Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIỮ VỮNG và TĂNG CƯỜNG sự LÃNH đạo của ĐẢNG đối với QUÕN đội TRONG điều KIỆN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.62 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

3

1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt
Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt - một số vấn đề lý luận va

3

thực tiễn
2. Một số giải pháp cơ bản tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội

13

nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22



2
MỞ ĐẦU

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc căn bản, một quy luật trong sự
nghiệp xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, đồng thời đó là
nguồn sức mạnh chủ yếu, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong chiến đấu,
xây dựng và trưởng thành của quân đội ta.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối cảnh tình
hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp, cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go phức tạp, chứa đựng nhiều nhân tố bất ổn
khó lường. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 nhấn mạnh bối cảnh
quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn;
nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vu
trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vu trang, hoạt động can thiệp, lật
đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh khổ, biển, dảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết
liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cung tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định”1.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược
“diễn biến hoà bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo
của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang tìm mọi
cách để “phi chính trị hoá” quân đội; chia rẽ quân đội với Đảng, với nhân dân;
làm cho quân đội xa rời bản chất giai cấp công nhân phai nhạt mục tiêu lý

tưởng chiến đấu...
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: Nxb Chính trị quốc
gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.67.
1


3
Trong khi đó nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có
yêu cầu và nội dung mới và để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm
vụ, quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc Đại hội XI tiếp tục chỉ rõ: “Xây dựng
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và
nhân dân, được dân tin yêu”2. Qua đó càng khẳng định tính tất yếu khách
quan Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt
Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Trong bài thu hoạch này, tác giả xin luận giải một số vấn đề cơ bản
xung quanh nguyên tắc: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội trong điều kiện hiện nay.

NỘI DUNG
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: Nxb Chính trị quốc
gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.82
2


4
1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt - một số vấn đề lý luận va thực tiễn

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, lịch sử xã hội loài người
từ khi phân chia thành giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai
cấp thực chất là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức bóc lột chống lại
giai cấp thống trị áp bức bóc lột nhằm giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế.
Đấu tranh giai cấp phát triển từ thấp đến cao, đến một trình độ nhất định thì
chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, đặt ra vấn đề giành và
giữ chính quyền. Giai cấp nào muốn giành và giữ chính quyền phải tổ chức ra
chính đảng lãnh đạo và giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng. Bạo lực
cách mạng gồm có lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, với hai hình thức
đấu tranh là đấu tranh chính trị và đấu tranh vu trang và sự kết hợp giữa hai
hình thức đấu tranh đó. Để tiến hành đấu tranh vu trang giai cấp và chính
đảng của nó nhất thiết phải tổ chức ra lực lượng vu trang làm nòng cốt và lãnh
đạo lực lượng vu trang đó, dùng nó làm công cụ để giành và giữ chính quyền.
Khi xác định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ cho giai cấp công nhân con đường đúng đắn nhất để tự
giải phóng mình là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Để thực hiện sứ mệnh
đó, giai cấp vô sản phải tổ chức ra chính đảng của giai cápa dưới sự lãnh đạo
của chính đảng cách mạng của giai cấp mình - Đảng Cộng sản, giai cấp công
nhân phải liên minh chặt chẽ với giai cấp, tầng lớp khác, dùng bạo lực cách
mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, lập nên nhà nước chuyên
chính vô sản và dùng nhà nước đó làm công cụ để bảo vệ quyền thống trị của
mình đối với toàn bộ xã hội. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Giai cấp vô sản không tự giấu giếm ý định của
mình, họ công khai tuyên bố rằng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực cách mạng, lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện thời - “giai
cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật đổ giai cấp tư sản
bằng bạo lực”. Bởi vì, theo các ông, để củng cố, giữ vững địa vị thống trị của



