Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.86 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Con người, cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất, trong
đó thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ giữa tư tưởng, phương pháp, nhân cách đạo đức và
lối sống. Nghiên cứu tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh là vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh không bao giờ chủ trương
lập ngôn, lại càng không có ý định xây dựng một triết thuyết, một lý luận. Sự hy sinh cả
cuộc đời, cả sự nghiệp cho dân tộc, cho nhân loại của người chỉ cốt để thực hiện một
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được độc lập, đồng bào được tự do, ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, tiến bộ và hạnh phúc.
Khi tuyên truyền, vận động quần chúng, bao giờ người cũng lựa chọn hình thức
biểu đạt tư tưởng một cách rõ ràng rành mạch, thấu đáo về một vấn đề nào đó, dù lớn
hay nhỏ. Các bài viết, bài nói của người bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu, lợi ích
thiết thực. Người xa lạ với cách tuyên truyền phù phiếm, khoa trương, hình thức. Người
cũng phê phán bệnh lý thuyết suông, bệnh giáo điều, sách vở. Tư tưởng đó được biểu
hiện thành tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động tuyên truyền của
người. Người coi đây là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình tuyên truyền, vận động,
giáo dục và tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh cách mạng.
Nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ tìm thấy những quan
điểm của người mang tính hệ thống, biện chứng rất sâu sắc. Trong các quan điểm ấy,
quan điểm về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là quan điểm mang tính triết học
khái quát cao nhất. Nó có ý nghĩa không chỉ với thời đại của Hồ Chí Minh mà còn có ý
nghĩa đối với thế hệ của chúng ta. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu. Qua việc nghiên
cứu đề tài này, chúng ta sẽ thấy ở Hồ Chí Minh một nhà tư tưởng lỗi lạc thực hiện quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của mình.
1
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Hồ Chí Minh tiếp thu quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quan điểm Hồ Chí Minh


chính là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào cách mạng thực tiễn ở Việt Nam. Trong
số các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn đã được Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong toàn bộ quan điểm
của người. Nó trở thành nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh và là
yếu tố góp phần làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng biện chứng.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được hình thành cũng giống như các quan điểm
triết học khác đều do các yếu tố vừa khách quan và chủ quan tác động đến. Ở Hồ Chí
Minh có một điều đặc biệt, người đã kế thừa không chỉ quan điểm của một nhà triết học
hoặc một quốc gia nào mà quan điểm của Hồ Chí Minh là sự kết hợp của các tư tưởng
phương Đông và phươngTây, không chỉ ở cùng thời đại mình mà còn ở các thời đại
trước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ những nhu cầu thực tiễn, đây cũng chính là sự
thể hiện thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng của người. Thực tiễn đặt ra
cho sự ra đời tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là cần phải có một lý luận dẫn đường cho
cách mạng Việt nam trước sự xâm lược của thực dân Pháp.
Xã hội Việt Nam giữa những năm thế kỷ XIX là một xã hội phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu trì trệ. Quyền lực chính trị nằm trong tay nhà Nguyễn và chính sách mà
nhà Nguyễn thi hành là một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động. Nhà
Nguyễn tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan toả cảng đối với
bên ngoài. Nhiều phong trào cải cách diễn ra nhưng đều thất bại. Điều này đã dẫn đến
sự trì trệ trong phát triển kinh tế của Việt nam. Cùng thời gian đó, Pháp xâm lược Việt
Nam. Triều đình nhà Nguyễn không đủ sức để đương đầu với sự lớn mạnh của một đế
quốc phương Tây hùng mạnh. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nhiều phong trào vũ
trang kháng chiến chống Pháp nổi lên ở khắp đất nước: Ở phía Bắc có các cuộc khởi
nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích… Ở miền Trung có Đặng Như
Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng…Ở miền Nam có Trần Tấn, Nguyễn Trung
Trực… Những phong trào ấy thể hện tinh thần yêu nước với lòng căm thù giặc sâu sắc.
Tuy nhiên những người đứng đầu của các phong trào ấy là những sĩ phu Văn thân. Họ
vẫn mang tư tưởng hệ phong kiến, chưa nhận thức được vai trò của quần chúng. Điều

