Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN một số nội DUNG cơ bản TRONG tư TƯỞNG TRIẾT học hồ CHÍ MINH về văn hóa ý NGHĨA của vấn đề TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.98 KB, 24 trang )

3
MỞ ĐẦU
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi”1. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con
người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân… trong đó, Người còn là
nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ
thiên tài, Người còn là nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hoá luôn chiếm một vị
trí quan trọng, đó là một kho tàng quí báu của dân tộc. Những quan điểm tư
tưởng của Người về văn hoá, là một yếu tố cấu thành nền tảng tinh thần xã
hội, là cơ sở lý luận kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách
xây dựng và phát triển văn hoá mới của đất nước qua các thời kỳ cách mạng.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc văn hoá dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn là cơ sở vững
chắc, là ánh hào quang soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện
mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
làm sáng tỏ những cơ sở triết học, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, là
việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Nó không chỉ giúp chúng ta
hiểu sâu sắc hơn, tin tưởng hơn tư tưởng về văn hoá của Người, mà nó còn giúp
chúng ta có cơ sở khoa học để quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chính sách,
xây dựng và phát triển nền văn hoá của Đảng và nhà nước ta, đóng góp tích cực
vào quá trình đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực về văn hoá.
NỘI DUNG
1


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 88


4
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
Là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam,
toàn bộ di sản của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một kho báu văn hoá vô giá của
dân tộc, được hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc, sáng
tạo, rất trí tuệ và nhân văn. Bởi nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam do
đó Người không viết thành những tác phẩm riêng biệt về văn hoá. Tư tưởng
về văn hoá nói chung và tư tưởng triết học về văn hoá nói riêng thể hiện trong
các bài viết, bài nói, trong nhân cách và cốt cách của Người.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất văn hoá
Sinh ra và lớn lên trên quê hương và gia đình có giàu truyền thống văn
hoá, Người đã sớm giác ngộ cách mạng, có lòng yêu nước sâu sắc, sớm nhận
thức được cảnh ngộ của một đất nước nô lệ, vì vậy Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Trải qua khắp năm châu bốn biển, Hồ
Chí Minh đã tiếp thu được những tinh hoa văn hoá phương đông, văn hoá
phương tây, văn hoá của các dân tộc trên thế giới. Đặc biệt là ánh sáng khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách hiểu văn
hoá rất rộng, rất sâu sắc, mang tính khái quát cao, nhưng lại mang tính cụ thể,
dễ nhớ, dễ hiểu. Theo Người, “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng những
nhu cầu của đời sống và những đòi hỏi của sự sinh tồn” 2. Từ quan điểm trên

chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã khái quát nội dung một cách đầy đủ nhất, rộng
nhất của phạm trù văn hoá. Chúng ta thấy cho đến nay phạm trù văn hoá đã
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.431.

2


5
biết bao nhiêu những khái niệm, tuy nhiên Hồ Chí Minh đưa ra văn hoá được
hiểu là toàn bọ những sáng tạo của con người, trong quá trình tồn tại sinh
sống và phát triển. Nguồn gốc và động lực sâu xa của văn hoá chính là nhu
cầu của con người, điều đó nó hoàn toàn khác với con vật nếu như ở con vật
nhu cầu của chúng để tồn tại thì ở con người có cả vật chất và tinh thần,
những nhu cầu đó không phải nhất thành bất biến, mà nó vận động thay đổi.
Con người không bao giờ bằng lòng với những gì, mà sẵn có trong tự nhiên
được thiên nhiên ban tặng mà luôn luôn khám phá, chính điều đó đã thúc đẩy
con người hoạt động và sáng tạo, cải tạo tự nhiên và xã hội, tạo ra không gian
và điều kiện sinh tồn cả vật chất lẫn tinh thần ngày càng tốt hơn cho mình.
Trong quá trình đó cũng chính là quá trình sáng tạo ra văn hoá của con người.
Như vậy chúng ta thấy, ở đâu có con người là ở đó có hoạt động văn hoá. Văn
hoá là sự phát huy và hiện thức hoá các năng lực bản chất của con người. Như
chúng ta thấy rằng con người là chủ thể sáng tạo ra văn hoá, đồng thời văn
hoá là phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người. Con người
không thể phát triển với tính cách là con người được nếu tách khỏi môi trường
văn hoá. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng văn hoá bao gồm hai lĩnh
vực cơ bản đó là: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Bên cạnh những sản
phẩm tinh thần như ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, nghệ
thuật, văn học… văn hoá còn bao gồm các sản phẩm vật chất phục vụ cho đời
sống con người như các công cụ, các phương tiện đáp ứng nhu cầu ăn mặc,ở
đi lại, giao tiếp… tuy nhiên văn hoá vật chất thực ra là vật thể hoá các giá trị

tinh thần. Mỗi sản phẩm vật chất đều thể hiện sự tài hoa, sự khéo léo, lý tưởng
thẩm mỹ của con người của những chủ thể sáng tạo ra chúng. Ở đây chúng ta
thấy rằng Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm hết sức khoa học và dễ hiểu về
văn hoá về văn hoá. Quan niệm dó không những vạch ra những dấu hiệu đặc
trưng về văn hoá mà còn bao quát được toàn bộ các hoạt động và các hiện
tượng văn hóa trong đời sống con người. Vì vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh


6
về văn hoá, đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong việc nhận thức các hiện
tượng văn hoá. Mặc dù hiểu và khái quát văn hoá theo nghĩa rộng, với nghĩa
là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt, bao gồm cả sinh hoạt vật chất và
sinh hoạt tinh thần của xã hội nhương trong các bài nói của mình, Hồ Chí
Minh thường đề cập đến khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp
thì văn hoá bao gồm hàng loạt hoạt động về giáo dục, khoa học, văn học nghệ
thuật, đạo đức lối sống… theo đó hoạt động văn hoá là hoạt động sản xuất ra
những giá tri tinh thần nhằm giáo dục cho con người khát vọng hướng tới cái
chân, thiện, mỹ. Với tính cách hiểu văn hoá theo nghĩa hẹp, Hồ Chí Minh coi
văn hoá là một mặt của đời sống xã hội, và là một bộ phận kiến trúc thượng
tầng xã hội. Như chúng ta đã biết, trong xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội do tồn tại xã hội quy định, mọi hoạt động của văn hoá cũng không
ngoài mục đích làm cho đời sống con người ngày càng được nâng lên. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng việc xây dựng đất nước phải coi trọng cả
việc phát triển kinh tế, chính trị xã hội và về văn hoá…tuyệt đối không được
xem nhẹ nhân tố nào nếu xem nhẹ một nhân tố nào đó thì sẽ phiến diện, hoặc
tuyệt đối hoá nó sẽ không tạo được động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc điểm hình thành và phát
triển của văn hoá
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã kế thừa và phát triển lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, đồng

thời Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm chăm lo tới phát triển văn hoá và đã
đưa ra các đặc điểm sự hình thành và phát triển:
Một là: Văn hoá là kết quả của năng lực sáng tạo của con người, trong
hoạt động thực tiễn chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội phục vụ cho nhu cầu
của con người. Do vậy, nếu không có con người và hoạt động của con người
thì không có văn hoá. Hay nới cách khác, con người là chủ thể sáng tạo của
mọ giá trị văn hoá. Điều này đã khác hoàn toàn và đối lập với quan niệm duy


7
tâm về văn hoá, hoặc quan điểm siêu hình về văn hoá. Văn hoá không phải là
hoạt động có tính bản năng như động vật, mà văn hoá là sự sáng tạo của con
người có ý thức. Văn hoá càng không phải là sản phẩm ban tặng của chúa trời
như quan điểm của tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra vì lẽ sinh tồn, vì
nhu cầu sinh sống của mình con người sáng tạo ra văn hoá. Văn hoá là sản
phẩm riêng có của con người, là phương thức trong đó con người tồn tại và
phát triển. Như chúng ra thấy rằng, nếu một hiện tượng nào đó xảy ra nếu
không có bàn tay khối óc của con người, thì đó chỉ là vật vô chi vô giác mà
thôi. Có những quan điểm cho rằng văn hoá ra đời là sản phẩm do vĩ nhân
hoặc do giai cấp thống trị tạo ra văn hoá, nhân dân là người ngu dốt chẳng có
nghĩa gì đối với văn hoá, và không biết hưởng thụ văn hoá… Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã thấy nhân dân có vai trò to lớn, trước hết là nhân dân lao động
trong việc sáng tạo ra văn hoá. Người chỉ ra rằng không phải riêng vĩ nhân,
các nghệ sĩ, nghệ nhân của giai cấp thống trị sáng tạo ra văn hoá, mà văn hoá
trước hết là của nhân dân và do nhân dân sáng tạo. Hồ Chí Minh viết “Quần
chúng có biết sáng tác không? Có sáng tác được không?... Quần chúng là
những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần
chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần
chúng còn là người sáng tác nữa. Chắc các cô các chú cũng biết là những câu
tục ngữ của ta do ai làm ra. Đó là do quần chúng làm ra. Nhưng câu tục ngữ,

những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng…những sáng
tác ấy là những hòn ngọc quý”3. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có những cán bộ
không biết tổ chức, hướng dẫn nhân dân làm văn hoá chứ không có nhân dân
không biết làm văn hoá. Người cho rằng ngay trong những sáng tác của các
nghệ ĩi, các nhà báo, các nhà văn, thì vai trò của nhân dân cũng góp một phần
hết sức quan trọng làm cho sáng tác ấy ngày càng hoàn thiện. Hồ Chí Minh
viết “Bác biết các chú văn hay chư tốt, nhưng dù sao, nhân dân trăm tay nghìn
mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh có thể giúp các chú tiến bộ hơn. Không
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.250.

