đã được chuyên môn hóa sản xuất và
thương mại. Việc tập trung nghiên cứu khoa học và thiết kế, thử nghiệm là cơ sở
để Phần Lan phát triển kinh tế tri thức, tăng cường năng lực cạnh tranh.
Tác giả Ngô Quý Tùng “Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI”
[118], đem lại cho chúng ta cái nhìn tổng quát về nền kinh tế tri thức trong tương
lai không xa và sự cần thiết phải chuẩn bị hành trang tri thức ngay từ bây giờ để có
thể tiếp cận và làm việc với nó. Sau khi trình bày nguồn gốc, nội dung và đặc điểm
của kinh tế tri thức, tác giả đã chỉ ra xu thế phát triển là tri thức hóa nền kinh tế thế
giới, được thể hiện ở các công nghệ kỹ thuật cao, chứa đựng “hàm lượng tri thức”
lớn tạo ra lực lượng sản xuất mới và “khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất thứ
nhất”. Kinh tế tri thức có thể dẫn đến mất việc làm; vì vậy, cần có giải pháp để
khắc phục tình trạng này. Tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế tri thức và
thất nghiệp - một vấn đề xã hội mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều phải quan tâm.
Đồng thời, đề cao vai trò của giáo dục và đào tạo đối với đào tạo, sử dụng nguồn
nhân lực. Theo tác giả, đây là công việc rất quan trọng cần chuẩn bị kỹ lưỡng cho
phát triển kinh tế tri thức. Đặc biệt, trong tác phẩm này, tác giả lưu ý các nhà khoa
học, những người hoạch định chính sách cần có tầm nhìn xa trông rộng, biết trân
trọng và tiếp thu cái mới để phát triển kinh tế tri thức, không nên để mất thời cơ có

thể đưa đất nước ra khỏi sự lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu.
Tác giả Đặng Hữu “Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với phát
triển Việt Nam” [53], đã đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng về kinh tế tri thức
như khái niệm, đặc trưng, điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam, kinh nghiệm của các nước bước vào kinh tế tri thức và đạt được
thành tựu ban đầu. Trong đó, tác giả khẳng định: cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại là tiền đề cho sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức. Đồng thời,
thống nhất với quan niệm về kinh tế tri thức của OECD và APEC; Kinh tế tri thức
là nền kinh tế, trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ


13
yếu của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: kinh tế tri thức là cơ hội lớn để nước ta rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững đất nước; là cơ hội để
Việt Nam tăng cường năng lực nội sinh, chủ động hội nhập quốc tế. Tác giả đưa ra
một số định hướng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, trong đó
nhấn mạnh: phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, tạo nền tảng vững chắc và động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế
tri thức.
Tác giả Phạm Tất Dong “Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng” [19],
đã nêu một số quan niệm về trí thức, trí thức Việt Nam; phân tích đặc điểm, sự
hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam; chỉ ra triển vọng và giải
pháp phát triển đội ngũ này trong thời kỳ mới.
Tác giả Đặng Mộng Lân “Kinh tế tri thức - Những khái niệm và vấn đề cơ
bản”[65], đã phân tích một số khái niệm có liên quan và đưa ra quan niệm của,
tác giả về kinh tế tri thức. Tác giả cho rằng, có nhiều cách hiểu, cách diễn đạt
khác nhau về khái niệm kinh tế tri thức. Bởi lẽ, bản thân hiện tượng còn đang
trong quá trình phát triển nên những nhận xét, nghiện cứu về nó cần phải bám
sát thực tiễn. Trong đó, cần phải chú ý đến những tiến bộ của khoa học công

nghệ và thông tin, tác động của chúng đến sản xuất, phân phối và sử dụng kiến
thức. Trong công trình này, tác giả đã khẳng định rằng: Kinh tế tri thức đã, đang
và sẽ làm xuất hiện nhiều vấn đề mà chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu.
Tác giả Vũ Trọng Lâm (chủ biên) “Kinh tế tri thức ở Việt Nam: Quan
điểm và giải pháp phát triển” [66], đã đề cập đến vấn đề quan trọng liên quan
đến lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tri thức, đó là; khái niệm, đặc điểm,
kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế tri thức …, đã khẳng định: để tăng
trưởng kinh tế trong thời đại kinh tế tri thức thì việc đầu tiên và quan trọng nhất
là hình thành nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài, lấy con