này cho thấy hệ tư tưởng phong kiến đã bất lực trước thực tiễn của lịch sử.
Những năm đầu của thế kỷ XX, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta rất sôi động nhưng lại rất khủng hoảng về lý luận dẫn đường. Yêu cầu thực
2
tiễn của cách mạng Việt Nam đặt ra đòi hỏi phải có một lý luận cách mạng đúng đắn,
soi sáng cho cách mạng Việt Nam để có thể giải phóng được dân tộc. Trong giai đoạn
ấy sự xuất hiện của một nhân vật đã mở ra một tia hy vọng cho cách mạng Việt Nam đó
chính là Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách
thấu đáo, sâu sắc trước hiện thực của Việt Nam và quyết định phải ra đi tìm con đường
mới để tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách
thấu đáo, sâu sắc trước hiện thực của Việt Nam và quyết định phải ra đi tìm con đường
mới để tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Trước Hồ Chí Minh đã có nhiều nhà
cách mạng ra đi tìm đường cứu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng những
đường lối lý luận mà họ đưa ra không phù hợp với thực tiễn đã dẫn đến thất bại. Điều
này đòi hỏi đặt ra cho Hồ Chí Minh phải tìm được một lý luận đúng đắn phù hợp với
yêu cầu thực tiễn Việt Nam mới có thể giải quyết vấn đề thực tiễn ấy. Vì thế, người đã
bôn ba khắp thế giới, từ Tây sang Đông, từ châu lục này sang châu lục khác, tham gia
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức ở nhiều
nước khác nhau. Hồ Chí Minh xác định rõ mục đích: “muốn đi ra nước ngoài, xem nước
Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào
chúng ta”[14]. Mục đích ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Từ thực tiễn của các nước để tìm ra lý luận cách
mạng sau đó vận dụng lý luận cách mạng ấy trở lại hoạt động thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Hồ Chí Minh tiếp thu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác – Lênin không máy móc, giáo điều mà đã sáng tạo. Vì theo chính quan điểm
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin đã cho thấy rõ điều này.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn được thể hiện một cách biện chứng. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và
tiêu chuẩn của lý luận, lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn đáp ứng

yêu cầu thực tiễn. Ngược lại thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận và đồng thời lý luận
phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Khi Hồ Chí Minh tiếp thu quan điểm này,
người đã vận dụng một cách sáng tạo đúng như quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ
Chí Minh đã phải quan sát thực tiễn một cách thấu đáo, không chỉ thực tiễn Việt Nam
mà thực tiễn các nước khác.
Thực tiễn mà Hồ Chí Minh đã trải qua từ khi người ra đi là thực tiễn đi vào cuộc
sống của những người lao động ở các nước, thực tiễn trong các hoạt động của tổ chức
quần chúng, tổ chức chính trị - xã hội khác nhau, tham gia vào các hoạt động của Đảng
xã hội Pháp. Chính thực tiễn sinh động đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng tạo nên
thành công trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
3
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho tư tưởng của
mình, nhận thức để đến và tiếp thu được ngay với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ những
điều mà người chứng kiến trong thực tiễn và tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, người rút
ra một kết luận là phải giải phóng thuộc địa. Không đơn giản để có thể đưa ra một kết
luận như vậy, kết luận mà Hồ Chí Minh tổng kết được khi đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin thể hiện sự thống nhất sâu sắc giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.
Điều này thể hiện trình độ tư duy lý luận sắc bén, vốn hiểu biết sâu sắc của Hồ Chí
Minh.
Hoạt động thực tiễn ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh có
được một trình độ lý luận nhạy bén và quan sát tinh tế. Người đã nhận thấy rõ bản chất
của chủ nghĩa tư bản: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư
bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những
châm ngôn lý tưởng: bác ái, bình đẳng…”[3]; “…những lời tuyên bố tự do của các nhà
tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.
Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực
lượng của bản thân mình”[15].
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Hồ

Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng của mình.
Đó chính là sự logic của lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận phải
chỉ đạo cho hoạt động cách mạng thực tiễn và nó được bổ sung từ thực tiễn cách mạng
sinh động. Điều này đã thể hiện rõ ở Hồ Chí Minh, người tích cực tham gia hoạt động
trong các tổ chức cách mạng, tổ chức chính trị - xã hội nhằm đưa chủ nghĩa Mác –
Lênin vào phong trào cách mạng. Người đã tham gia vào hoạt động của Đảng xã hội
Pháp, bỏ phiếu tán thành quốc tế III, sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, hội liên hiệp
thuộc địa, ra báo Người cùng khổ - cơ quan tuyên truyền và vận động cách mạng của
hội liên hiệp thuộc địa. “Người đã viết nhiều bài báo nói về phong trào công nhân ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như tố cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân đăng trên
các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Người cùng khổ… xuất bản ở Pari. Người đã
tham gia dự đai hội lần thứ V Quốc tế cộng sản, Đại hội Quốc tế công hội đỏ, quốc tế
phụ nữ, Quốc tế thanh niên, là uỷ viên Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách cục
Phương nam. Người đã trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam…Đây là cả một quá trình phát triển từ nhận thức lý luận đến
việc kết hợp sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
và thực tiễn cách mạng Việt Nam”[14].
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ từ nhận thức lý luận mà
còn từ hoạt động thực tiễn cách mạng, đưa lý luận vào thực tiễn cách mạng. Hồ Chí
Minh là người duy nhất tìm thấy con đường đúng đắn để giải phóng cho dân tộc ta và
các dân tộc bị áp bức khác. Khi người đọc sơ thảo trong Luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Đều này cho thấy, Hồ Chí Minh không đến với chủ nghĩa Mác –
4
Lênin một cách giáo điều máy móc mà đến với chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở của sự
thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng của
người. Người là một trong những nhà hoạt động thực tiễn lý luận kiệt xuất của các dân
tộc thuộc địa bị áp bức trên toàn thế giới trong thế kỷ thứ XX cho nên những quan điểm
lý luận của người đều thấm đượm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lý luận và thực tiễn
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lý luận

Theo Hồ Chí Minh “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội được tích trữ trong quá trình lịch sử. Còn
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm phong trào công nhân từ
trước đến nay của tất cả các nước”[8].
Chúng ta nhận thấy ở Hồ Chí Minh quan niệm về lý luận đã hàm chứa trong đó
yếu tố thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của con người bao gồm cả sản xuất vật chất
và đấu tranh cách mạng. Quan niệm của Hồ Chí Minh đã hàm chứa trong nó yếu tố
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, lý luận là sự tổng hợp tất cả tri thức của con người
trong lịch sử về tự nhiên và xã hội. Đương nhiên, tri thức lý luận sẽ không có nếu không
có hoạt động thực tiễn của con người đó là thực tiễn lao động sản xuất và thực tiễn đấu
tranh cách mạng.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đã nêu một cách cụ thể hơn:
“lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với
thực tế”[5]. Theo Hồ Chí Minh “đó là lý luận chân chính”[5]. Lý luận là sự tổng kết từ
những kinh nghiệm của thực tiễn mà thành, nhưng lý luận chân chính phải được thực
tiễn kiểm nghiệm từ thực tế, được thực tế chứng minh, phải phù hợp thực tế, phải được
vận dụng vào trong thực tế. Hồ Chí Minh khi nói đến lý luận, ở nhiều bài viết, bài nói
chuyện, người dùng nhiều cách để diễn đạt khác nhau. Trong tác phẩm Đường Cách
mệnh, Hồ Chí Minh đã mượn câu nói của Lênin để mở đầu trong tác phẩm như là một
lời tuyên ngôn: “không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động…”.
Điểm cơ bản về lý luận của người muốn nhấn mạnh đó là lý luận “do kinh nghiệm từ
trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp, phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó
mà thành”[5].
Hồ Chí Minh đã xác định lý luận, đặc biệt là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
rất quan trọng. Vì nó là kim chỉ nam cho hành động, chỉ phương hướng cho chúng ta
trong thực tế. Không có lý luận thì không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý
cho khéo, kết quả thường thất bại. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của lý luận trong mối quan hệ với thực tiễn: “làm
mà không có lý luận thì không khác gì mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp

váp”[6].
5
Lý luận quan trọng như vậy, nên việc lựa chọn lý luận đúng, chủ nghĩa đúng là
yếu tố quyết định đưa đến sự thành bại của cách mạng. Không chỉ cách mạng Việt Nam
mà Hồ Chí Minh còn đề cập đến tình trạng thiếu lý luận của các nhà cách mạng phương
Đông. Người đã nhiều lần đề nghị Quốc tế cộng sản gửi tài liệu, sách báo cho các Đảng
ở phương Đông; thiết thực hơn là người đã gửi nhiều thanh niên Việt Nam sang
Mátxcơva và Quảng Châu học tập, rồi còn trực tiếp mở các lớp huấn luyện lý luận chính
trị cho thanh niên Việt Nam yêu nước.
Tuy nhiên, trong khi xác định vai trò lý luận, Hồ Chí Minh cũng nêu lên những
khuyết điểm mà cán bộ ta thường mắc phải. Ngay từ năm 1947, Hồ Chí Minh đã phải
chỉ ra rằng do “kém lý luận hoặc coi khinh lý luận, hoặc lý luận suông”[5] mà nhiều
đảng viên ta mắc phải bệnh chủ quan, kém lý luận là không nắm được lý luận thuyết
minh chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá để áp dụng vào phong trào mà không hiểu biện
chứng là cái gì? Điều đó có nghĩa là không chịu học chủ nghĩa duy vật biện chứng. Kém
lý luận là “gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo.
Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ như thế nào làm thế
ấy. Kết quả thường thất bại”[5]. Khinh lý luận là “bệnh” của những cán bộ kinh qua
công tác hàng ngày nên có bề dày kinh nghiệm, có thành tích. Họ thường coi khinh lý
luận, coi nhẹ việc học tập lý thuyết, học tập sách vở. Hồ Chí Minh nhắc nhở: Nếu họ đã
có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều…Những anh em đó
cần nghiên cứu thêm lý luận mới thành người cán bộ toàn diện. Còn lý luận suông theo
Hồ Chí Minh: lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không áp dụng
vào thực tế là lý luận suông.
Vì vậy, đối với Đảng cộng sản phải có một lý luận tiên phong. Để nhấn mạnh vai
trò lý luận tiền phong của Đảng cộng sản, Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý cán bộ đảng
viên theo chỉ dẫn của Lênin “không có lý luận thì không có phong trào cách mạng” chỉ
có một Đảng có lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò chiến
sĩ tiền phong”. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng các Đảng cộng sản anh em luôn chú trọng
lý luận “vì Đảng nhận thấy rằng lý luận vạch cho Đảng con đường đúng đắn để tiến lên

chủ nghĩa cộng sản” [8]. Người cũng lưu ý lý luận cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là vũ khí, tư tưởng kim chỉ nam cho hành động
cách mạng của Đảng nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là kinh thánh là bài
thuốc chữa bách bệnh, những lý thuyết khô cứng. Nó đòi hỏi phải nắm bắt được bản
chất cách mạng khoa học của học thuyết ấy để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam và không ngừng bổ sung phát triển. Qua các bài viết, bài nói của Hồ
Chí Minh, chúng ta thấy vai trò của lý luận rất quan trọng được thể hiện qua những
điểm chủ yếu sau:
Lý luận vũ trang cho chúng ta quan điểm và phương pháp để nhận thức đúng đắn
sự vật, định hướng cho chúng ta giải quyết công việc tốt nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
6
Lý luận giúp chúng ta đặc biệt là đảng viên, cán bộ nâng cao lập trường tư tưởng,
quan điểm cách mạng và trao dồi đạo đức cách mạng.
Nếu không có lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường
giai cấp rõ ràng đúng đắn.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực tiễn
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, thực tiễn được coi là những hoạt
động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là hoạt
động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
Thực tiễn được coi là mục đích, cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức,
thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh dùng khái niệm thực tiễn không chỉ là một khái niệm duy nhất
mà người còn dùng khái niệm “thực tế”, “thực hành” để thay cho khái niệm thực tiễn.
Mặc dù, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều khái niệm để chỉ “thực tiễn” nhưng không phải
mỗi khái niệm Hồ Chí Minh dùng mang nội dung khác nhau mà những khái niệm ấy
đều dùng để chỉ khái niệm “thực tiễn”.
Vì vậy, ta phải lưu ý khái niệm “thực tiễn” và “thực tế” khi Hồ Chí Minh dùng
trong các bài viết, bài báo, bài nói chuyện của người. Cả hai khái niệm ấy đều có nội
hàm như nhau. Người đã dùng hai khái niệm thực tiễn và thực tế trong các bài nói, bài