3


8
riêng gì viết sách báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến
của nhân dân”4.
Văn hoá là phương thức sinh tồn của con người, và phục vụ cho chính
cuộc sống hiện thực, nhằm khích lệ động viên con người ngày càng yêu cuộc
sống của mình hơn. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn hoá, vừa là
người hưởng thụ những văn hoá mà mình sáng tác. Chính vì vậy Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng quá trình sáng tác ấy phải luôn hướng vào đại đa số nhân
dân chứ không phải độc quyền hưởng thụ của giai cấp thống trị, giai cấp bóc
lột và tầng lớp trí thức. Hồ Chí Minh viết “Văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên
chúng ta phải nói là phục vụ công, nông, binh, tức là phục vụ đại đa số nhân
dân…không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật mà cần nói rõ văn hoá phục vụ
công, nông, binh”5. Chính vì vậy trong các bài nói bài viết của mình Hồ Chí
Minh thường phê phán lối nói, lối viết, lối vẽ… cầu kỳ khó hiểu không phục
vụ thiết thực cho nhu cầu đời sống nhân dân. Người viết “Ta là cán bộ cách
mạng ta nói và viết cho quần chúng nhân dân mà mọi người không hiểu ta nói
cái gì, sao có thể gọi cán bộ cách mạng được” 6. Hồ Chí Minh yêu cầu các

nghệ sỹ, các nhà báo, cán bộ văn hoá… khi viết, khi nói, khi vẽ phải giản dị,
dễ hiểu, có vậy mới tuyên truyền giáo dục được quần chúng nhân dân. Lấy
việc vẽ của các nghệ sỹ làm ví dụ. Hồ Chí Minh viết “Bác nghĩ rằng nghệ
thuật phải gắn với cuộc sống, người vẽ không thể tuỳ ý tưởng tượng ra thế
nào cũng được, rồi quần chúng phê bình lại bảo người ta dốt”7.
Tóm lại: Theo Hồ Chí Minh quần chúng nhân dân mà trước hết là nhân
dân lao động là chủ thể của mọi sinh hoạt văn hoá. Họ vừa là người sáng tạo,
vừa là người hưởng thụ các giá trị văn hoá. Do đó, động lực của sự phát triển
văn hoá nằm chính trong nhân dân. Vì vậy công tác văn hoá phải quán triệt và

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.553.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.249-250.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.552.
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.552-553.
4
5


9
làm tốt quan điểm quần chúng, sáng tạo văn hoá là sự nghiệp của dân, do dân, vì
dân.
Hai là: Hồ Chí Minh quan niệm văn hoá bao giờ cũng tồn tại với tính
cách là văn hoá dân tộc đồng thời trong mối quan hệ biện chứng với văn hoá
nhân loại.
Chúng ta thấy rằng khái niệm văn hoá và khái niệm dân tộc là hai khái
niệm có nội hàm khác nhau, nhưng ngoại diên của chúng lại tương đồng với
nhau. Vì chúng ta thấy rằng có dân tộc là có văn hoá, mất văn hoá là mất dân
tộc. Văn hoá là cái đặc trưng cho sự tồn tại của mỗi dân tộc. Vì vậy ngay

trong đề cương văn hoá được soạn thảo năm 1943, Đảng ta đã rất chú trọng
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, với ba nguyên tắc dân tộc
hoá, đại chúng hoá, khoa học hoá để phát triển nền văn hoá truyền thống lên
tầm cao mới. Thống nhất với những tư tưởng đó của Đảng, trong báo cáo
chính trị đọc tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh
đã phác hoạ ra con đường xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng “Xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ
mới cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng thời phát triển những tuyền
thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến
bộ thế giới để xây dựng nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng”8. Chúng ta thấy rằng, quan điểm đó là kết quả của quá trình
nhận thức hết sức sâu sắc, có tính quy luật của sự tồn tại và phát triển văn hoá
là nhận thức đúng đắn những yêu cầu phát triển văn hoá trong sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nó đã trở
thành một định hướng lớn trong đường lối, chính sách xây dựng và phát triển
nền văn hoá mới ở nước ta qua các thời kỳ. Với Người luôn đề cao bản sắc
văn hoá dân tộc, phê phán thói lai căng văn hoá, quá đề xuất cao văn hoá
ngoại, coi nhẹ văn hoá dân tộc trong giới trí thức, trong nghệ sỹ. Người cảnh
báo nguy cơ để mất nền văn hoá dân tộc trong các nghệ sỹ “Có những tri thức
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.173

8


10
Việt Nam rất thông thuộc lịch sử, địa lý và các chuyện thần thoại của nước
Pháp, Hy Lạp, và La Mã. Nhưng khi nói đến các vị anh hùng là tổ tiên , ông
cha mình, hỏi đến địa lý nước mình thì mù tịt… coi chừng, có nhiều người
Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất
quí báu của mình bằng người nước ngoài” 9. Đồng thời người dạy chúng ta

chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc dân tộc.
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, về mối quan hệ giữa các
giai cấp và dân tộc, dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải chú ý
phát huy hết cốt cách dân tộc, lột cho hết tinh thần dân tộc… để cổ vũ đồng
bào ta để giáo dục con cháu ta”10. Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao truyền thống
văn hoá Việt Nam, đề cao chủ nghĩa yêu nước, coi đó là động lực tinh thần, là
nguồn sức mạnh không bao giờ cạn, là chiết ký là đạo lý sống của mỗi người
dân Việt Nam. Người khẳng định “Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, dân
tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước cứ mỗi lần thử thách lớn thì nhân dân ta
lại tỏ ra khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình. Đồng thời Người
cũng đề cao truyền thống nhân ái, cố kết cộng đồng, tinh thần cần cù thông
minh sáng tạo trong lao động sản xuất, tinh thần anh hùng bất khuất, mưu trí
sáng tạo, gan góc, trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm của nhân ta, giành
độc lập tự do của tổ quốc. Có thể nói, truyền thống yêu nước của dân tộc đã
sản sinh ra Chủ Tịch Hồ Chí Minh, đồng thời Hồ Chí Minh là người tô thắm
và khắc sâu dấu son rực rỡ nhất truyền thống quí báu đó, làm rạng rỡ cho cả
dân tộc anh hùng. Làm cho cả thế giới biết đến dân tộc Việt nam, một dân tộc
bất khuất không cam chịu làm nô lệ.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định văn hoá Việt nam mang đậm bản sắc văn
hoá dân tộc, nhưng văn hoá dân tộc không tồn tại trong sự phát triển độc lập,
tách rời với nền văn hoá thế giới, mà ở đây nó được kế thừa và phát huy bản
sắc, tinh hoa văn hoá thế giới, giữa chúng có sự giao thoa tác động ảnh hưởng
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.556-557.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.221.