14
người làm trung tâm của sự phát triển. Qua đó, tác giả đưa ra quan điểm, mục
tiêu, giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, đồng thời, nhấn mạnh vấn
đề sử dụng lao động tri thức trở thành một nhân tố cạnh tranh trong nước và thế
giới; tạo môi trường cho khoa học và lao động tri thức phát triển; đổi mới tư duy
về tri thức đối với người quản lý.
Tác giả khẳng định: việc lựa chọn mô hình phát triển rút ngắn là con
đường tất yếu của các nước đi sau. Việt Nam muốn thực hiện thành công con
đường phát triển rút ngắn cần phải tận dụng thành tựu của kinh tế tri thức trên cơ
sở chuẩn bị những yếu tố cần thiết tạo đà cho giai đoạn phát triển mới.
1.2. Những công trình tiêu biểu nghiên cứu về phát
triển kinh tế tri thức
Tác giả Trần Ngọc Hiên “Kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam” [45], khẳng định rằng: kinh tế tri thức ra đời là một tất yếu khách quan, xuất
phát từ sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Sự ra đời của kinh tế tri thức
làm thay đổi nhận thức của con người, của các quốc gia về vai trò các nguồn lực
phát triển…Trong xu thế hiện nay, việc lựa chọn mô hình phát triển rút ngắn để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu phát triển của các nước đang
phát triển. Qua đó, tác giả nhấn mạnh: Việt Nam muốn thực hiện thành công con

đường phát triển “rút ngắn” cần phải tận dụng tối đa thành tựu của kinh tế tri thức
trên cơ sở chuẩn bị những yếu tố cần thiết, tạo đà cho giai đoạn phát triển mới.
Tác giả Nguyễn Quang “Thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở nước ta sau 20
năm đổi mới” [99], đã đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong
thời gian qua dưới nhiều góc độ khác nhau: phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ để nâng cao hàm lượng kinh tế tri thức, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh;
sự ảnh hưởng của khoa học và công nghệ với việc tăng tưởng kinh tế và hàm lượng tri
thức khoa học của Việt Nam. Từ đó, tác giả chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, đồng thời khẳng định, kết quả phát triển kinh


15
tế tri thức gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Để đẩy
mạnh phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong thời gian tới cần tiến hành đồng bộ
nhiều giải pháp: thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ; tăng cường đầu tư công nghệ trong quá trình tái cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng
cường đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh…
Các công trình nghiên cứu về bản chất kinh tế tri thức và phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam bước đầu đã đạt được một số kết quả quan trọng như đưa ra
các khái niệm, đặc trưng của kinh tế tri thức; các mô hình, kinh nghiệm của một
số quốc gia trên thế giới về phát triển kinh tế tri thức; yêu cầu, con đường, điều
kiện và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, các công trình về cơ bản đều thống nhất: Kinh tế tri thức là giai
đoạn phát triển mới sau kinh tế công nghiệp. Do vậy, tri thức giữ vai trò quan
trọng nhất trong việc tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các tác
giả đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức. Mặc dù còn nhiều ý
kiến khác nhau nhưng về cơ bản, các tác giả đều có quan điểm chung là khi nêu
ra một số đặc trưng như tri thức là yếu tố quan trọng nhất của sản xuất, kinh tế
tri thức mang tính toàn cầu, kinh tế tri thức bảo đảm cho phát triển bền vững

kinh tế - xã hội tạo ra xã hội học tập.
Một trong những kết quả quan trọng của các công trình nêu trên là phân tích,
làm rõ tính tất yếu khách quan của con đường phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Với tư cách là sự phát triển tất yếu khách quan, kinh tế tri thức ra đời đã và đang tác
động mạnh tới sự phát triển của Việt Nam. Vì vậy, vận dụng phát triển kinh tế tri thức
là cơ sở quan trọng cho phát triển Việt Nam trong điều kiện mới, là giải pháp hữu hiệu
để Việt Nam tránh nguy cơ tụt hậu. Đối với một quốc gia có truyền thống nông
nghiệp, đang phát triển công nghiệp và dịch vụ, phải lựa chọn con đường phát triển
phù hợp thì mới có thể tận dụng và phát triển được kinh tế tri thức. Con đường đó gắn