viết như: Sửa đổi lối làm việc (tháng 10/1947); Nói về công tác huấn luyện và học tập
(tháng 5/1950); Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá I trường Nguyễn Ái Quốc
(tháng 9/1957); Nói chuyện với cán bộ ở Trung ương về xã tham gia cải tiến quản lý
hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (ngày 9/3/1963)…
Trong diễn văn khai mạc lớp lý luận khoá I của trường Nguyễn Ái Quốc, khi đề
cập đến khái niệm về “thực tiễn” và “thực tế” cũng như sự thống nhất giữa chúng. Hồ
Chí Minh đã nêu “thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật.
Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà
cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm
công tác và tư tưởng của cá nhân chính sách và đối tượng của Đảng, kinh nghiệm lịch
sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới”[8].
Ở đây, ta thấy Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm thực tế trong lĩnh vực xã hội
không bao hàm cả mặt triết học. Thực tế là những cái gì đang tồn tại, còn thực tiễn là
hoạt động sản xuất vật chất. Vì thế khái niệm thực tế rộng hơn khái niệm thực tiễn, bản
thân thực tiễn có những mặt, những phạm vi là thực tế. Bác muốn nhấn mạnh thực tế
trong lĩnh vực xã hội và việc mà Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm thực tế thay cho thực
tiễn nhằm căn cứ vào mục đích hướng đến đối tượng cần truyền đạt thông tin. Đây
chính là cách diễn đạt dùng để diễn đạt cho quần chúng nhân dân. Người cho rằng nếu
sử dụng khái niệm thực tiễn thì quần chúng nhân dân sẽ khó hiểu còn dùng khái niệm
thực tế thì họ sẽ dễ hiểu hơn. Đây cũng là cách mà Hồ Chí Minh muốn chỉ dạy cho
7
chúng ta khi tuyên truyền cho đối tượng là quần chúng nhân dân phải sử dụng từ ngữ
cho dễ hiểu. Ví dụ như trong tác phẩm “Đời sống mới” tháng 10/1949: Bác đã phê phán
cách tuyên truyền đời sống mới mà sử dụng các khái niệm khách quan, chủ quan, tích
cực, tiêu cực làm cho quần chúng nghe hay mà chẳng hiểu gì cả. Hơn nữa ngay trong
ngôn ngữ thường dùng hằng ngày khái niệm thực tế và thực tiễn vẫn được nhân dân
hiểu và sử dụng cùng một nghĩa.
Hồ Chí Minh sử dụng hai khái niệm thực tế và thực tiễn để chỉ một nội dung.
Nhưng chúng ta có thể thấy rằng, người cũng phân biệt rõ hai khái niệm không hoàn
toàn đồng nhất được. Chúng ta thấy Hồ Chí Minh trong các bài viết, bài nói chuyện, khi

đề cập tới sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn người không bao giờ thay từ thực tiễn
bằng thực tế vì nó là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tuy nhiên, khi
người áp dụng lý luận vào thực tiễn và giải thích nguyên tắc này thì người dùng khái
niệm thực tế thay cho thực tiễn. Điều này chứng minh rằng hai khái niệm này không
đồng nhất, việc Hồ Chí Minh dùng khái niệm thực tế chỉ để cho đại đa số quần chúng
nhân dân hiểu vì họ là người ít học nên không thể hiểu được khái niệm thực tiễn. Vì thế
ta không bao giờ thấy Hồ Chí Minh viết thống nhất giữa “ lý luận và thực tế” mà ta chỉ
có thấy “sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”.
Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn cán bộ đảng viên rằng khi liên hệ lý luận
với thực tế cần tránh sự lệch lạc không hiểu vấn đề đòi hỏi phải giải quyết vấn đề thực
tế ngay một lúc vì thực tế là một quá trình lâu dài của toàn đảng, toàn dân.
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong
đó thực tiễn giữ vai trò quyết định, là thước đo đánh giá sự đúng đắn của lý luận. Đồng
thời phải thấy được lý luận là sự khái quát thực tiễn cho nên lý luận có vai trò tác động
thực tiễn thông qua sự định hướng làm cho thực tiễn phát triển phong phú thêm. Hồ Chí
Minh đã nói nhiều cách để chỉ rằng giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng
chẳng hạn như: lý luận đi đôi với thực hành hay gắn lý luận với thực tiễn…
Hồ Chí Minh nói: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[8].
Lý luận với thực tiễn là vấn đề được Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất trong công
tác giáo dục và đào tạo cán bộ. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đề
cập đến thiếu sót của cán bộ ta là kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Người
nhắc nhở cán bộ phải đem tri thức áp dụng vào thực tế, lý luận phải đem ra thực hành,
thực hành phải nhằm theo lý luận. Người đưa ra hình ảnh “mũi tên” và “cái đích” để chỉ
cho chúng ta dễ hiểu về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn: “lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn
lung tung, cũng như không có tên”[5]. “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế.