9

10



11
lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ làm phong phú cho nhau. Đây là điểm có tính quy
luật chi phối sự vận động và phát triển đối với nền văn hoá thế giới. Chính vì
vậy, trong khi coi trọng nền văn hoá dân tộc Hồ Chí Minh đã không tuyệt đối
hoá nó. Người cho rằng: Văn hoá Việt nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá
Đông phương và Tây phương chung đúc lại… Tây phương hay Đông phương
có cái gì tốt ta phải học lấy để tạo ra nền văn hoá Việt nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay trau dồi cho văn hoá Việt nam
thật có tinh thần thuần tuý Việt nam để hợp với tinh thần dan chủ”.
Từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy, việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, không đối lập với mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực văn hoá. Mà càng mở rộng giao lưu càng tiếp thu những tinh hoa văn
hoá thời đại làm cho văn hoá phong phú thêm và có sức sống mãnh liệt hơn.
Ba là: Theo Hồ Chí Minh văn hoá là một dòng chảy liên tục sự phát
triển của văn hoá là sự thống nhất của hai quá trình.
Đó là vừa loại bỏ những cái xấu, cái phản giá trị, phản tiến bộ. Đồng
thời biết kế thừa cái tốt cái tinh hoa và những cái vẫn còn phù hợp vẫn phát
huy tác dụng được, vần còn có giá trị. Chúng ta thấy rằng văn hoá bao gồm
hai lĩnh vực đó là văn hoá văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Văn hoá vật
chất bao gồm các yếu tố tồn tại xã hội, văn hoá tinh thần bao gồm các yếu tố
thuộc về ý thức xã hội như văn học, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền, đạo
đức, tôn giáo, triết học…do đó khi xã hội phát triển thì văn hoá cũng phát
triển theo. Mỗi bước phát triển của kinh tế xã hội là văn hoá có bước phát
triển, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội đều gắn với một nền văn hoá đặc trưng.
Cũng như sự phát triển của xã hội, sự phát triển của văn hoá là một cuộc đấu
tranh giữa một nền văn hoá mới với một nền văn hoá cũ. Trong đó, nền văn
hoá mới vừa phủ định nền văn hoá cũ vừa kế thừa nền văn hoá cũ. Nền văn
hoá mới lấy nền văn hoá cũ làm nền tảng, làm tiền đề cho sự tồn tại phát triển
của mình. Trong sự kế thừa đó, những yếu tố tích cực, có giá trị của nền văn



12
hoá cũ được giữ lại trong nền văn hoá mới được cải tạo đi cho phù hợp với
yêu cầu của nền văn hoá mới, còn những cái xấu cái tiêu cực, cái lạc hậu,
phản giá trị bị lọc bỏ. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, để xây dựng đời sống văn
hoá mới, không phải cái gì cũng bỏ đi, không phải cái gì cũng kế thừa, không
phải cái gì cũng làm mới. Người viết “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… cái gì
cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa cho hợp lý… cái gì cũ mà tốt
thì phát triển thì thêm… cái gì mới mà hay thì ta phải làm” 11. Người luôn luôn
chỉ ra quá trình xây dựng cái mới phải biết gìn giữ những truyền thống, những
đức tính tốt đẹp của dân tộc, xong bên cạnh đó cần thấy cái hay cái đẹp mà
học tập của các nước bè bạn anh em. Hồ Chí Minh viết “Trong quá trình xây
dựng cái mới, chúng ta phải xây dựng những đức tính tốt đẹp của tổ tiên ta và
học tập những gương tốt của các nước anh em”12.
Từ những dẫn chứng ở trên cho chúng ta thấy rằng triết lý của Hồ Chí
Minh về sự phát triển của văn hoá là hết sức biện chứng và khoa học. Với những
triết lý đó đến ngày nay đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Bốn là: Văn hoá tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố
kinh tế và chính trị đồng thời chịu sự qui định của kinh tế và chính trị.
Như chúng ta thấy rằng văn hoá không thể tồn tại một cách độc lập, là
một hoạt động tinh thần do đó đều chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế xã
hội và chính trị. Khi đề cập đến văn hoá, và phát triển văn hoá Hồ Chí Minh
thường sử dụng khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp. Chính vì vậy, văn hoá
thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Hoạt động văn hoá là hoạt động
sản xuất ra những giá trị tinh thần (như hoạt động khoa học, giáo dục, nghệ
thuật…) nhằm hình thành ở con người khát vọng vươn tới hệ giá trị: chân,
thiện mỹ. Từ quan niệm đó văn hoá thuộc bộ phận kiến trúc thượng tầng và bị
các quan hệ, các điều kiện kinh tế, chính trị chi phối. Người viết “Văn hoá là
11

12

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.94-95.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.224.