16
với việc đào tạo nguồn nhân lực, người lao động có trình độ cao, có tri thức nền tảng
vững chắc, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Đây là
con đường Việt Nam cần đi đến để tiến kịp các nước phát triển.
2. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về
nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế tri thức
2.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực
Đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có cơ quan nhà nước quản
lý và nghiên cứu các vấn đề thuộc về nguồn nhân lực. Một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu của các học giả nước ngoài về vấn đề này như; E.F. Schumacher
“Những nguồn lực”, xuất bản 1996, “Kinh tế học của sự phát triển” của tập thể
tác giả Malcolm Gillis, Dwight, H.Perkins, đã phân tích về vốn, nhân lực hoặc
phân tích về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở các quốc gia đang phát triển
trong “Kinh tế học của các nước đang phát triển” của E.Wayne Nafziger.
Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin biên tập khoa học “Lao động, việc làm và
nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới” [140], là công trình khoa học, tập hợp
nhiều bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài nước về chính sách giáo dục, việc
làm, tổ chức lại nền kinh tế, phát triển doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực..., của

các nhà nghiên cứu tiêu biểu như: Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin, Geoffrey,
B.Hainsworth, Fiona Hơwell, Nguyễn Hữu Dũng, Trần Khánh Đức, Võ Đại Lược,
Trần Tiến Cường... Trong công trình nghiên cứu này, đáng chú ý có bài viết của
Geoffrey B.Hainsworth “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với những thách thức
của quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một nền kinh tế dựa trên những hiểu biết
mới”. Tác giả có cách tiếp cận mới khi đặt câu hỏi: Làm thế nào để mở rộng sự lựa
chọn nghề nghiệp và viễn cảnh cuộc sống dân cư nông thôn - những người đang nắm
giữ những nguồn lực to lớn nhất và chưa được phát huy. Làm cách nào để họ nhận
được sự quan tâm đặc biệt của những nhà hoạch định chính sách và nhà tài trợ? Tác
giả A phân tích 3 vấn đề để tìm câu trả lời:


17
1) Về phạm vi giáo dục, đào tạo nghề. Tác giả khẳng định nền văn hoá Việt
Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn. Trước thời kỳ đổi mới, mặc dù gặp
nhiều khó khăn, Việt Nam vẫn đạt được mức độ cao về biết chữ và bình đẳng giới,
nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) thì tỷ lệ bỏ học cao ở cấp
trung học. Theo tác giả lập luận: mức học phí, sự thiếu hụt giáo viên, tiền lương thấp
so với các ngành nghề khác đã và đang làm hạn chế chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực Việt Nam.
2) Về sử dụng lực lượng lao động và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp.
Theo tác giả, mặc dù tỷ trọng GDP tương đối của ngành nông nghiệp giảm so
với công nghiệp và dịch vụ nhưng sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng lao động
hầu như không biến động về mặt việc làm. Vì vậy, cần thực hiện cải cách
chương trình đào tạo và cải cách giáo dục như tăng số lượng phòng học, tăng số
lượng và chất lượng giáo viên, giảng viên, nâng cấp trang thiết bị phục vụ giảng
dạy, tăng tiền lương...
3) Về cơ cấu ngành nghề, lựa chọn công nghệ và sở hữu doanh nghiệp.
Tác giả cho rằng, đối với một nước mới thực hiện công nghiệp hóa như Việt
Nam nên phát triển ngành chế tạo, chế biến và các dịch vụ đi kèm, đồng thời

không chỉ lựa chọn công nghệ cao mà còn phải lựa chọn công nghệ phù hợp như
công nghệ phần mềm, nghiên cứu cơ bản...
William J.Rothwell, Robert K.Prescott và Maria W.Taylor, “Chuyển hoá
nguồn nhân lực: Thể hiện tầm lãnh đạo chiến lược nhằm thích ứng với các xu
hướng tương lai” [146], giới thiệu những vấn đề về quá trình chuyển hoá nguồn
nhân lực, cung cấp thông tin quan trọng về các xu hướng và vấn đề thúc đẩy
chuyển hoá nguồn nhân lực, ý nghĩa của chuyển hoá nguồn nhân lực, phác thảo
kế hoạch hành động nhằm gắn chức năng nguồn nhân lực với các mục tiêu chiến
lược tổng thể và thành công của tổ chức.
Lưu Tiểu Bình “Lý luận và phương pháp đánh giá nguồn nhân lực hiện
nay”[133], cho rằng, trong sự phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay ở mỗi