5
mình, tiến hành chiến tranh xâm lược, giai cấp tư sản đã xây dựng một bộ
máy khổng lồ bao gồm quân đội, cảnh sát, nhà tù..., muốn đập tan bộ máy ấy,
giai cấp công nhân không còn cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng
để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen trong khi nhấn mạnh vai trò của bạo
lực cách mạng, các ông cung đề cập đến khả năng giành chính quyền bằng
phương pháp hoà bình, nhưng đây là một khả năng rất quý và hiếm, nó chỉ
xuất hiện khi có các điều kiện khác kèm theo. Vì vậy, để thực hiện nhiệm vụ
đó, giai cấp vô sản phải có lực lượng vu trang của mình, lãnh đạo lực lượng
đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị và bảo vệ
thành quả cách mạng. Trong thư gửi “Đồng minh những người cộng sản”,
C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “công nhân phải được vu trang có tổ chức,
cần phải trang bị súng trường, cạcbin, đại bác và đạn dược”, rằng “công nhân
cần phải tổ chức thành những đội quân vô sản độc lập”. Như vậy, quan điểm
của các ông là trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
cùng với việc sử dụng bạo lực chính trị, tất yếu phải sử dụng bạo lực vu trang,
phải tổ chức ra lực lượng vu trang.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều
kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ chủ nghĩa
đế quốc, giai cấp tư sản đã trở nên phản động, hiếu chiến, xâm lược.
V.I.Lênin đã phân tích một cách sâu sắc tính tất yếu khách quan của việc xây
dựng một tổ chức quân sự của giai cấp vô sản, bởi vì không có bạo lực cách
mạng thì giai cấp vô sản không thể chiến thắng được kẻ thù, đồng thời Người
chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 3. Xem xét về
vấn đề chiến tranh và quân đội, V.I.Lênin chỉ ra rằng: Chiến tranh là sự kế tục
của chính trị bằng thủ đoạn khác, thủ đoạn bạo lực. Trong mối quan hệ giữa
chiến tranh và chính trị: chính trị là mục đích, chiến tranh là công cụ, để đạt
được mục đích chính trị thì giai cấp, nhà nước phải có công cụ mạnh, công cụ
mạnh đó là quân đội. Quân đội bao giờ cung là quân đội của một giai cấp,

3

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.53.


6
một nhà nước nhất định, do một giai cấp, một nhà nước tổ chức ra, nuôi
dưỡng và sử dụng nó vào mục đích chính trị. Sức mạnh của nhà nước trước
hết biểu hiện ở sức mạnh của quân đội. Do đó, bao giờ quân đội cung phải đặt
dưới sự lãnh đạo của giai cấp, của nhà nước nhất định, bản chất giai cấp quân
đội mang bản chất của giai cấp đã sinh ra nó. Không có quân đội của nhiều
giai cấp, siêu giai cấp, phi giai cấp. Bản chất giâi cấp của quân đội tư sản
mang bản chất của giai cấp tư sản. Để tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong,
lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
Đồng thời, V.I.Lênin đã xây dựng hoàn chỉnh học thuyết về quân đội
kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong học thuyết của mình, V.I.Lênin đã giải
quyết thành công hàng loạt vấn đề về nguyên tắc xây dựng một quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản. Đó là nguyên tắc chính trị - xã hội, nguyên tắc tổ
chức và nguyên tắc huấn luyện - giáo dục. Vấn đề căn bản nhất trong những
nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản
lãnh đạo chặt chẽ quân đội về mọi mặt, là đặt quân đội dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong mọi tình huống. Theo V.I.Lênin, sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là tất yếu khách quan, là một quy luật nhằm làm cho Hồng quân
tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, giữ vững bản chất
giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Đây là tiêu chí để phân biệt quân đội kiểu cu với quân đội
kiểu mới, quân đội cách mạng với quân đội phản cách mạng.
Trung thành và vận dung đúng đắn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về bạo lực cách mạng và những nguyên tắc về xây dựng quân