8
Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn vạn
quyển lý luận. Nếu không biết đem ra thực hành thì khác nào một cái hòm đựng
sách”[5]. “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[5]. “Làm mà không
có lý luận thì không khác gì mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”[6].
Vì vậy thực tiễn hoá lý luận và lý luận hóa thực tiễn là một trong những đặc điểm
chủ yếu của phương pháp Hồ Chí Minh.
Thực tiễn hoá lý luận là quá trình đưa lý luận vào cuộc sống, là thực hành lý luận,
đem lý luận kiểm chứng trong thực tiễn đồng thời hiện thực hoá vai trò của lý luận đối
với hoạt động thực tiễn. Nói theo cách bình dị như phong cách Hồ Chí Minh, đó chính
là gắn lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, là con
đường để khắc phục bệnh sách vở, thói lý luận suông.
Lý luận hoá thực tiễn là hoạt động nổ lực của chủ thể tư duy và hành động để tổng
kết thực tiễn, khái quát hoá thực tiễn thành lý luận thông qua việc phân tích, đánh giá,
sàng lọc những kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm lên trình độ lý luận. Thực tiễn và kinh
nghiệm được khoa học hoá bởi tư duy lý luận để trở thành lý luận. Đó cũng là giải pháp
cần thiết để thực tiễn không tách rời khỏi lý luận, không có lý luận dẫn đường dễ rơi vào
tình trạng thực tiễn mù quáng, hành động tự phát, ở bên ngoài phương pháp. Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nhấn mạnh rằng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc
căn bản thuộc về bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh chỉ rằng: học phải đi đôi với hành, học để làm việc, để làm người,
làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phục vụ tổ quốc và nhân dân. Muốn vậy thì phải
có thói quen đem lý luận liên hệ với thực tế, đem những hiểu biết lý luận đã thâu được
cùng với kinh nghiệm đã tích luỹ trong đời sống hàng ngày mà áp dụng vào các công
việc thực tế.
Phương pháp Hồ Chí Minh giữa lý luận và thực tiễn luôn luôn chú trọng tính hữu
ích thực tế, bất cứ việc gì dù to hay nhỏ cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, thiết
thực, có ích không phù phiếm, khoa trương, hình thức. Muốn đạt được kết quả đó thì
việc học phải xuất phát từ yêu cầu của công việc và phải học cặn kẽ, thấu đáo, thà biết ít

nhưng đã biết thì phải chân xác, tỉ mỉ, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất của vấn đề chứ
không hời hợt, nông cạn ở bề mặt. Người kỳ vọng nhiều ở chỗ thấy cho hết, nhìn cho
thấu. Thực tiễn là điểm xuất phát mà cũng là chỗ trở về, chỗ đi tới của mọi nhận thức.
Nhưng đó phải là thực tiễn được phân tích một cách có lý luận, có mặt lý luận ở trong
nó. Cũng như vậy, lý luận không phải tự nghĩ ra chủ quan từ đầu óc tự biện mà là lý
luận có sức nặng của thực tiễn, sinh khí của nó trong thực tiễn, bắt nguồn từ thực tiễn.
Kết hợp giữa thực tiễn hoá lý luận và lý luận hoá thực tiễn trong phương pháp Hồ
Chí Minh đòi hỏi không chỉ có quan điểm thế giới quan khoa học mà còn phải có
phương pháp sáng tạo, có trình độ học vấn, học thức ngày một cao, lại phải ra sức tích
luỹ vốn sống, kinh nghiệm phong phú, trực tiếp.
9
Với Hồ Chí Minh, học tập trong nhà trường, trong sách vở chưa đủ phải học hỏi
trong quần chúng, học ở người khác. Người biết rõ, nhận thức là cả một quá trình, phải
trải qua hành động mới biết mình dở hay ở chỗ nào, thấy mình mạnh yếu ra sao để
không ngừng rút ra kinh nghiệm mà bổ sung sửa chữa, làm cho mình mau chóng tiến bộ
và trở nên hoàn thiện.
Nhờ gắn liền thực tiễn hoá lý luận với lý luận hoá thực tiễn mà người phát hiện ra
những cái mới, phát triển lý luận để phát triển thực tiễn. Hồ Chí Minh đã diễn đạt thật
tài tình mối quan hệ lý luận và thực tiễn, học và hành, nhận thức thúc đẩy động cơ hành
động với hành động thiết thực, hiệu quả trong thực tiễn, trong hành động mà mỗi nhân
tố, mỗi quan hệ có vị trí và vai trò nổi bật riêng của nó. Hồ Chí Minh đưa ra một luận
điểm đáng chú ý về vai trò, vị trí, tác dụng của lý luận đối với thực tiễn và thực tiễn đối
với lý luận trong mỗi hoạt động con người.
“Thực hành sinh ra hiểu biết
Hiểu biết tiến lên lý luận
Lý luận lãnh đạo thực hành”[7].
Theo Hồ Chí Minh, nghiên cứu lý luận đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn
để phát triển lý luận, để thường xuyên đổi mới. Hồ Chí Minh đã làm rõ vai trò của lý
luận cũng như thực tiễn đối với hoạt động của con người. Người đòi hỏi phải coi trọng
lý luận, khoa học bằng cách ra sức học hỏi những cái hay cái tốt ở bên ngoài, nhưng

