Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIEU LUAN VE PP DAY TAP DOC LOP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.61 KB, 16 trang )

A/ PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn tiếng việt trong nhà trường phổ thông trong đó có phân môn “tâp đọc” bao
gồm: nghe, nói, đọc, viết, nó đảm bảo cho việc học sinh đọc và cung cấp những kiến
thức mới lạ cũng như các phân môn khác, nó được đề cập một đối tượng gần gũi và gắn
bó với cuộc sống hàng ngày với học sinh, vì thế môn tập đọc góp phần đắc lực vào việc
thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở bậc tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình.
Việc giảng dạy bộ môn tập đọc trong nhả trường nhằm tạo cho các em năng lực sử dụng
Tiếng việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập phát triển các kỹ năng đọc và nghe
cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học để phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu
biết của học học sinh về cuộc sống cụ thể. Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn
đạt. Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống cung cấp mẫu để
hình thành một số kĩ năng để phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân như
điền vào các tờ khai ( đơn giản), làm đơn, viết thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu
hoạt động của lớp.
Vì vậy phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học nói chung và phương pháp dạy tập đọc ở
lớp 3 nói riêng đều mang tính tổng hợp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là người giáo
viên phải hình thành được kỹ năng đọc cho học sinh, đó là một trong những kỹ năng cơ
bản nhất. Yêu cầu một học sinh đọc có chất lượng tốt là phải đọc đúng, ngắt nghỉ đúng,
đọc nhẩm, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa đồng đều,
một số đọc còn yếu, một số giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho học sinh tiểu
học, chưa tìm ra biện pháp dạy môn tập đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nguyên nhân
của đọc yếu và đọc chưa tốt của học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng
dạy của giao viên, ngôn ngữ địa phương, do tài liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung
chung, chưa đi sâu vào nội dung bài, cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế.
Do vậy giờ dạy chưa đạy kết quả cao, dẫn đến học tốt môn tập đọc còn hạn chế.
Trước những vấn đề trên tôi đã quyết định chọn đề tài “ Phương pháp dạy Tiếng
Việt ở bậc tiểu học qua phân môn tập đọc lớp 3” để giúp các em học tốt, có khả năng
giao tiếp tốt, viết được bài văn hay, có cảm nhận về văn học, yêu thích môn Tiếng Việt.
II/ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:


Đề tài được thực hiện khảo sát trên đối tượng học sinh lớp 3 trường Tiểu học Quảng
Liên, huyện Quảng Trạch. Đây là một trường đóng trên địa bàn xã miền núi, đa số dân


cư thuộc khu vực này là dân bản địa nên đa số đều nói tiếng địa phương nên đa số các
em học sinh ở đây đều nói và đọc theo tiếng địa phương của mình.
Tổng số học sinh: 18 em. Trong đó: Nam: 12; Nữ: 6.
* Kết quả khảo sát môn Tiếng việt đầu năm như sau:
Tổng số
HS
18

Giỏi

Khá

5 ( 27,78 %) 5 ( 27,78%)

Trung bình

Yếu

4 ( 22,22%)

4 ( 22,22%)

III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Để thực hiện có kết quả đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Thu thập các tài liệu như: sách tham khảo, các tập san báo giáo dục thời đại, giờ dạy
mẫu trên Ti vi, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy tiếng việt lớp 3.

- Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn về nội dung và
cấu trúc.
- Phương pháp trao đổi với giáo viên và gia đình học sinh.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi và phương pháp kiểm tra đánh
giá.
IV/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Vì thời gian và trình độ của bản thân có hạn nên đề tài sáng kiến kinh nghiệm chỉ hướng
tới nhiệm vụ trọng tâm: nhắc lại các phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói
chung và phương pháp dạy phân môn tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời đề xuất những
biện pháp cụ thể ở một số bài học cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập đọc học sinh
lớp 3.
B /NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Mục đích tác dụng của phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói
chung và phương pháp giảng dạy môn tập đọc ở lớp 3 nói riêng.
Mục đích dạy môn tập đọc:
Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là phân
môn thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
môn học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở mức đầy
đủ và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc đúng, đọc nhanh,
đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành cho trẻ
thói quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo khoa. Qua đó


nhà trường là thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua đọc giúp các em
thích đọc và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc sống và phát triển trí tuệ văn
minh. Qua đó giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của
các em.