đội kiểu mới của giai cấp vô sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam, kế thừa và phát triển kinh nghiệm truyền thống “dựng nước phải đi đôi
với giữ nước” qua mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam và kinh nghiệm của
nhiều nước trên thế giới, cung như kinh nghiệm của bản thân với tinh thần
cách mạng triệt để của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh đã sớm thấy rõ con
đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Người


7
kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình;
“Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”4.
Khi đã tìm thấy con đường cứu nước, xác định được đường lối cách
mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Người đã chủ động tập trung vào
việc xây dựng lực lượng cho cách mạng, trước hết là lực lượng chính trị và
từng bước xây dựng lực lượng vu trang, chuẩn bị cho việc tiến hành cách
mạng bạo lực ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lực lượng để tiến hành cách mạng
bạo lực không phải chỉ là lực lượng vu trang, phương thức tiến hành cách
mạng bạo lực không phải chỉ là đấu tranh quân sự. Người đã chỉ rõ: cách
mạng bạo lực bao giờ cung phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị
của toàn dân và lực lượng vu trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là
cơ sở để xây dựng lực lượng vu trang. Phương thức tiến hành cách mạng bạo
lực phải vừa là đấu tranh chính trị, vừa là đấu tranh quân sự, phải kết hợp hai
phương thức ấy cho phù hợp với tình hình từng nơi, từng lúc để giành thắng
lợi.
Khi đã có chính quyền thì khẩn trương phát triển lực lượng, chuẩn bị
mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù bằng bạo lực cách mạng để giữ
vững chính quyền. Khi buộc phải kháng chiến thì kiên quyết động viên toàn

dân đứng lên chiến đấu, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 5. “Hễ còn một tên xâm
lược trên đất nước ta, thì còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”6.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, trong Chánh cương
vắn tắt của Đảng (tháng 2 năm 1930), Nguyễn Ái Quốc đã đề xuất việc: “Tổ
chức ra quân đội công nông” và tiếp sau đó là Luận cương Chính trị của Đảng
(tháng 10 năm 1930) đã nêu vấn đề “vu trang cho công nông”, “lập quân đội
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, Hà nội, 2000, tr.304.
S.đ.d, Tập 4, tr.480.
6 S.đ.d, Tập 12, tr.407.
4
5


8
công nông”, “tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng
năm 1935, Đảng đã ra Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường trực,
đã chỉ rõ: công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất
của Trung ương, quân uỷ Đảng Cộng sản... luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy
nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho rằng, việc tổ chức ra quân
đội để tiến hành đấu tranh cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt nam, cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng
cách mạng, Đảng rất coi trọng xây dựng lực lượng quân sự và giữ quyền lãnh
đạo chặt chẽ quân sự trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Không những tổ chức ra
quân đội, Đảng còn xác định sự tất yếu phải lãnh đạo quan đội đó. Quyền lãnh
đạo quân đội thuộc về đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, không
phân quyền lãnh đạo đó cho một giai cấp nào, một tổ chức, một đảng phái nào
khác. Trong điều kiện lịch sử nhất định, về sách lược, có thể có sự liên hiệp
nhất định trong mặt trận, trong chính quyền, nhưng quân đội là lực lượng vu

trang của Đảng, công cụ chủ yếu của Nhà nước chuyên chính vô sản, thì Đảng
phải nắm quyền lãnh đạo. Có như vậy thì sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội mới vững chắc và thích hợp với tính chất, đặc điểm của quân đội. Chính
nhờ nắm chắc và lãnh đạo chặt chẽ quân đội mà Đảng đã phát huy được sức
mạnh của quân đội, làm cho bản chất giai cấp của quân đội luôn mang bản
chất giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân
dân, không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng và lãnh đạo quân đội
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo quân đội của các Đảng
cộng sản thế giới đã chỉ rõ: bất kỳ ở đâu, trong tình huống nào Đảng Cộng sản
phải thường xuyên nắm chắc và giữ vai trò lãnh đạo đối với quân đội thì quân
đội mới luôn là lực lượng trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nếu
khi nào Đảng Cộng sản buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quan đội,
lập tức quân đội xa rời mục tiêu chiến đấu, bị mất phương hướng chiến đấu,