18
quốc gia và mỗi khu vực trên thế giới, nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan
trọng. Chính vì vậy, việc khơi nguồn và phát triển nguồn lực con người có vị
trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các
nước. Để giải quyết được vấn đề khai thác và phát huy vai trò nguồn nhân lực
đóng góp vào sự phát triển đất nước, tác giả đã xuất phát từ việc nghiên cứu
một số cơ sở đánh giá và phát triển nguồn nhân lực, từ đó đi vào một số nội
dung cụ thể, như đánh giá tâm lý nguồn nhân lực; các phương pháp đánh giá
nguồn nhân lực; nội dung để tiến hành đánh giá nguồn nhân lực... Đó là những
vấn đề có ý nghĩa thực tiễn đối với việc giải quyết bài toán phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là xu thế tất yếu khách
quan để đưa nước ta phát triển theo con đường CNXH. Góp phần thực hiện mục
tiêu, đường lối đã xác định, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Trong đó, đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề con người, phát huy nhân tố con người, phát triển
nguồn nhân lực đã và đang trở thành tiêu điểm của các vấn đề nghiên cứu, cần giải
đáp về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay. Về vấn đề này, có nhiều công trình khoa
học giá trị đã công bố, đáng kể là một số công trình tiêu biểu dưới đây.
Tác giả Vũ Thị Phương Mai “Nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” [68] đã phân tích,
làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phân tích thực trạng
nguồn nhân lực chất lượng cao và xu hướng phát triển nguồn nhân lực này ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất những quan điểm và giải pháp phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện


19
đại hóa đất nước. Qua đó, tác giả đã làm rõ quan niệm về nguồn nhân lực chất
lượng cao, đặc điểm, cấu trúc của nó. Đồng thời, làm rõ vai trò quyết định của
nguồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân
lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay ở các góc độ: số lượng, chất lượng, cơ cấu,
nhu cầu sử dụng, chế độ đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, chỉ ra
nguyên nhân chủ quan, khách quan của mặt ưu điểm, hạn chế; xu hướng và những
điều kiện cơ bản để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Công trình khoa học giúp nghiên cứu sinh kế thừa
những giá trị khoa học và hướng tiếp cận nghiên cứu để triển khai nghiên cứu đề tài
luận án đã xác định.
Tác giả Nguyễn Thị Giáng Hương“Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [52], đã làm rõ quan niệm về nguồn nhân
lực nữ trên cơ sở đề ra những tiêu chí cơ bản của nguồn nhân lực nữ chất lượng
cao; phân tích, luận giải mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan trong phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao; xác định

tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao và phân
tích những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan tác động đến phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Đồng thời, khảo sát, đánh giá thực
trạng nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, khái quát những
mâu thuẫn trong phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam và đề
xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực này.
Tác giả Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (đồng chủ biên) “Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [95],
đã phân tích tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về phát triển
nguồn nhân lực; đề cập những vấn đề lý luận chung về cách tiếp cận nghiên cứu
nguồn nhân lực, từ lý luận đến thực tiễn phát triển nguồn nhân lực; những kinh