II. Phân tích tài liệu dạy học.
1- Quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới.
Dựa theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm phân tích và quan điểm tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh.
* Quan điểm giao tiếp.
Để thực hiện mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng
tiếng việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi”. Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định
hướng cơ bản.
Có thể hiểu giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhằm
thiết lập quan hệ, sự hiểu biết và sự cộng tác giữa các thành viên trong xã hội. Người ta
giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện thông thường và quan
trọng nhất là ngôn ngữ. Vì hành động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mã nhận
thông tin và ký mã phát thông tin, trong ngôn ngữ mỗi hành vi đều có thể thực hiện
bằng hai hình thức là khẩu ngữ nghe, nói và bút ngữ đọc viết.
Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện, nội dung và
phương pháp dạy học. Về nội dung thông qua phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả,
luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn. Tiếng việt lớp 3 tạo ra những môi trường giao tiếp
có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những kiến thức nền
tảng và phát triển các kỹ năng tiếng việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các
kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với
những giao tiếp tự nhiên.
* Quan điểm tích hợp.
Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm trí một tiíet học hay một bài
tập nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo
dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. có thể thực hiện tích hợp theo chiều
ngang và chiều dọc. Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp tiếng việt với các mảng kiến
thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích
hợp này được sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 thực hiện thông qua các chủ điểm học tập.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ

và câu, tập làm văn trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xoay quanh trục
chủ điểm và các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng
gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.
Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng đã học
trước đó theo nguyên tắc đồng tâm đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc, cụ thể là kiến
thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kỹ năng của lớp dưới,
bậc học dưới nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kỹ năng ở lớp dưới.


Dĩ nhiên trong tích hợp vẫn có điểm nhấn, không nắm được điểm nhấn này giáo
viên hiểu lệch yêu cầu tích hợp, dẫn tới sa đà. Ví dụ: bây giờ tập đọc thành giờ dạy đạo
đức hay luyện từ và câu…Để nắm vững trọng tâm của mỗi tiết học, bài học, giáo viên
cần đọc kỹ phần mục đích, yêu cầu của mỗi tiết học, mỗi bài học nêu trong sách giáo
viên.
* Quan điểm tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình và sách giáo
khoa lần này là đổi mới phương pháp dạy và học. Chuyển từ phương pháp truyền thụ
sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó thầy cô đóng vai trò
người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh
đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Để theo phương pháp tích cực hóa các hoạt động của học sinh, sách giáo khoa
Tiếng việt không trình bày kiến thức như là những kết quả sẵn có mà xây dựng hệ thống
câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức
và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng việt, sách giáo khoa Tiếng việt 3 hướng dẫn giáo
viên cách thức cụ thể tổ chức các hoạt động này.
2. Nội dung sách giáo khoa Tiếng việt 3.
a. Các đơn vị học.
Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với
một chủ điểm, học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học trong 3 tuần, cả
năm học 35 tuần. Cụ thể như sau:

Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường học);
Cộng đồng ( sống với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung – Nam (các
vùng miền trên đất nước ta); Anh em một nhà (các dân tộc anh em trên đất nước ta);
Thành thị - Nông thôn.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa học,tri thức);
Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số vấn đề toàn cầu như
hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời và mặt đất (các hiện tượng
thiên nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ trụ).
b. Các phân môn.
Môn tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe và nói. Bên cạnh đó thông qua
hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài
đọc; phân môn tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và
con người, cung cấp vốn từ, vốn, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học, đề
tài, cốt chuyện, nhân vật…góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.
- Phân môn Kể chuyện: Rèn luyện kỹ năng nói, nghe.
- Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con
đường quy nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, nói, viết.
- Phân môn tập làm văn: Rèn luyện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
c. Cấu trúc của một đơn vị học:
Trong một tuần học gồm:


- Tập đọc, kể chuyện ( 2 tiết ).
- Chính tả.
- Tập đọc (1 tiết): 1 bài thơ, hoặc một bài văn thông thường.
- Luyện TVC: 1 tiết.
- Tập viết (1 tiết).
- Tập làm văn ( 1tiết).
* Ưu điểm sách giáo khoa:
Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình độ của

học sinh. sách giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu trúc rõ ràng
nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân môn trong tiếng việt, tạo ra tính tổng
hợp, tính thống nhất của các phân môn. Nội dung sách giáo khoa cũng thể hiện được
yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo một hệ
thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện rất rõ tính khoa học của sách.
* Hạn chế của sách giáo khoa:
Một số kiến thức còn trìu tượng, tranh ảnh trong sách phục vụ bài còn sơ sài.
Phần hướng dẫn tìm hiểu bài ở sách giáo khoa là những câu hỏi, mà câu hỏi lại mang
tính khái quát trìu tượng, làm cho học sinh khó hiểu ngay. Đồng thời câu hỏi chỉ yêu
cầu học sinh dùng một phương thức hành động duy nhất là “ dùng lời”. Điều này có
những hạn chế số lượng học sinh làm việc trên lớp còn ít, tại vì tại thời điểm đó chỉ có
một em trả lời câu hỏi, các em khác chỉ được nghe, giáo viên hầu như không kiểm soát
được hết lớp, các em đã nghe và hiểu nội dung như câu hỏi các em đã trả lời. Chính vì
thế giờ dạy tập đọc chưa thực sự tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh. Tất
cả những điếu đó đều tác động vào làm hạn chế trong giờ dạy tập đọc, chất lượng thấp
hơn giờ toán.
* Khắc phục hạn chế này:

- Một số kiến thức trìu tượng này theo tôi, giáo viên nên cho tất cả học sinh đều
được hoạt động tự khám phá bằng cách giáo viên gợi mở cho học sinh hoạt động theo
nhóm để hiểu được hình thức trìu tượng đó.
- Với phần câu hỏi trìu tượng, giáo viên chia câu hỏi ra thành nhiều câu hỏi nhỏ
và cũng cho học sinh hoạt động theo nhóm, rồi giáo viên chốt ý bằng câu hỏi trìu tượng
trong sách.
III. Phương pháp dạy học môn tiếng việt nói chung và phương pháp dạy
môn tập đọc lớp 3 mới nói riêng.
1. Phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 mới:
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung
đòi hỏi một phương pháp thích hợp các kỹ năng giao tiếp không thể được hình thành và
phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kỹ năng này, học

sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của người thầy.
Các kỹ năng về ngôn ngữ, văn hóa, tự nhiên và xã hội đều có thể được tiếp thu qua lời
giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh


chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy những tư tưởng tình
cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện
thực tế. Đó là những lý do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương
pháp tích cực hóa của người học.
- Tích cực hóa họat động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy
người học làm trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò người tổ chức hoạt động của
học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và
được phát triển.
Hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp dạy mới. Trong môn
tiếng việt, hoạt động của học sinh có thể là hoạt động giao tiếp là đặc thù của môn tiếng
việt, hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết như ở các môn học khác. Cả hai
loại hoạt động trên có thể được ttổ chức theo nhiều hình thức khác nhau:
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập đề ra
rất cụ thể, học sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi, bài tập
tương đối trìu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định và trong trường hợp nếu
làm việc chung theo đơn vị lớp sẽ có ít học sinh được hoạt động thì làm việc theo nhóm
là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu
trong trường hợp giáo viên thực hiện các khâu: giới thiệu bài, củng cố bài, nêu những
câu hỏi không yêu cầu phải suy nghĩ lâu hoặc để học sinh trình bày kết quả làm việc.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về phần
giáo viên chủ yếu là:
- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho học

sinh làm mẫu một phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.
- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh có hiểu
việc phải làm không? và trả lời thắc mắc của học sinh.
- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:
Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong
nhóm, báo cáo trước lớp.
Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng con, bằng bảng trên lớp, bằng
phiếu học, bằng giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.
- Tổ chức đánh giá.
Các hình thức đánh giá:
+ Tự đánh giá.
+ Đánh giá nhóm.
+ Đánh giá trên lớp.
Các biện pháp đánh giá như: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.
2. Phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp 3 mới.
* Nội dung dạy học:


- Rèn luyện kỹ năng đọc: Rèn luyện năng đọc thành tiếng và đọc thầm thông qua
93 bài tập đọc thuộc các loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật, văn bản hành
chính, văn bản báo chí vv… Trong đó có 30 bài thơ từ 4 - 5 đến 7 tiếng, thơ lục bát, thơ
tự do, 63 bài văn xuôi, chuyện, văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản
thông thường.
Rèn kĩ đọc hiểu văn bản thông qua phần hướng dẫn văn bản sư phạm cuối bài
tập đọc chú thích và giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài, giúp học sinh nắm
được ý chính của đoạn, tập nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật, chi tiết trong bài tập
đọc.
Kết hợp rèn kỹ năng nghe, nói.
Qua việc hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài, giáo viên giúp các em
có cơ hội rèn luyện kỹ năng nghe nói, nghe giáo viên và các bạn đọc, nghe giáo viên

hướng dẫn bài học hoặc các bạn trả lời câu hỏi, nói trước lớp hoặc trao đổi với bạn bè
về nội dung bài học.
Cung cấp và mở rộng vốn sống.
Các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 phản ánh nhiều lĩnh vực
khác nhau là gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh em
trên đất nước ta đến hoạt động các văn hóa giáo dục, khoa học, thể thao và các vấn đề
lớn của xã hội như bảo vệ hòa bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân
tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ.
Thông qua hệ thống bài tập đọc qua chủ điểm và các lĩnh vực khác nhau qua
những câu hỏi, bài tập khai thác nội dung bài, phân môn tập đọc còn cung cấp cho học
sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt,
những hiểu biết về tác phẩm văn học như đề tài, cốt truyện, nhân vật, qua đó rèn luyện
nhân cách cho học sinh.
* Phương pháp tập đọc.
1- Phương pháp đàm thoại :
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ ở lứa tuổi tiểu học, các em thích hoạt
động và hoạt động bằng lời nói, giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, học
sinh tự trả lời toát ra nội dung bài, muốn đọc diễn cảm được bài thì trước hết phải cảm
thụ được bài văn, phải tái hiện được các nhân vật có hình tượng đẹp, hoặc nhân vật, nội
dung chính trong bài. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn các em bằng câu hỏi dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ trả lời.
2- Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Giáo
viên có thể dùng nhiều hình thức trực quan: trực quan bằng lời nói, trực quan bằng dáng
điệu, trực quan bằng nét mặt, trực quan bằng các động tác hình mẫu, trực quan bằng vật
thực, trực quan bằng tranh ảnh, trực quan bằng băng hình.
- Trong đó trực quan bằng giọng điệu của giáo viên là hình thức trực quan sinh
động và có hiệu quả cao nhất có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc, mỗi bài thơ,
bài văn viết ở thể loại khác nhau, nên mỗi bài có giọng đọc khác nhau, có bài giọng
nghiêm trang, trầm lắng, có bài giọng đọc tình cảm, âu yếm, có bài đọc với giọng phấn