9
dẫn đến biến chất và bị kẻ thù vô hiệu hoá, trở thành lực lượng đối trọng của
giai cấp, của nhà nước đã tổ chức ra nó. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam
gần 70 năm qua đã khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp,
sâu sắc và mau lẹ, đang đặt ra yêu cầu cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, chúng ta không một phút lơ là đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hội
nghị Trung ương 8, Khóa IX của Đảng nêu rõ: “Một là, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh khổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới,

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa;
sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất
nước theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa”7. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng ta đã xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động đấu tranh và làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta”8.
Và gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về
chiến lực bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã tiếp tục khẳng định và chỉ rõ
hơn về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình hình mới. Tăng
cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
là lực lượng nồng cốt. Do đó, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng Quân đội
nhân dân: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tuyệt đối
7
8

Tài liệu học tập Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 8, Khóa X, Nxb CTQG, H, 2003, tr.45- 46.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.44-45.


10
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; nâng cao chất
lượng tổng hợp, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
Thực trạng nhận thức, trách nhiệm của một số tổ chức đảng và đảng
viên cung như cơ chế tổ chức thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực

tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội còn những vấn đề bất cập; chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang ráo riết
thực hiện sự chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới
bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Chúng coi Việt Nam
là một trọng điểm cần phải tập trung chống phá nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của
Đảng đối với cách mạng nước ta, tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một trong những âm mưu thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” là
“phi chính trị hoá quân đội”, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm
cho quân đội phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, xa rời mục tiêu lý tưởng
chiến đấu, mất phương hướng chính trị, quân đội không còn là công cụ bạo
lực sắc bén, lực lượng tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội suy yếu, dao động về
mặt tư tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ... thì không thể giành thắng
lợi ở Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, vì vậy chúng đưa ra
những luận điệu xuyên tạc, phản động như “quân đội là của chung dân tộc,
làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ chế độ”, “quân
đội mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất của giai cấp công
nhân”... thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, vô
hiệu hoá quân đội, nhằm thực hiện âm mưu thâm độc của chúng như đã từng
diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô trước đây. Từ tình
hình thực tiễn trên đây đòi hỏi chúng ta phải bình tĩnh, sáng suốt và nhạy bén
xử trí có hiệu quả các tình huống xảy ra, phải kiên định những vấn đề có tính
nguyên tắc về chiến lược, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lược.
Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng nhằm đập tan những luận
điệu xuyên tạc và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù.


11
Một trong những biện pháp quan trọng đó là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu phát triển lý luận để bảo vệ và làm phong phú thêm kho tàng lý

luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời phải coi việc thường xuyên giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một tất yếu
khách quan trong tình hình hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, không những tổ chức ra Quân đội nhân dân
Việt Nam, mà còn lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, xây dựng quân
đội thực sự là quân đội cách mạng của giai cấp công nhân, “từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, mang bản chất của giai cấp công nhân. Trải
qua gần 70 năm xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, quân đội ta đã làm nên truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của
mình, đó là “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cung hoàn thành,
khó khăn nào cung vượt qua, kẻ thù nào cung đánh thắng”.
Để thực hiện sự lãnh đạo đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng ta
đã định ra nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối
trực tiếp về mọi mặt. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các
nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Nguyên
tắc này chi phối đến quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của quân đội,
chi phối các nguyên tắc khác, nó quyết định đến phương hướng chính trị, bản
chất giai cấp công nhân, nội dung phương thức hoạt động, mục tiêu chiến đấu,
đối tượng tác chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng, giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, xác định rõ chức năng chính trị
xã hội cho quân đội, bảo đảm cho Đảng luôn nắm chắc quân đội, lãnh đạo
chặt chẽ quân đội trong mọi tình huống, làm cho quân đội tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội “từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, luôn có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến
thắng mọi kẻ thù.