20
nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số ngành như dầu khí, ngân hàng ở nước
ta và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số nước, vùng, lãnh thổ. Trên
cơ sở đó, tác giả đã đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, bất cập, thách thức.
Đồng thời, đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Trong
đó, có một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch, tài chính, ngân
hàng …có giá trị thiết thực.
Tác giả Đức Vượng“Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011
- 2020” [129], đã đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân
lực ở Việt Nam. Theo tác giả, nguồn nhân lực Việt Nam được xác định gồm
nguồn nhân lực nông dân, công nhân, trí thức, công chức, viên chức và có những
đặc điểm chung là các nguồn nhân lực này khá dồi dào, nhưng chưa được quan
tâm đúng mức, chưa quy hoạch, chưa khai thác, còn đào tạo nửa vời, thậm chí,
nhiều người chưa được đào tạo. Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực chưa
cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. Sự kết hợp, bổ sung, đan
xen giữa nguồn nhân lực nông dân, công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn bị chia
cắt, thiếu sự hợp tác, chưa hợp lực để cùng thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo

vệ đất nước.
Tác giả đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, đó là: Cần
coi nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam; nâng cao chất
lượng con người và chất lượng cuộc sống. Nhà nước có kế hoạch phối hợp đào
tạo nguồn nhân lực nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực cho hợp lý, hiệu quả, thiết thực.
Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết thực tiễn và lý luận về nguồn nhân lực ở Việt
Nam, đánh giá đúng mức mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh
nghiệm, xây dựng, hoàn thiện chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về
nguồn nhân lực ở Việt Nam... Cần có chính sách, biện pháp kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng


21
có hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
tri thức.
Tác giả Nguyễn Văn Phán “Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay” [88], đã đánh
giá thực trạng giảng viên đại học, cao đẳng - một bộ phận của nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, ở các trường đại học, cao đẳng thì việc
xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên là khâu then chốt. Tác giả đề xuất giải pháp
và cho rằng, các giải pháp đó cần thực hiện thống nhất để nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực bậc cao phục vụ thiết thực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới.
2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về đào tạo nguồn nhân lực
Nguyễn Như Diệm dịch thuật công trình khoa học của Thẩm Vinh Hoa Ngô Quốc Diệu “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn
hưng đất nước” [135], công trình đã đề cập nhiều nội dung quan trọng về “Tổng
công trình của công cuộc cải cách, mở cửa và xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa của Trung Quốc”. Trong đó, các tác giả công trình đã làm nổi bật tư tưởng
của Đặng Tiểu Bình về những vấn đề rất cơ bản, như nhân tài là then chốt của

phát triển; đường lối tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; tư tưởng chiến
lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về tuyển chọn nhân tài ưu tú; về sử
dụng và bố trí nhân tài; về tạo môi trường cho nhân tài phát triển; về cải cách
chế độ nhân sự trong việc sử dụng nhân tài… Với những nội dung trên, cuốn
sách đã phác họa bức tranh mang tính tổng thể về tư tưởng của Đặng Tiểu Bình
cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó trong chiến lược xây dựng nhân tài ở
Trung Quốc. Đây là công trình có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực
hiện chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói
riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Lương Dụ Giai “Quản lý học nguồn nhân tài”[138], đã đề cập đến tư
tưởng về nguồn nhân lực chất lượng cao “nhân tài” và vấn đề về con người.


22
Theo tác giả, kể từ khi giới học giả Trung Quốc đề xuất ngành nghiên cứu
“Nhân tài học”, thì cơ sở lý luận và hệ thống lý luận của họ không ngừng được
bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Cùng với quan điểm “Nhân tài là nguồn lực
hàng đầu” được khái quát thành phương châm chỉ đạo chiến lược phát triển nhân
tài ở Trung Quốc. Đặc biệt, sau công bố về “Cương lĩnh xây dựng quy hoạch
đội ngũ nhân tài toàn quốc 2001 - 2005”, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc
vụ viện đã đưa ra “Quyết định về tăng cường một bước công tác nhân tài”, đã
thể hiện rõ phương châm, chính sách, mục tiêu của công tác phát triển nhân tài.
Đây được coi là cuốn sách lý luận cơ bản, tiêu biểu về quản lý học nguồn nhân
tài. Đồng thời, là cuốn sách giới thiệu những nội dung phong phú về chiến lược
cường quốc nhân tài, và về thực tiễn nghiên cứu, quản lý nguồn nhân lực ở
Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Vương Huy Diệu “Chiến lược Quốc gia: Nhân tài cải biến thế giới”[136].
“Chiến tranh nhân tài” [137]. Phan Thần Quang “Báo cáo phát triển nhân tài
Trung Quốc” [141], đã đề xuất chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao (nhân tài) ở Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