13
một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng, của xã hội có kiến thiết rồi
văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được” 13. Hồ Chí Minh
đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là quan điểm duy
vật lịch sử, chỉ ra rằng kiến trúc thượng tầng ra đời trên cơ sở hạ tầng nhất
định. Khác hoàn toàn với các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Họ
cho rằng văn hoá ra đời từ một lực lượng thần bí nào đó như chúa trời, ý niệm
tuyệt đối…họ tách văn hoá ra khỏi đời sống xã hội, văn hoá không có liên
quan gì đến kinh tế, chính trị xã hội, họ coi lĩnh vực van hoá gắn liền với cách
sống cao thượng, của tầng lớp bên trên. Hồ Chí Minh khẳng định “Văn hoá…
không thể đứng ngoài mà phải đứng ở trong kinh tế và chính trị” 14. Người còn
chỉ ra “Văn hoá nghệ thuật cũng là mặt trận” “chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm
vụ là phục vụ kháng chiến, phục vụ tổ quốc. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ
nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng… phải đặt lợi ích của
kháng chiến của tổ quốc lên trên hết, trước hết”15.
Hồ Chí Minh không chỉ thấy vai trò quyết định của kinh tế, chính trị xã
hội đối với văn hoá, mà Người còn thấy vai trò to lớn của văn hoá đối với
kinh tế, chính trị xã hội. Van hoá là nền tảng là động lực tinh thần, đối với sự
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh viết “Văn hoá nghệ
thuật cũng là một mặt trận, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi” 16. trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Người luôn chỉ ra đó là “ Trong công cuộc kiến
thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau:
Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”17.
Hồ Chí Minh luôn thấy được văn hoá chịu ảnh hưởng tác động của kinh

tế, đồng thời thấy rõ sự ảnh hưởng của chế độ chính trị, các chế ước xã hội
làm nảy sinh tính đa dạng của văn hoá, tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng luôn thấy
rằng sự tác động to lớn của văn hoá đối với phát triển kinh tế xã hội, chính trị.
Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, 1981, tr.345.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.368-369.
15
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.368.
16
Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1997, tr.64.
17
Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học 1981, tr.345.
13
14


14
Văn hoá là cơ sở là động lực tinh thần cho sự phát triển vững chắc của mọi
mặt đời sống xã hội, cho sự tiến bộ xã hội.
Từ những vấn đề trên chúng ta thấy, những quan niệm về văn hoá và
mối quan hệ của văn hoá tuy không khái quát thành hệ thống, thành những
luận điểm, nhưng Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản nhất
trong sự tồn tại và phát triển của văn hoá, những đặc điểm đó mạng tính qui
luật chi phối sự vận động phát triển của văn hoá của các dân tộc nói chung và
văn hóa của dân tộc Việt Nam nói riêng.
Sự nghiệp văn hoá ở nước ta đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc
những đặc điểm đó đảm bảo cho văn hoá phát triển đúng qui luật và đạt hiệu
quả cao.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng nền
văn hoá mới với xây dựng con người mới ở Việt Nam
Vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện hoàn cảnh

cụ thể Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhận thấy mối quan hệ biện chứng giữa sự
phát triển của văn hoá với sự phát triển con người, sự vận dụng đó thể hiện sự
linh hoạt, sáng tạo ở Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng nền văn hoá mới và xây dựng con người mới ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn thấy con người là trung tâm của thời đại, con người
có vị trí quan trọng trong phát triển văn hoá. Con người là chủ thể của lịch sử,
của văn hoá, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất tinh thần cho xã hội.
Ở đây chúng ta thấy rằng, sự phát triển của văn hoá trước hết phụ thuộc
vào vai trò sáng tạo của con người và nhân cách của họ. Dưới góc độ văn hoá,
chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội là chúng ta xây dựng nền văn hoá phát
triển cao khác về chất so với nền văn hoá trước đây. Đó là một nền văn hoá,
con người được giải phóng tiềm năng của mình, vì lợi ích chân chính, vì
phẩm giá con người. Đó là một nền văn hoá hướng con người vươn tới giá trị:
chân, thiện, mỹ đó là trụ cột vĩnh hằng của văn hoá. Đây là sự nghiệp cách


15
mạng to lớn, lâu dài và gian khổ, nó đòi hỏi rất cao đối với con người, với tư
cách là chủ thể trong quá trình sáng tạo ra xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải có con người xã hội chủ nghĩa”18.
Theo Hồ Chí Minh con người mới xã hội chủ nghĩa là con người có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, con người ấy
phải được gọt rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, đủ đức đủ tài, vừa hồng vừa
chuyên. Chính vì vậy, chỉ khi nào chúng ta đào tạo được những con người ấy
thì chủ nghĩa xã hội mới vững chắc và thắng lợi hoàn toàn, loại bỏ được xã
hội lạc hậu.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra để xây dựng con người mới, phục
vụ cho sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới cần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển
văn hoá. Trong đó, Hồ Chí Minh dặc biệt chú trọng đến sự nghiệp giáo dục

đào tạo. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Chính
vì vậy, ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Người đã phát động
phong trào diệt gặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Người viết “Nay chúng ta
đã giành được quyền độc lập. Một trong những việc phải thực hiện cấp tốc
ngay trong lúc này, là nâng cao dân trí” hay “muốn giữ nền độc lập, muốn
làm cho dân mạnh nước giàu… Mọi người Việt Nam… phải có kiến thức mới
để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” hay trong thư gửi cho học
sinh nhân ngày khai trường (9/1945) Hồ Chí Minh viết “ Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các cháu” 19. Hồ Chí Minh đã coi trọng việc xây
dựng đời sống mới mà cốt lõi của nó là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Coi trọng
và phát triển nề văn hoá, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa, tinh thần lành mạnh.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.303.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.32-36.