khởi, náo nức. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại, ngữ điệu, tránh đọc một cách đều
đều. Khi đọc phải biểu hiện tình cảm qua ánh mắt, nụ cười.
- Trực quan bằng dáng điệu: Giáo viên thể hiện được dáng điệu đúng nội dung
bài học, giúp học sinh hiểu và dễ nhớ.


- Trực quan bằng nét mặt: Nét mặt giáo viên bộc lộ vui buồn theo giọng đọc và
theo nội dung bài.
- Trực quan bằng vật thực: Khi giảng giáo viên dùng vật thực để học sinh minh
họa theo bài.
- Trực quan bằng tranh ảnh: Giáo viên đưa tranh ảnh mẫu phù hợp với nội dung
bài.
- Trực quan bằng băng hình: Giáo viên cho học sinh nghe giọng đọc của học
sinh đọc, có thể cho học sinh luyện đọc theo.
3- Phương pháp luyện đọc thực hành:
Là phương pháp chủ yếu trong giờ tập đọc. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
học sinh được rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo về đọc, có thể đọc đồng thanh, đọc cá nhân,
đọc nhóm để phát hiện từ quan trọng, những hình ảnh tiêu biểu, làm các bài tập để xác
định cách đọc và trhông hiểu về nội dung, nắm ý chính. Thông qua đọc đoạn, nắm được
mục đích đọc chủ yếu, đọc cá nhân, trả lời câu hỏi để thấy được kết quả ngay tại lớp.
4- Phương pháp trò chơi:
Đây là một phương pháp mới giúp cho học sinh có hứng thú khi đọc bài. trong
cuối mỗi tiết tập đọc giáo viên tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức chơi trò chơi
bằng cách: thi đọc phân vai theo nhân vật; thi đọc diễn cảm một đoạn văn hoặc một
đoạn thơ. Trước khi học sinh tham gia trò chơi thi đọc giáo viên đưa ra tiêu chuẩn đánh
giá để giúp học sinh nắm được cách chơi, luật chơi, cách nhận xét đánh giá cho điểm để
tạo cho học sinh tham gia chơi một cách tích cực, vui vẻ, bổ xung cho giờ học đạt hiệu
quả cao.
Tóm lại: Muốn để phân môn tập đọc đạt kết quả cao, thì người giáo viên phải
kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp trên thì giờ dạy mới không ngắt quãng,

gián đoạn. Người giáo viên phải luôn biết lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của người
giáo viên trong tiết học chỉ là người hướng dẫn, tổ chức tiết học sao cho phù hợp với đối
tượng của học sinh mình, giúp học sinh tìm ra cách đọc tốt nhất, đọc hiểu nội dung
trong bài tập đọc trong giờ tập đọc.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng nhà trường và địa phương.
Trường Tiểu học Quảng Liên đóng trên địa bàn xã Quảng Liên. Đây là một trường
đóng trên địa bàn xã miền núi, đa số dân cư thuộc khu vực này là dân bản địa nên đa số
đều nói tiếng địa phương nên đa số các em học sinh ở đây đều nói và đọc theo tiếng địa
phương của mình.
2. Điều tra khảo sát lớp 3.
Lớp 3 có 18 học sinh, trong đó nam: 12; nữ: 6; 17 em. Vào đầu năm học nhà trường tiến
hành kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh. Qua khảo sát chất lượng học sinh cho thấy:
số học sinh đọc được lưu loát chỉ có 4 em, 5 học sinh đọc được nhưng chậm, còn lại số
học sinh khi đọc còn đánh vần…80% số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng


khi cần thiết, đọc chưa biết ngắt nghỉ câu, nhất là đọc các câu thơ. Ví dụ: ngọng phụ âm
đầu: ch/tr; r/gi/d hoặc vần: ương/ ươi; an/at; các dấu sắc, ngã vv…và hầu như các em
không hiểu nội dung bài.
3. Dự giờ của giáo viên.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một số đồng nghiệp
khác dạy phân môn tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện đủ các bước lên lớp,
nhưng phần luyện đọc chưa thích đáng, chưa đưa ra được phương pháp cách đọc cho
học sinh, chủ yếu là quam tâm đến đọc đúng câu, đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi
nhận xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và
thể hiện cách đọc bài văn, bài thơ này cần đọc như thế nào? tại sao phải đọc như vậy?
hoặc giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của bài để khi đọc
phô diễn nội dung bài đọc. Chính vì những thiếu xót trên mà giờ học chưa đạt kết quả
cao, học sinh chưa đọc được tốt.