Tác giả Nguyễn Văn Khánh “Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước” [57], đã phân tích nguồn lực trí tuệ
Việt Nam với nhiều góc độ; đánh giá thực trạng nguồn lực trí tuệ, chỉ rõ hạn chế,
bất cập về trình độ chuyên môn, khả năng hội nhập, về cơ cấu của nguồn lực trí tuệ
ở nước ta; đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Tác giả Tạ Ngọc Tấn “Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực, nhân tài, một số kinh nghiệm của thế giới” [108], đã phân tích những
vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực, nhân tài và phát triển đào tạo nguồn
nhân lực, nhân tài của một số nước trên thế giới, rút ra những kinh
nghiệm bổ ích đối với Việt Nam trong thực hiện đổi mới căn bản, toàn


23
diện giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Tác giả Phạm Minh Hạc “Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [33], đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn thực
hiện chiến lược con người với tư tưởng coi nhân tố con người, phát triển con
người, nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tạo vật chất
và tinh thần. Qua đó, tác giả trình bày mối quan hệ giữa giáo dục và đào tạo, sử
dụng, tạo việc làm với phát triển nguồn nhân lực đất nước. Từ đó, xác định trách
nhiệm quản lý giáo dục và đào tạo đối với việc phát triển nguồn nhân lực phục
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tác giả Lương Đình Hải “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong
điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [40], đã nghiên cứu các
vấn đề cơ bản và khá toàn diện về con người, về nguồn nhân lực; phân tích, làm
rõ khái niệm, những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực;
những vấn đề cơ bản về giáo dục và đào tạo, quản lý nguồn nhân lực ở Việt
Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua đó, tác giả

kiến nghị một số vấn đề cơ bản để phát triển văn hóa, xây dựng con người, phát
triển nguồn nhân lực trong những thập kỷ tiếp theo của thế kỷ XXI.
Tác giả Nguyễn Đắc Hưng “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”
[51], đã bàn đến lực lượng “đầu tàu” trong nguồn nhân lực chất lượng cao; trình
bày một số khái niệm cơ bản như: tiềm năng, năng lực, năng khiếu, tài năng, nhân
tài, quản lý nhân tài; chỉ ra một số kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc Việt Nam và ở
một số nước trên thế giới về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển
nhân tài. Qua đó, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm của Đảng, về trí
thức và nhân tài; chỉ ra những yếu tố tác động trực tiếp đến phát triển nhân tài,
những nội dung cơ bản về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển
nhân tài. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và thu hút nhân tài.


24
Tác giả Nguyễn An Ninh “Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt
Nam” [80], đã góp phần luận giải tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam, một bộ
phận quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao của nước nhà; phân tích những vấn
đề lý luận, thực tiễn liên quan đến trí thức khoa học xã hội Việt Nam, với tư cách là
nguồn nhân lực quan trọng trong nguồn nhân lực đất nước. Tác giả xác định các vấn đề
cơ bản về cơ chế, chính sách, chế độ về giáo dục và đào tạo để phát huy tiềm năng trí
thức khoa học xã hội Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tác giả Phạm Thành Nghị “Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [83], đã đề cập đến những
vấn đề lý luận cơ bản của nguồn nhân lực và quản lý nguồn nhân lực; phân tích
hiệu quả quản lý nguồn nhân lực và những yếu tố tác động đến quản lý nguồn nhân
lực nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tác giả Phạm Minh Hạc “Phát triển con người, nguồn nhân lực - quan
niệm và chính sách, trong tình hình hiện nay” [38], đã trình bày một số vấn đề lý
luận về phát triển con người; đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực, nhân tài, đội

ngũ người lao động; phân tích thực trạng và đề xuất một số biện pháp phát triển
nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tác giả Trần Khánh Đức “Giáo dục và đào tạo: phát triển nguồn nhân
lực trong thế kỷ XXI” [31], đã đề cập và phân tích khá sâu sắc tình hình giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực; vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển
nguồn nhân lực nước ta trong thế kỷ XXI. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, đổi
mới giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước trong thế kỷ XXI.
Tác giả Lương Công Lý “Giáo dục và đào tạo với việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [68], đã lý giải rõ hơn vai trò của
giáo dục và đào tạo đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam hiện nay. Từ những thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra từ thực trạng,