18
19


16
Từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy, sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới và xây dựng con người mới ở Việt Nam luôn có sự thống nhất hữu
cơ với nhau. Do vậy, chúng ta không được tuyệt đối hoá hoặc coi nhẹ mặt
nào, nếu coi trọng một mặt nào đó sẽ trở thành phiến diện. Phải chú trọng vào
việc xây dựng nền văn hoá, làm cho văn hoá thực sự là môi trường giáo dục,
nuôi dưỡng và phát huy các giá trị người, đào luyện ra những thế hệ người có
đủ đức đủ tài để xây dựng chế độ xã hội mới và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời phải chú trọng chiến lược xây dựng con người, tạo ra con người có

văn hoá, và có khả năng sáng tạo ra giá trị văn hoá phù hợp với yêu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới với sự nghiệp xây
dựng con người mới phải tiến hành đồng thời, bởi nó vừa là nguyên nhân vừa
là kết quả thúc đẩy nhau cùng phát triển trong sự nghiệp cách mạng nó chung.
4. Quan niệm về văn hoá mới Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã vận dụng những triết lý của chủ nghĩa mác xít vào sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam. Người chỉ ra để xây dựng nền
văn hoá mới ở Việt Nam có những đặc trưng đó là:
Một là: Nền văn hoá mới ở Việt Nam là nền văn hoá mang tính dân
tộc, hiện đại và nhân văn.
Hồ Chí Minh cho rằng nền văn hoá mới ở Việt Nam phải là nền văn
hoá có gốc rễ, cội nguồn từ trong truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện được
tâm hồn cốt cách, diện mạo và bản sắc văn hoá Việt Nam. Nền văn hoá ấy
phải kế thừa được truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước thương
nòi, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, tinh thần nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, tinh thần
dũng cảm bất khuất, mưu trí, gan dạ, biết hy sinh trong chống giặc ngoại xâm.
Những truyền thống đó, không những cần được giữ gìn mà còn phải thường


17
xuyên phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới hiện nay.
Hồ Chí Minh viết:

“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”20.

Hồ Chí Minh đã yêu cầu mọi người cần phải biết văn hoá dân tộc mình,
phải biết truyền thống hào hùng của dân tộc, phải phát huy cốt cách dân tộc,

phải làm cho dân tộc ta tự hào những truyền thống quí báu đó, cổ vũ động
viên, giáo dục cho con cháu ta học tập và no theo. Hồ Chí Minh đã phê phán
sự tôn sùng văn hoá ngoại, coi thường, thờ ơ với truyền thống văn hoá dân tộc
ta. Theo Hồ Chí Minh càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin bo nhiêu, càng
phải coi trọng những tuyền thống tốt đẹp của ông cha ta bấy nhiêu. Hồ Chí
Minh đòi hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá của dân tộc. Loại
bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân, biết kế thừa
văn hoá tốt đẹp, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu, khắc phục những ảnh hưởng
của văn hoá nô dịch của đế quốc và phong kiến.
Tóm lại nền văn hoá mới ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là nền văn hoá
mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện được lòng tự hào truyền thống văn hoá
của dân tộc mình. Những điều đó nó không mâu thuẫn với việc tiếp thu những
giá trị văn hoá tiên tiến của nhân loại, nhằm làm phong phú, tăng thêm sức
sống mãnh liệt cho nền văn hoá dân tộc. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng
không phải là nền văn hoá đóng kín mà là một nền văn hoá mở. Một mặt nó
kế thừa và phát huy những giá trị trong truyền thống dân tộc, mặt khác nó tự
làm giàu mình bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới văn
hoá nhân loại, làm cho nền văn hoá mới Việt Nam mang cốt cách, bản sắc và
truyền thống văn hoá dân tộc vừa bắt nhịp được với hơi thở của cuộc sống
hiện đại, phù hợp với trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được.Hồ Chí
Minh cho rằng nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá mang
tính nhân văn sâu sắc. Đó là nền văn hoá vì con người, hướng tới việc giải
phóng giai cấp giải phóng con người giải phóng toàn thể nhân loại. Nền văn
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.221.