12

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng và đặc điểm về tổ
chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, trong từng giai đoạn cụ
thể của cách mạng, tên gọi của nguyên tắc có khác nhau, nhưng tư tưởng cơ
bản, xuyên suốt của nguyên tắc là, Đảng ta khẳng định dứt khoát quyền lãnh
đạo quân đội là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh đạo
đó không chia sẻ cho bất cứ một đảng phái nào, một tổ chức nào, một cá nhân
nào. Sự lãnh đạo đó là lãnh đạo trực tiếp không thông qua một khâu trung
gian nào, một tổ chức trung gian nào. Đồng thời sự lãnh đạo đó trên tất cả các
lĩnh vực hoạt động chính trị, tư tưởng, tổ chức; trên tất cả các mặt công tác:
quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các nhiệm vụ chiến đấu,
huấn luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm nghĩa vụ quốc tế; lãnh đạo
mọi tổ chức, mọi lực lượng của quân đội trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Ở
đâu và lúc nào có tổ chức và hoạt động của quân đội là ở đó có sự lãnh đạo
của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thể hiện bằng cơ chế,
tổ chức, bộ máy lãnh đạo đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; sự lãnh
đạo đó tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường
xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội
được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
- Đảng lãnh đạo định ra đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vu trang nhân dân và tiến hành
chiến tranh nhân dân.
- Lãnh đạo nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự và
nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Lãnh đạo xây dựng trang bị vật chất kỹ thuật và tổ chức nuôi dưỡng
bộ đội.
- Lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.
- Lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.



13
Để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với quân đội, Đảng đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo
đối với quân đội cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách
mạng. Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phương thức lãnh đạo
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn
cách mạng, được thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo, phù hợp với
nguyên tắc đó là hệ thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý, được tổ chức từ cơ sở
đến toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng lãnh đạo chặt chẽ quân đội, phát huy
cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, nâng cao năng lực của các tổ chức
đảng và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho
quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
2. Một số giải pháp cơ bản tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội trong điều kiện hiện nay, cần tiến hành đồng bộ
một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong tình hình mới
Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng
thể cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc, chế độ qui định hoạt động của hệ thống
ấy để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống. Đổi mới, hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực chất là tiến hành những bổ sung,
điều chỉnh, thay đổi cần thiết, hợp qui luật để tối ưu hoá việc tổ chức thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trên cơ sở nhận thức đầy đủ, đúng
đắn qui luật khách quan và thực tiễn của hoạt động lãnh đạo; phát hiện ra và
khắc phục cho được những bất cập nảy sinh trong quá trình tổ chức thực hiện

sự lãnh đạo để giữ vững và tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với


14
quân đội, tránh chủ quan, bảo thủ,chống ách tắc, trì trệ dẫn đến làm suy giảm
hiệu lực lãnh đạo.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo quân đội, ngay từ những
ngày đầu tổ chức ra quân đội, Đảng ta đã xác định cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội, và trong suốt tiến trình lịch sử, cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội không ngừng được đổi mới, bổ sung và hoàn thiện như:
ngày 15-12-1982, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 07-NQ/TƯ “đổi mới, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đói với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự
nghiệp quốc phòng và chế độ một người chỉ huy trong quân đội”. Ngày 4-71985, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết số 27- NQ/TW về “Tiếp tục kiện
toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự
nghiệp quốc phòng”. Quá trình thực hiện cơ chế 27 đã tạo nên những chuyển
biến mới, tích cực trong xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan chính trị, xây
dựng đội ngu cán bộ, xây dựng các tổ chức quần chúng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở... tạo nên sức sống và sinh lực mới, thiết thực góp phần giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta phù hợp với
đặc điểm tình hình mới. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cung cho thấy một số
vấn đề về chất lượng và hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị còn hạn
chế, chưa đáp ứng dược sự phát triển của tình hình; đội ngu cán bộ chính trị,
nhất là ở cơ sở còn mỏngvà chưa thật ổn định; chất lượng cán bộ trên một số
mặt còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội trong thời
kỳ mới và nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đã có sự phát triển mới, ngày 20-7-2005 Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 51
NQ/TƯ Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế
độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong
Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm không ngừng nâng cao chất lượng xây

dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công
tác chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyêỵ đối, về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, triệt để khắc phục những bất cập nảy sinh trong quá