Chương III: NHỮNG GIẢI PHÁP.
1. Nhu cầu đổi mới phương pháp nói chung.
Thực tế dạy học đòi hỏi phải đổi mới theo xu hướng chung của Việt Nam và thế giới
trong mục đích đào tạo con người. Nhu cầu đổi mới ấy được đặt ra rất cấp thiết trong
các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Trường tiểu học phải rèn luyện
tính cách cơ bản cho trẻ.Vì vậy đòi hỏi phải dạy học theo hướng tích cực hóa này, đó là
dạy tập trung vào người học. Vì nền kinh tế, văn hóa xã hội đang đổi mới từng giờ, từng
ngày, nên đòi con người phải năng động, sáng tạo, do đó mục tiêu đào tạo phải đồng
thời đổi mới về phương pháp giảng dạy.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và
cũng là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục có chất lượng ở tiểu học, điều đó cũng đòi
hỏi phải nâng cao trình độ của giáo viên.
2. Vấn đề nâng cao trình độ của giáo viên.
Trong thời kỳ giáo dục đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải đạt
một trình độ chuẩn về nhận thức văn hóa và phương pháp thì mới có thể có những câu
hỏi xác đáng, dễ hiểu, phải kết hợp hài hòa giữa hỏi và giảng. Giáo viên cần hiểu rõ
mục đích của bài giảng thì mới có thể xây dựng được phương pháp đúng.
3. Biện pháp dạy học chủ yếu của phân môn tập đọc đã ứng dụng trong thực tế và
có hiệu quả.
- Đối với học sinh vùng miền núi, dân tộc ít người, biện pháp dạy tập trung cần thực
hiện yêu cầu tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc từ 60-> 70 tiếng/ phút,
nắm được ý cơ bản của bài học, để đạt được yêu cầu này giáo viên cần chú trọng hình
thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn học sinh kết hợp hình thức đọc theo nhóm để
học sinh tham gia nhiều lần đọc trong một tiết học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không
khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh còn rụt rè vào hoạt động học, đảm bảo toàn bộ học
sinh được tham gia luyện đọc và đọc được càng nhiều càng tốt, giáo viên hạn chế đọc
phân vai, đọc thầm.
Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó chưa gần gũi với học sinh
dân tộc. Tận dụng tối đa tranh minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên cần giải nghĩa
một cách cụ thể để học sinh dễ nhận biết, cũng vì vốn từ tiếng việt của các em còn hạn

chế, giáo viên cần phải chú ý ghi rõ lên bảng các từ khó khi phát âm để học sinh theo


dõi một số câu hỏi khó giáo viên chia nhỏ và gợi mở cho học sinh, dành nhiều thời gian
vào đọc rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” tuần 13, giáo viên cần tập trung
cho học sinh học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 và 4 dễ ngắt hơi.
Những học sinh khá giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ biểu cảm. Để tăng thời
gian cho việc đọc rõ ràng, mạch lạc giáo viên phải giảm bớt phần tìm nội dung bài,
những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2 câu hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng
Kông Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh theo dõi sách giáo khoa và nên gọi học
sinh đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng Kông Hoa một ảnh Bác Hồ vác cuốc đi làm
rẫy…cho Núp”. Khi xem những vật đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu cầu học
sinh đọc đoạn: “ Khi xem những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem đó
là những vật tặng thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng thứ,
coi đi coi lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những câu hỏi
khác được giáo viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích… Đó cũng chính là những kinh
nghiệm của tôi dạy môn tập đọc mới lớp 3 đối với vùng miền núi. Còn những biện pháp
dạy học chủ yếu vẫn là theo mục đích đề ra. Đó là:
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học sinh
nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình dạy học.
- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần nâng
cao về ý thức viết đúng cho học sinh.
Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Giáo viên phải xác định những từ ngữ trong bài
cần tìm hiểu, đó là những từ ngữ chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà
học sinh chưa quen, vì từ ngữ đóng vai trò quan trọng để học sinh hiểu nội dung bài
đọc, nên giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại phần giải nghĩa trong sách giáo khoa hoặc
giáo viên dùng đồ dùng dạy học như: tranh, ảnh,vật thật, mô hình để giải nghĩa từ giúp
học sinh hiểu hơn, song không nên giải nghĩa quá nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp
kồng kềnh làm cho giờ tập đọc thiên về học từ ngữ một cách nặng nề.

- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Giáo viên căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa để hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nội dung bài, có thể nêu nguyên văn hoặc gợi dẫn bằng 1,2 câu hỏi phụ để
học sinh dễ trả lời, tùy thuộc vào học sinh trong lớp, tránh đặt thêm câu hỏi khai thác
nội dung một cách quá yêu cầu bài học và không phù hợp với trình độ học sinh lớp 3.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc thầm và trả lời
đúng nội dung, đôi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh
khác đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận những vấn đề giáo viên nêu ra.
Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh
luyện tập một cách tích cực như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp để trả lời.
Trong quá trình trả lời câu hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả lời ngắn gọn,
diễn đạt lưu loát, sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại ý chính.
4. Những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng học sinh cần đạt được khi học môn tập
đọc.
- Trau dồi về kiến thức văn học.
- Yêu cầu kĩ năng khi học môn tập đọc.


- Môn tập đọc là môn thực hành tiếng việt, do vậy khi dạy môn tập đọc cần rèn
cho học sinh 4 kỹ năng đọc như sau:
+ Đọc đúng.
+ Đọc nhanh.
+ Đọc thầm, đọc hiểu.
+ Đọc diễn cảm.
5. Các biện pháp thực hiện.
Để thực hiện được tốt 4 kỹ năng trên, người giáo viên cần phải có những biện
pháp thực hiện như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Mọi sự thành công trong tiết học
phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bài dạy tùy từng nội dung của từng bài, từng
tiết học. Do đó giáo viên cần thiết kế giáo án cho phù hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả
cao.

Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ, những kinh nghiệm đã từng vận
dụng xen lẫn vào các tiết dạy.
a. Luyện đọc đúng.
Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần , tiếng, đọc
đúng phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng chính âm.
Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao
gồm đọc đúng, thanh, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ( đọc đúng ngữ điệu). Luyện đọc đúng
phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng việt. Học sinh trường tôi
thường khi đọc hoàn toàn đọc sai thanh ngã, thanh sắc, vần ương -> ươc, an -> at, ot
->on, là do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Như vậy cần luyện cho học sinh cách
đọc như sau.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có dấu ngã, có ý thức phân biệt sai nghĩa của từ,
nếu như sai dấu thanh; Không đọc “ cây sứa”, “ giá gạo”, “ em bé ngá” mà phải đọc “
cây sữa”, “giã gạo”, “ em bé ngã”. Khi học sinh đọc sai giáo viên cần hướng dẫn các em
đọc phát âm những tiến từ có dấu ngã là: luồng hơi bật ra, lưỡi chạm nhẹ vào hàm trên,
độ mở của miệng rộng để hơi thoát ra ngoài.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có vần an/at, ương/ ươc, ot/on, anh/ang khi học
sinh phát âm sai do ảnh hưởng của phương ngữ, giáo viên nên phát âm mẫu chuẩn cho
học sinh đọc theo, nếu học sinh nào yếu thì giáo viên nên đánh vần những vần đọc sai
đó. Ví dụ: vần ương trong từ “ Phú Thượng” học sinh thường đọc và viết là “ Phú
thược”, “ Đồng Lạn” đọc là “ Đồng Lạt”… giáo viên yêu cầu đánh vần ương, ươc, an, at
để học sinh phân biệt và khắc sâu dẫn đền việc đọc đúng.
- Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng ngữ điệu của câu cần phải dựa
vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi cho đúng, khi đọc
không được tách một từ ra làm hai.Ví dụ: Trời thu bận xanh; không ngắt hơi: Trời / thu
bận xanh.


Không tách với danh từ đi sau. Ví dụ không đọc: trăm cô/ gái tựa/ tiên sa, mà
đọc: trăm cô gái / tựa tiên sa.

Dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp sẽ giúp các em xác định cách ngắt nhịp
đúng các câu: “Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải/ rất đẹp”. “ Bãi biển cửa Tùng như một
chiếc lược đồi mồi / cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển”.
Không đọc: “Cảnh bên bờ sông Bến / Hải rất đẹp”.
“Bãi biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi / mồi cài vào mái / tóc bạch kim của
sóng biển”.
Với cách dạy như trên số học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt.
b. Luyện đọc nhanh.
Đọc nhanh còn gọi đọc lưu loát, đọc trôi chảy, biện pháp đọc nhanh giáo viên
hướng dẫn cho học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm, từ, câu,
đoạn bài. Giáo viên cần điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách soạn
sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính trong bao nhiêu phút, định tốc độ như thế nào
còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
c. Luyện đọc thầm, đọc hiểu.
Đây là kỹ năng được chuyển từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đọc mấy
máy môi đến đọc bằng mắt, không mấp máy môi. Giáo viên phải tổ chức quá trình từ
ngoài vào trong, cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách xác định đọc
thầm cho học sinh từng đoạn, khi học sinh đọc thầm giáo viên cũng phải đọc thầm theo
để đề phòng hoặc phát hiện những học sinh không đọc thầm mà đã giơ tay ( nếu thấy
học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả cô), giáo viên đưa ra câu hỏi từ đoạn đó. Nếu
thấy học sinh lúng túng thì có nghĩa là em đó không đọc bàì.
Ví dụ: Bài “ Đôi bạn”, giáo viên đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc quá
nhanh thì giáo viên đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp nào?).
Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm hiểu nội
dung bài. Giờ tập đọc cũng kiểm tra như vậy, từ đó giúp các em tích cực tự giác học tập.
Đối với học sinh yếu, tôi luôn động viên, khuyến khích các em đó gây được phong trào
đọc thầm cho học sinh.
d. Luyện đọc diễn cảm.
- Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc của bài đọc, đọc
diễn cảm không những đạt được yêu cầu đọc đúng mà còn kèm theo cử chỉ, lời nói để