20


18
hoá mới tôn vinh người lao động, lấy người lao động làm trung tâm, coi lao

động là nghĩa vụ thiêng liêng, là trách nhiệm của mỗi con người, là nguồn
sống là nguồn tạo nên hạnh phúc của mỗi người. Nền văn hoá mới đó là nền
văn hoá đem lại công bằng và dân chủ thực sự cho con người, nó chống lại
mọi sự áp bức bóc lột, bất công, bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con
người. Hồ Chí Minh chỉ ra đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã
hội bản thân nó đã là một xã hội văn hoá, vì ở đó con người được trả lại các
giá trị đã mất của chính mình. Nền văn hoá đó đã trở thành lý tưởng mà cả
cuộc đời Hồ Chí Minh hiện thực hoá lý tưởng ấy. Hồ Chí Minh viết “ Tôi chỉ
có một ham muốn tộ bậc là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc
ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”21.
Hai là : Nền văn hoá mới ở Việt Nam là nền văn hoá gắn chặt với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và một bộ phận của sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra văn hoá không tách rời kinh tế chính trị, một mặt
nó chịu sự chi phối của kinh tế chính trị, nhưng mặt khác văn hoá có sự tác
động trở lại to lớn đối với kinh tế chính trị. Vì vậy Người coi văn hoá nghệ
thuật cũng là mặt trận và anh chị em nghệ sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận
ấy. Hồ Chí Minh viết “trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân
tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng” 22. Hồ Chí Minh luôn coi trọng
sự nghiệp xây dựng văn hoá của đất nước, trong cuộc đời của Người chúng ta
luôn thấy người nói :Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần
chú ý đến cũng phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá.
Ba là: Văn hoá Việt Nam là văn hoá mang tính nhân dân sâu sắc
Hồ Chí Minh cho rằng nền văn hoá mới khác nền văn hoá cũ ở chỗ nó
bắt nguồn từ trong nhân dân, huy động được nhân dân tham gia đông đảo, vào
các hoạt động văn hoá. Nhân dân trở thành người nuôi dưỡng các giá trị văn hoá
21
22

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.161.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr.464.


19
và tạo nền tảng xã hội cho sự phát triển của văn hoá chuyên nghiệp. Theo Hồ
Chí Minh nền văn hoá bắt nguồn từ trong nhân dân nó sẽ “ Luôn luôn tìm tòi
những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thật hơn, chan thành hơn
cho nhân dân nghe, về những mối lo âu và suy nghĩ của nhân dân” 23. Đồng thời
Người luôn luôn uốn nắn, phê bình những lối nói, lối viết, và lối sáng tác xa rời
nhân dân, không phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Hồ Chí
Minh cũng đề cao vai trò sáng tạo văn hoá nghệ thuật của nhân dân và coi những
sáng tác của nhân dân như những viên ngọc quí. Hồ Chí Minh thường căn dặn
những anh chị em làm công tác văn hoá nghệ thuật phải đi sâu thực tế cuộc sống,
hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện vọng thị hiếu của nhân dân để từ đó làm cho
sáng tác của mình phục vụ được nhân dân một cách tốt nhất.
II. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HOÁ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN
VĂN HOÁ MỚI Ở NƯỚC TA
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, những tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh về văn hoá đã trở thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện
chứng, định hướng cho cộng cuộc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở
nước ta. Kế thừa và phát huy những tư tưởng đó, Đảng và nhà nước ta đã chỉ
đạo hoạt động văn hoá có nhiều bước phát triển nhất là trong sự nghiệp đổi
mới của đảng, trong đó văn hoá đã thu được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những di sản quí báu về
lý luận trên nhiều lĩnh vực, trong đó Người đã để lại những triết lý văn hoá,
và thực hành văn hoá. Người là biểu tượng của nền văn hoá mới, nền văn hoá
tiên tiến, đấu tranh không khoan nhượng văn hoá xấu độc. Nhiều phong tục,
tập quán thói quen và tư tưởng lạc hậu được cải tạo, loại bỏ, và thay vào đó
những nét văn hoá mới phù hợp với điều kiện xã hội mới. Trình độ giác ngộ

chính trị và dân trí được nâng lên, sự nghiệp giáo dục đào tạo có bước phát
triển mới, nhận thức của mọi người về văn hoá có nhiều tiến bộ. Chính từ tấm
23

Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981, tr.515.


20
gương điển hình về văn hoá của Hồ Chí Minh đã tạo thêm sức mạnh cho mọi
người dân có trách nhiệm hơn trong quá trình nhận thức và phát triển văn hoá,
tích cực học tập và có nhiều đóng góp công trình về văn hoá, củng cố và nâng
cao dân trí, đáp ứng thiết thực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những tư tưởng triết học về văn hoá nói riêng, và tư tưởng văn hoá của
Hồ Chí Minh nói chung, đã định hướng đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hoá hình thành một nền văn hoá mới mang trong lòng nó một
sức sống Việt Nam. Sự nghiệp văn hoá đã trở thành một bộ phận khăng khít
và trở thành động lực tinh thần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng nước ta từng
bước đi đến thành công. Ngày nay, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn
hoá mới riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói chung vẫn tiếp tục là
kim chỉ nam định hướng cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Những tư tưởng ấy không chỉ có ý nghĩa trong
việc hoạch định chiến lược văn hoá của Đảng mà nó còn có ý nghĩa trực tiếp
trong chỉ đạo các hoạt động văn hoá cụ thể trên các lĩnh vực khác nhau.
Những tư tưởng về văn hoá của Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu và toàn
diện trên đời sống tinh thần của nước ta, và nó đã trở thành một bộ phận cấu
thành nền tảng tinh thần của toàn xã hội.
Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân
tộc, đòi hỏi chúng ta nghiên cứu sâu sắc toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh,
trước hết những tư tưởng của Người về văn hoá, từ đó vận dụng sáng tạo
trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hoá, đề ra đường lối, chính sách

xây dựng và phát triển văn hoá một cách đúng đắn.
Ngày nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quan ta cần tập trung mọi nỗ lực,
với nhiều hình thức, bước đi, biện pháp thực hiện tốt đường lối phát triển văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Với tinh thần của Nghị quyết
trung ương V (khoá VIII), Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
chúng ta cần làm tốt một số nội dung đó là:


21
Thứ nhất: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh,
phong phú, đa dạng
Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình,
khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm
sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác,
quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối
với các sản phẩm độc hại.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ
hội, ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại
dâm, ma túy, cờ bạc... Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về xây
dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền
thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Xây dựng và tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn
hóa ở tất cả các cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây
dựng mới một số công trình văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở
các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của đất nước. Xã hội hóa các hoạt
động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa ở nông thôn,
vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng,
các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.
Thứ hai: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá

trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh
chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ
vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.


22
Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong
cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi
dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính
khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ
thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật,
từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật
thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo
tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động
thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài.
Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá,
ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính
sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều
kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo
nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Thứ ba: Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông
tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại
chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại

hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất
bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt
yêu cầu của thời kỳ mới. Rà soát quy hoạch, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo
chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng


23
thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng
hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp hạn
chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
Thứ tư: Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá,
báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài
và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới
thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công
chúng Việt Nam. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu
trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hoá.
Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập
và tác hại của các sản phẩm đồi truỵ, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức
đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.


24
KẾT LUẬN

Là học trò của C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin nên thế giới quan, tư
duy triết học của Người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Người đã bảo vệ và phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học
Mác - Lênin. Khác với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh không để lại một tác phẩm triết học như: Hệ tư tưởng Đức, Luận cương
Phoiơbắc, Biện chứng của tự nhiên, Bút ký triết học... Bởi vì, Hồ Chí Minh
sống và hoạt động cách mạng trong thời đại đã có chủ nghĩa Mác - Lênin soi
sáng, dẫn đường và nhiệm vụ của Người là cứu nước, cứu dân, giải phóng dân
tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất công đem lại hoà bình, tự do, hạnh phúc cho
đồng bào. Chính nhiệm vụ này đã cuốn hút Người với tất cả tinh thần và sức
lực, làm cho Người sống gần gũi với nhân dân, đem tinh tuý, sâu sắc của triết
học diễn đạt thành những điều giản dị, cụ thể, rõ ràng và thiết thực để nhân
dân dễ hiểu, dễ làm. Rõ ràng, phải có một trình độ triết học sâu sắc, uyên bác,
Hồ Chí Minh mới có thể chuyển hoá thành triết học của cuộc sống.
Nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh, chúng ta thấy ở Người toát lên những tư tưởng triết học sâu sắc. Hồ
Chí Minh đã dựa chắc vào vấn đề cơ bản triết học để giải quyết mối quan hệ
giữa việc nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa phát triển sản
xuất với củng cố hệ thống chính trị, tăng trưởng kinh tế với phát triển giáo
dục văn hoá và nhiều mối quan hệ khác như mối quan hệ giữa xây dựng đất
nước với đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kết hợp sức mạnh
của dân tộc với thời đại, giữa kháng chiến với kiến quốc. Rõ ràng, khi giải
thích hàng loạt các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Hồ Chí Minh đã nói tới triết học, bàn tới triết học và tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh thể hiện rõ những giá trị nhân văn đặc sắc, tràn
đầy tinh thần biện chứng duy vật. Trong đó có sự hoà quyện đến nhuần
nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tinh hoa văn hoá, triết học


25

phương Đông, phương Tây và lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Với tư tưởng "dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, chúng ta
nhận thấy ở đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phép "biến dịch” của triết
học phương Đông và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng, bảo
vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đẩy lùi đói nghèo bệnh tật, chống lại
các thế lực thù địch, vì vậy sự nghiệp văn hoá luôn có ý nghiã quan trọng đối
với quân đội. Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng chính qui
tinh nhuệ từng bước hiện đại, thì đòi hỏi cần phải tích cực phát triển mọi mặt
trong đó văn hoá là yếu tố không thể thiếu, giáo dục nhận thức làn cho mỗi
quân nhân thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hoá của Hồ Chí Minh và của
Đảng ta trong tình hình mới, xây dựng trong mỗi đơn vị có nếp sống văn hoá.
Chống lại thói gia trưởng, thiếu dân chủ, chống lại tình trạng vô chính phủ và
ảnh hưởng của văn hoá xấu đọc ngoại lai xâm nhập đến xây dựng một quân
đội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa một quân đội thực sự dân chủ, mà ở đó
mỗi cán bộ chiến sĩ là một nhân cách, một chủ thể độc lập năng động sáng
tạo, loại bỏ tận gốc lối sống thiếu văn hoá, xây dựng cho bộ đội sống có kỷ
luật kỷ cương, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị tinh thần, sống có
nhân văn, xứng danh “Bộ đội cụ Hồ”.


26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Song Thành, Hồ Chí Minh nhà văn hoá kiệt xuất, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999.

1. Hoàng Ngọc Vĩnh, Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh với công cuộc
đổi mới ở Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Huế, 2013.
Lê Hữu Nghĩa (Chủ nhiệm), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Đề tài
khoa học cấp Bộ, 1996.



×