phải học hỏi một cách sáng tạo, không máy móc, giáo điều. “Phải hết sức đề phòng
những căn bệnh, những thói xấu như kiêu ngạo, tự phụ cũng như dấu dốt, tự ti, phải đề
phòng để tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước”[13].
Để nắm vững lý luận và vận dụng đúng đắn phải khách quan khoa học, chống lại
quan điểm giáo điều. Chẳng hạn khi đề cập phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội nhưng phải tiến vững
chắc. không được làm bừa, làm ẩu. Phải dần dần, từ từ, từng bước một. Phải nắm vững
quy luật phát triển của cách mạng. Phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể,
những biện pháp cụ thể”[12].
10
Chương 2
SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀ NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng
của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người hiểu sâu sắc vai trò của lý luận đối với thực tiễn cũng như
thực tiễn đối với lý luận. Cho nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, người
luôn dựa vào sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc trong hoạt động
cách mạng của mình.
Thực tiễn Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra cần phải có một lý luận soi sáng cho
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhận thức được rằng để có một lý luận đúng đắn
phải xuất phát từ thực tiễn. Với Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng chưa
đủ làm cơ sở để hình thành nên lý luận cách mạng mà cần phải có thực tiễn của các
nước từ đó người có thể so sánh đối chiếu, phân tích tổng quát và đưa ra lý luận cho
hành động cách mạng.
Việt Nam trong giai đoạn từ 1858 đến đầu thế kỷ XX là thời kỳ đất nước bị đô hộ
và đàn áp của thực dân Pháp. Nhiều phong trào nổi dậy đấu tranh chống giặc xâm lăng
đều bị thất bại. Thế giới trong giai đoạn này đang diễn ra những vấn đề đầy phức tạp.
Năm 1911, cách mạng Tân Hợi Trung Quốc do Tôn Dật Tiên lãnh đạo đã lật đổ triều
đình Mãn Thanh, nhưng chưa giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Trung

Quốc. Nước Trung Hoa vẫn là một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Nhân dân Ấn
Độ, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, cũng đã nhiều lần nổi lên chống đế quốc Anh,
nhưng đều bị chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu.
Sau cách mạng tháng Mười Nga 1917, chỉ có cách mạng tư sản Thổ Nhĩ Kỳ đã
thành công vào mùa thu năm 1923 với sự ủng hộ của Liên Xô. Sau khi giành chính
quyền, giai cấp tư sản Thổ tiến hành bắt bớ những người cộng sản giết hại đồng chí tổng
Bí thư Đảng, vứt xác xuống khe núi. “Giai cấp vô sản Thổ Nhĩ Kỳ, người đã đóng góp
rất nhiều vào cuộc đấu tranh giành độc lập thì từ nay đã bắt buộc phải tiến hành cuộc
đấu tranh khác”[3].
Cùng với thực tiễn thế giới, thực tiễn Việt Nam được Hồ Chí Minh phân tích và
tổng kết. Dựa trên quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Cái hạt nhân
của thực tế Việt Nam từ khi thực dân Pháp đặt ách thống trị là một nước phong kiến độc
lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Vì vậy cấu trúc kinh tế không giống
phương Tây. Đó là nền kinh tế mang tính chất tư bản thực dân và một phần tính chất
phong kiến, bị kìm hãm nặng nề tiến triển chậm chạp què quặt, bị đặt trong quỹ đạo
phát triển của chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân.
11
Về cơ cấu giai cấp, bên cạnh giai cấp cũ xuất hiện các giai cấp mới như giai cấp tư
sản, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp công nhân. Khi phân tích mâu thuẫn giữa các giai cấp,
Hồ Chí Minh xác định không có mâu thuẫn nào cần phải giải quyết cấp bách ngoài mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc thực dân Pháp. Nó là mâu thuẫn cơ bản, chủ
yếu của xã hội Việt Nam. Lý luận mở đường cho cách mạng Việt Nam phải tập trung
giải quyết được mâu thuẫn này.
Biểu hiện về mặt xã hội là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Họ đang cần một lý luận tiên phong dẫn đường
để khắc phục tính tự phát, tăng dần tính tự giác của phong trào công nhân và hướng
phong trào yêu nước thành phong trào yêu nước triệt để.
Thực tiễn Việt Nam còn ở tính thống nhất mà đa dạng của một nên văn hoá có lịch
sử hàng ngàn năm. Theo Hồ Chí Minh đã là người Việt Nam thì đều có chung một