góp phần diễn tả nội dung bài.
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy để đọc được diễn cảm người giáo viên
cần chuẩn bị các bước sau:
+ Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kỹ bài để thể hiện được ngữ
điệu đọc, cường độ đọc bài đó ra sao? đọc cao giọng, nhấn giọng ở những từ nào? nét
mặt vui, buồn thể hiện ở những từ ngữ nào trong bài.


+ Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao cho phù
hợp với nội dung bài đọc đó. Khi đến lớp giáo viên hướng dẫn học sinh có thể tiếp thu
nhanh cách đọc đúng và đọc diễn cảm.
Ví dụ: bài “Cuộc chạy đua trong rừng” ( tuần 28 – sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 tập
2). Đọc toàn bài chú ý giọng đọc của mỗi đoạn.
của ngựa con khi soi bóng mình dưới nước: “ sửa soạn”, “ mải mê”, “ chải chuốt”,…
Đoạn 2: Giọng đọc âu yếm, ân cần đối với ngựa cha, ngựa con tự tin, ngúng ngẩy: “ cha
yên tâm”, “ chắc chắn”, “ sẽ thắng”.
Đoạn 3: Giọng đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ tả muông thú chuẩn bị cuộc đua: “
sốt ruột”, “ ngắm nghiá”, “ giữ trật tự”, “ ung dung”.
Đoạn 4: Giọng đọc nhanh, hồi hộp, đoạn cuối đọc chậm thể hiện sự nuối tiếc vì chủ
quan của ngựa con.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thực cho giờ học, bảng phụ
ghi câu văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh.
Đối với bài tập có lời đối thoại, giáo viên nên xây dựng màn kịch ngắn với nội dung của
bài, học sinh sắm các vai nhân vật đó để đọc bài.
Ví dụ bài: “Cuốn sổ tay” của nhân vật trong chuyện rất phù hợp với lứa tuổi các em, sôi
nổi, hào hứng, hồn nhiên, các em sắm vai :(Thanh, Tuấn, Lân, Tùng). Lời nói của người
dẫn chuyện giọng điệu hồn nhiên, giọng của Lân có vẻ ngại ngần, giọng của Thanh quả
quyết, dứt khoát, hào hứng; giọng của Tùng vẻ thách thức, dí dỏm và rất tự tin…
Sau đó giáo viên gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc bài,
như vậy tất cả học sinh trên lớp đều làm việc, được luyện nói và được thể hiện nét mặt

thông qua các nhân vật mà mình nhập vai. Qua các giờ học như vậy, học sinh sẽ tiến bộ
dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân mình, tạo ra tiết học đạt kết quả cao.
e. Luyện đọc thuộc lòng.
Ở những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, giáo viên chú ý kết hợp luyện
đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp đọc đồng thanh
theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh.
Giáo viên cần biết nghe khi học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp với
từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ chưa được
của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm để tự tin và đọc tốt hơn. Bên cạnh luyện đọc
thành tiếng giáo viên giúp học sinh luyện đọc kỹ hơn, có thể kết hợp hướng dẫn học
sinh vừa ghi nhớ nội dung bài, vừa dựa vào một số từ ngữ trên bảng làm điểm tựa để
học thuộc toàn bài. Khi đọc cá nhân hoặc đọc đồng thanh phải đọc nhịp nhàng, vừa
phải, gây hứng thú cho học sinh.
Phần ghi bảng: Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn, xúc tích đảm bảo
tính khoa học và tính sư phạm, hình thức trình bày mang tính thẩm mỹ có tác dụng giáo
dục học sinh, Việc ghi bảng cần kết hợp nhịp nhàng với tiến trình của tiết dạy nhằm
đem lại hiệu quả trực quan cao nhất.


g. Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực.
Theo tôi, đây là một biện pháp mới, rất có ý nghĩa trong các giờ học đối với
vùng miền núi, dân tộc ít người. Ở đây học sinh thường đi học theo cảm tính, thích đi
thì đi, không thích thì nghỉ, học sinh chưa thấy được mục đích và nhiệm vụ phải đi học
đều, đầy đủ, hơn nữa ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu động, nếu giờ học chỉ đọc và
trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú học tập, không khích lệ được học sinh
yếu vươn lên, không tạo được môi trường thân thiện để các em thích đến học . Chính vì
vậy trong giờ học giáo viên cần kết hợp cho học sinh tham gia các trò chơi học tập
mang tính chất hòa đồng thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Nếu là bài học có
hội thoại thì giáo viên cùng sắm vai với học sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn.
Còn đối với các thể loại khác, giáo viên tổ chức trò chơi đọc truyền điệu. Giáo viên đọc