15
trình thực hiện cơ chế 27. Nghị quyết 51/NQ-TƯ của Bộ Chính trị đã xác
định rõ ràng, cụ thể quyền và nguyên tắc lãnh đạo quân đội của Đảng; nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức đảng trong quân đội; xác định
chế độ công tác Đảng, công tác chính trị và xác lập bộ máy công tác đảng,
công tác chính trị; nguyên tắc thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với
thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Đây chính là bước
phát triển mới, hợp quy luật tiến trình đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội.
Quán triệt sâu sắc và triệt để Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị về tiếp
tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình mới
là trách nhiệm chính trị của các tổ chức, các lực lượng và mọi cán bộ, đảng
viên. Trong quá trình triển khai thực tổ chức hiện Nghị quyết, phải làm cho
mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người, trước hết là lãnh đạo, chỉ huy các cấp
nhận thức sâu sắc và thống nhất quan điểm, tư tưởng cơ bản của Nghị quyết,
thấy rõ tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội trong tình hình mới. Trên cơ sở đó nêu cao trách nhiệm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết theo chức trách, nhiệm vụ trông quyền hạn được
giao.
Hai là, Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh
trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, nâng cao chất
lượng hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị.
Đảng lãnh đạo quân đội thông qua hệ thống tổ chức đảng và thông qua
đội ngu cán bộ, đảng viên của Đảng trong quân đội, thông qua việc tiến hành
công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. Vì vậy, để tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thì một vấn hết sức quan trọng, có ý
nghĩa quyết định trực tiếp là phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ
quân đội trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động công tác
Đảng, công tác chính trị. Kẻ thù xác định muốn “phi chính trị hoá quân đội”,
tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, trước hết phải làm suy yếu Đảng
bộ quân đội. Tuy nhiên chúng thực hiện được ý đồ đó hay không lại do nội bộ


16
đảng bộ quân đội quyết định. Từ trước đén nay, Đảng luôn quan tâm chăm lo
xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh trong sạch, đó là nguyên nhân quan
trọng làm cho quân đội có đủ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược, là bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng đối
với quan đội. Thực tiễn chứng minh, ở đâu và khi nào tổ chức đảng không
mạnh thì ở đó đơn vị hoàn thành nhiệm vụ thấp, thậm chí không hoàn thành
nhiệm vụ, có khi phải trả giá đắt bằng máu và sinh mệnh của cán bộ, chiến sỹ.
Bản chất công tác Đảng, công tác chính trị là hoạt động lãnh đạo của
Đảng trong quân đội. Muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội không thể không nâng cao chất lượng hoạt động công tác Đảng, công tác
chính trị. Trước hết, phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả tư tưởng,
củng cố vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng của Đangnr trong quân đội, bảo
đảm cho quân đội luôn tuỵet đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân
dân, kiên định với mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu
“phi chính trị hoá quân đội” của kẻ thù. Hơn lúc nào hết, quân đội phải thực
sự trở thành pháo đài kiên cố trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vức chính
trị tư tưởng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng phải giáo dục, xây dựng
cho quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trong bất kỳ

hoàn cảnh nào, làm cho quân đội thực sự tinh nhuệ về chính trị.
Sắp xếp, kiện toàn các tổ chức cho phù hợp với thế trận quốc phòng
toàn dân trong điều kiện mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm cho các tổ
chức đảng quán triệt sâu sắc đường lối, nghị quyết của Đảng, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của từng đơn vị để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh
đạo sát đúng, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ được giao. Đổi mới quy trình
ra nghị quyết, bảo đảm nghị quyết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Thực hiện tốt các nguyên tắc, nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nhất là nguyên