25
đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của giáo dục và
đào tạo đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Những công trình khoa học tiêu biểu bàn về mối quan hệ giữa đào
tạo nguồn nhân lực và phát triển kinh tế tri thức
Stivastava M/PHuman resource planning “Aproach needs assessments
and priorities in manpower planing” [144], đã tiếp cận dưới góc độ kinh tế phát
triển và cho rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn nhân lực; vốn nhân lực là con
người được nhìn nhận dưới dạng một nguồn vốn đặc biệt của quá trình sản xuất,
là một dạng của cải có thể làm gia tăng sự giàu có của kinh tế; nguồn vốn nhân
lực bao gồm những kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm mà người đó tích luỹ được
nhờ quá trình lao động sản xuất; các chi phí về giáo dục, đào tạo, y tế... được
xem như là những chi phí đầu vào của sản xuất nhằm nâng cao, năng lực sản
xuất của nguồn nhân lực. Từ cách tiếp cận như vậy, tác giả đã chỉ ra các lợi ích
thiết thực của nguồn nhân lực nếu chúng ta biết đầu tư và quý trọng nó, đó là:
1) Vốn nhân lực là loại vốn đặc biệt, có khả năng sản sinh ra các nguồn

thu nhập trong tương lai, cho nên đầu tư vào nguồn nhân lực sẽ có tỷ lệ thu hồi
vốn cao, hơn nữa khi nguồn vốn này càng được sử dụng nhiều thì giá trị gia
tăng càng lớn, càng tạo ra nhiều của cải, mang đến sự phồn vinh, thịnh vượng
cho xã hội.
2) Khác với các nguồn vốn khác, vốn, nhân lực không mang đặc điểm
như các nguồn vốn: khấu hao vốn đã đầu tư vào các tài sản và loại hình. Vốn
nhân lực sau khi đã đầu tư thì nó sẽ tự duy trì và phát triển mà không tạo ra
áp lực về khối lượng vốn cần huy động trong khoảng thời gian ngắn; là loại
vốn có kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo cao. Do đó, nếu
đầu tư vào vốn nhân lực thì hiệu ứng lan toả sẽ rất lớn mà không có nguồn vốn
nào có thể sánh kịp.
Rosemary Harrison, với cuốn “Human Resoruce Development in a
Knowledge Economy” (Sự phát triển của nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri


26
thức) [143], đã đưa ra phương pháp nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong nền kinh tế tri thức. Trong đó, tác giả nhấn mạnh việc kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển với quản lý nguồn nhân lực một cách đồng bộ và hiệu
quả. Đặc biệt, tác giả đã đối chiếu và so sánh nhiều quan điểm khác nhau về
quản lý và phát triển nguồn nhân lực trên thế giới hiện nay như một số nước ở
châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ, làm cơ sở cho việc đưa ra một số quan điểm phát
triển và quản lý nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức của thế giới những
năm trước đây, hiện nay và thời gian tới.
Nguyễn Văn Khánh “Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển
vọng” [58], đã trình bày khái niệm nguồn lực trí tuệ, phát huy nguồn lực trí tuệ;
kinh nghiệm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ một số nước trên thế giới và
Việt Nam. Tác giả đã đánh giá thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam trên các lĩnh
vực; phân tích những yếu tố tác động đến sử dụng nguồn lực trí tuệ, chỉ ra những
thuận lợi, khó khăn và triển vọng phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam hiện nay.

Tác giả Đường Vinh Sường “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [105], đã phân tích vai trò của
nguồn nhân lực chất lượng cao; đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và nguồn nhân
lực chất lượng cao ở nước ta; phân tích một số hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực
nước ta so với một số nước khác trong khu vực và thế giới; đưa ra những giải pháp
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Tác giả Lê Quang Hùng “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung” [50], đã tiếp cận dưới góc độ kinh tế, việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; đánh giá thực
trạng, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao nơi đây. Qua đó, đề xuất một số yêu cầu, giải pháp phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm ở miền Trung, đặc biệt
nhấn mạnh đến phát triển giáo dục và đào tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ.


×