câu 1, gọi một em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như
vậy lần lượt đọc hết bài. Với phương pháp này học sinh tham gia đọc được nhiều, các
em lại chú ý vào bài đọc một cách vui vẻ, nếu không chú ý không đọc được. Khi đọc
truyền điệu của các em rất chăm chú và trật tự, nên giờ học đạt kết quả cao, các em
thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo được môi trường thân thiện, học sinh
tích cực.
Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ thi nhau đọc hay, đọc lưu
loát, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc yếu, giờ đã đọc tốt
hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các môn học khác. Ngoài ra tôi còn tổ chức
cho các em học nhóm ở gia đình, giao nhiệm vụ cho em đọc tốt kèm cặp bạn đọc yếu ở
tại địa phương vào ngày nghỉ, giúp các em được giao lưu học hỏi nhiều hơn.
f. Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp.
Ngoài những biện pháp mà tôi đã áp dụng ở trên, tôi đều tham gia và đề nghị
chuyên môn nhà trường tích cực tổ chức dự giờ thăm lớp để học hỏi và rút kinh nghiệm
cho mỗi tiết học, đồng thời tôi thường xuyên dự các giờ dạy của đồng ngiệp để học hỏi
những kinh nghiệm, những phương dạy hay nhất, hiệu qủa nhất.
h. Kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
Thời gian các em học tập ở trường tuy nhiều , nhưng các em không đủ học phân
môn tập đọc, mà còn phải học các môn khác. Vì vậy về nhà các em phải có thời gian
học tập. Đối với học sinh yếu cha mẹ chưa quan tâm nhiều đến các em. Chính vì vậy tôi
đã sử dụng biện pháp là: đến thăm gia đình học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống sinh
hoạt cũng như văn hóa trong gia đình, kiểm tra góc học tập của các em, tiếp xúc với gia
đình và tâm sự với phụ huynh học sinh về sự cần thiết của việc học tập và nhất là môn
tập đọc, yêu cầu gia đình tạo điều kiện và kèm cặp thêm những lúc các em học ở nhà.
Tổ chức các cuộc họp phụ huynh giữa nhà trường và gia đình để thông báo và đề ra
những biện pháp học tập cụ thể cho từng em, từng đối tượng học sinh.
Các giờ học trên lớp, tôi thường xuyên gọi các em đọc yếu, đọc chậm để đọc bài
rồi uốn nắn, sửa chữa những câu, từ do học sinh đọc sai, sửa ngay tại lớp. Mặt khác giáo
viên đưa bài tập về nhà, đến lớp phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét, ghi điểm. Ngoài
ra tôi còn kết hơp một số biện pháp khác như: ghi sổ liên lạc đều đặn và gửi đến gia

đình kịp thời theo quy định hoặc đột xuất những hôm các em đọc yếu, hoặc học giảm
xút đi.


C. KẾT LUẬN
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và phân môn tập đọc nói riêng, đó là
vấn đề đòi hỏi Nhà giáo phải luôn quan tâm. Như Bác Hồ đã dạy: “Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai được với các cường quốc
năm châu hay không, chính là nhờ công học tập của các cháu”.
Các Nhà giáo chúng ta là những người trực tiếp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, hơn bao
giờ hết, chúng ta có trách nhiệm ươm hạt nảy mầm từ những phương pháp dạy tập đọc
cho học sinh.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy phương pháp dạy phân môn tập
đọc là hết sức cần thiết và quan trọng. Trong giờ tập đọc cần xác định đúng mục đích
của việc dùng những câu hỏi tìm hiểu bài để từ đó có những biện pháp cụ thể nâng cao
hiệu quả đọc.
Trong quá trình chuẩn bị lên lớp giáo viên phải là người phát hiện ra những giá trị nội
dung, giá trị nghệ thuật. Khi giảng giáo viên cần chú ý đến nội dung của bài tập đọc,
giáo viên phải phát âm chuẩn, đúng ngữ điệu, giọng đọc truyền cảm. Mặt khác giáo viên
phải tự tìm tòi, sáng tạo, có những biện pháp thích hợp, đồng thời phải là người gần gũi,
thân thiện với các em để các em lấy đó làm niềm tin trong giờ học, có như vậy kết quả
mới được nâng cao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy Tiếng việt ở tiểu học của Bộ GD& ĐT.
2. Hướng dẫn giảng dạy nghiên cứu bộ sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3.
3. Thiết kế bài giảng Tiếng việt 3.
4. Một số tập san, chuyên đề báo GD& Thời đại.
5. Tìm hiểu qua một số băng hình dạy mẫu.
6. Sách tham khảo gồm:

- Để học tốt môn Tiếng việt 3 của Nhà xuất bản Đà Nẵng.
- Bồi dưỡng Văn - Tiếng Việt tiểu học 3 của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 3 của Bộ GD&ĐT.




×