17
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi phân công cá nhân phụ trách,
đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
khoá XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; tiếp tục quán
triệt và thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 317 của Quân ủy
Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đẩy mạnh công tác phát
triển đảng, nâng dần tỉ lệ chi bộ ở đại đội có cấp uỷ. Nâng tỉ lệ tổ chức đảng
trong sạch vững mạnh thực chất, có biện pháp khắc phục làm giảm tỉ lệ tổ
chức đảng yếu kém, nhất là các tổ chức đảng yếu kém kéo dài.
Tập trung nâng cao chất lượng đội ngu đảng viên, trước hết là nâng cao
vai trò tiền phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Làm tốt công tác quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên, khắc phục cho được sự suy thoái về chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kết hợp chặt chẽ
xây dựng đội ngu cán bộ với xây dựng đội ngu đảng viên. Xây dựng đội ngu
cán bộ có đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý,
nhất là cán bộ chủ chốt. Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, kiên quyết
xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, kịp thời đưa ra khỏi Đảng

những đảng viên thoái hoá, biến chất, không đủ tư cách đảng viên. Bảo đảm
cho tổ chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo
chính trị, trung tâm đoàn kết nội bộ, đơn vị.
Xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động đúng chức
năng, đẩy mạnh công tác thi đua - khen thưởng, xây dựng môi trường văn
hoá, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương xây dựng địa bàn an toàn, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi đóng quân.
Ba là, Xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp
vững mạnh.
Cơ quan chính trị, đội ngu cán bộ chính trị là người đảm nhiệm chủ trì
công tác Đảng, công tác chính trị ở đơn vị. Chất lượng chính trị của quân đội,


18
của đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của cơ
quan chính trị và cán bộ chính trị. Đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ, người chỉ huy các cấp có đến được với
mọi cán bộ chiến sỹ hay không, có biến thành hành động cách mạng của cán
bộ chiến sỹ và được thực hiện đầy đủ trong thực tế hay không phần lớn là do
cơ quan chính trị và cán bộ chính trị. Đây là những cán bộ, đảng viên của
Đảng hoạt động trong lĩnh vực quân sự, những người đem tiếng nói của Đảng
đến với quần chúng, đồng thời phản ánh cho Đảng nắm được tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của quần chúng, để Đảng đề ra chủ trương, chính sách cho
phù hợp. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị là cầu nối liền Đảng với quần
chúng, là người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận chính trị tư tưởng đấu tranh
chống “diễn biến hoà bình” của kẻ địch, chống những nhận thức lệch lạc,
quan điểm sai trái, biểu hiện tiêu cực phát sinh trong nội bộ, bảo vệ cái đúng,
phê phán cái sai. Xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội ngu cán bộ
chính trị có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đủ phẩm chất và năng lực cần

thiết đáp ứng yêu cầu hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị là biện
pháp quan trọng nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội.
Để xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, trước hết phải củng cố, kiện
toàn đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Lựa chọn người đứng đầu cơ quan
có đủ các tiêu chuẩn cần thiết, coi trọng bản lĩnh chính trị, lòng trung thành,
thực sự gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, có nhãn quan chính trị
nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt trong xử lý các tình huống chính trị. Lựa chọn,
bồi dưỡng, sử dụng đội ngu trợ lý, nhân viên cơ quan chính trị có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của từng ngành
trong cơ quan chính trị và sự phối hợp hoạt động của cơ quan chính trị với các
cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt chế độ công tác của cơ quan chính trị. Làm tốt
công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện và sử dụng đội ngu cán bộ
chính trị một cách đúng đắn và khoa học, kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng tập
trung tại các Học viện, nhà trường với bồi dưỡng, rèn luyện tại đơn vị, cơ


19
quan công tác. Cấp trên bồi dưỡng, hướng dẫn cấp dưới, cấp dưới học tập cấp
trên. Gắn lý luận với thực tiễn công tác, thực hiện nhiệm vụ theo cương vị,
chức trách được phân công, chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực thực
hành công tác Đảng, công tác chính trị cho đội ngu cán bộ chính trị các cấp,
nhất là cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở.
Bốn là, Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của các ban, ngành ở trung ương và địa phương về kiến thức quốc phòng,
xây dựng quân đội.
Sức mạnh lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng còn thể hiện ở vai trò tiên phong của đội ngu cán bộ chủ
chốt, ở trong quân đội cung như ở các ban, ngành của Trung ương và địa
phương trong việc chủ động, sáng tạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, xây

dựng quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn mới. Cung như đội
ngu cán bộ, lãnh đạo chủ chốt trong quân đội hiện nay và trong thời gian tới,
số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở trung ương và địa phương đều
trưởng thành chủ yếu trong điều kiện thời bình, trong đó có khá nhiều cán bộ
chưa có thời gian phục vụ trong quân đội, nên kiến thức về quốc phòng, kinh
nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quân đội còn nhiều hạn chế. Trong khi
đó, số cán bộ đã trải qua chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh
chính trị lại giảm mạnh. Bởi vậy, việc chăm lo bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng cho đội ngu cán bộ nói trên là hết sức cần thiết bảo đảm nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng trong điều
kiện mới, thực sự là lượng nòng cốt vững chắc để xây dựng nquân đội nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại bảo đảm cho quân
đội tiến nhanh, tiến chắc luôn hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây là góp phần thiết thực vào
việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình
hình hiện nay. Thực tiễn luôn thay đổi, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, nhiệm
vụ của quân đội có bước phát triển mới trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã


20
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đất nước ta đang có những thời cơ và vận
hội mới, đồng thời đứng trước những thách thức lớn cần phải vượt qua. Đòi
hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa cả về lý luận và thực tiễn về
sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc nói chung và
đối với quân đội nói riêng, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội trong điều kiện mới. Phải khẳng định cho được vấn đề
có tính nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân,
trong đó có nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật, bài

học kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng và kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Trên cơ
sở đó, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của quân đội trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, cung như trong công cuộc
xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay, góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh, đập tan và làm thất bại
những luận điệu xuyên tạc, phản động và mọi âm mưu thủ đoạn chống phá sự
lãnh đạo của Đảng của kẻ thù, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi
tình huống.


21

KẾT LUẬN

Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân
đội ta đã chứng minh rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam là một nguyên lý cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân là nhân tố đảm bảo cho quân đội ta thật sự là quân đội
cách mạng, của dân, do dân và chiến đấu vì nhân dân, mang bản chất giai cấp
công nhân. Trong quá trình lãnh đạo quân đội, Đảng ta đã để lại rất nhiều bài
học kinh nghiệm, mà giá trị của chúng vẫn còn đang có ý nghĩa quan trọng
trong chỉ đạo xây dựng quân đội ta hiện nay. Để tiếp tục củng cố và tăng
cường bản chất cách mạng cho quân đội ta trong giai đoạn hiện nay, một mặt
phải lấy sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thông qua thực hiện đồng bộ
các giải pháp chính trị tư tưởng và tổ chức, mà then chốt là xây dựng Đảng bộ
quân đội trong sạch vững mạnh làm cơ sở cho quân đội hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ. Mặt khác phải tích cực tiến công về chính trị, làm thất bại mọi

âm mưu của các thế lực thù địch hòng làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội; kiên quyết đấu tranh và khắc phụcvới những nhận thức lệch lạc
hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bởi sự lãnh đạo đạo của
Đảng không chỉ là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, mà còn quyết định
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng: Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2011.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12 Nxb CTQG, Hà nội, 2000.
3. Tài liệu học tập Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 8, Khóa X,
Nxb CTQG, H, 2003.
4. V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
5. S.đ.d, Tập 12.
6. S.đ.d, Tập 4.



×