truyền thống tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, đoàn kết. Lý luận cách mạng ở Việt
Nam phải được xây dựng và phát triển trên nền văn hoá thống nhất đó.
Tuy nhiên thực tiễn lớn nhất mà chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm là vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa. Muốn giải quyết được yêu cầu đó, lý luận cách mạng phải tập trung
giải quyết vấn đề đoàn kết trong nước và đoàn kết với các dân tộc thuộc địa vạch trần
tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh nắm vững quan điểm thực tiễn tức là khẳng định và nhấn mạnh vai
trò của thực tiễn vừa với tư cách là nguốn gốc, là động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý, đồng thời nó còn là mục đích của nhận thức.
Lịch sử đặt ra nhu cầu bức thiết phải có một hệ tư tưởng mới, một đường lối mới
đủ sức soi sáng, dẫn dắt con đường đấu tranh cứu nước giải phóng dân tộc đi tới thắng
lợi. Hồ Chí Minh quan sát thực tiễn các nước và Việt Nam, người cho rằng để có thể
thực hiện được triệt để sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào được cơm ăn áo mặc, mọi người ai cũng được học hành nên đã có kết
luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”[9]. Và chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[11].
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam phải đi theo là con đường cách
mạng vô sản, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận thức
đúng và giải quyết sáng tạo mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng dân tộc
dân chủ. Đây là một đảm bảo đầu tiên cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên mở các lớp
huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động, gây dựng và phát động
phong trào. Tác phẩm Đường cách mệnh là tác phẩm mà Hồ Chí Minh đã trình bày rõ
con đường mà cách mạng Việt Nam phải trải qua để đi tới mục tiêu của nó: độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm được trình bày dễ hiểu, tập trung làm rõ nội dung,
nhiệm vụ của giai đoạn đầu là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và bọn phong kiến tay sai,
12
giành lại độc lập cho dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ ra nhân tố đảm bảo cho cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đi tới thắng lợi là:

Trước hết phải có Đảng cách mệnh, Đảng có vững mạnh cách mệnh mới thành
công.
Chủ nghĩa chân chính để có thể làm cơ sở lý luận cho cuộc cách mạng là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Cách mạng vô sản thành công phải là sự kết hợp sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc.
Cách mạng thành công không chỉ là sự kết hợp sức mạnh dân tộc mà còn gắn liền
với sức mạnh thế giới.
Phương pháp cách mạng phải là bạo lực cách mạng, trước hết là bạo lực chính trị
của quần chúng.
Hồ Chí Minh đã viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được
dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới”[3]. Trong quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát từ
yêu cầu cấp bách của cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thay đổi lập luận của mình:
có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, coi giải phóng dân tộc đã bao
hàm một phần giải phóng giai cấp và là tiền đề để tiến tới giải phóng giai cấp hoàn toàn.
Hội nghị trung ương lần thứ VIII (tháng 5/1941) của Đảng cộng sản Đông Dương, dưới
sự chủ trì của Hồ Chí Minh đã phân tích rõ: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc,
giải phóng không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”[1]. Do đó các Đảng cộng sản ở thuộc địa phải nắm lấy
ngọn cờ dân tộc. Trước hết phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành lại độc lập dân tộc
để mở đường tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng không phải Đảng cộng
sản nào cũng nhận thức được sáng tỏ vấn đề, cũng giương cao ngọn cờ dân tộc và giữ
vững được độc quyền lãnh đạo trong cách mạng dân tộc dân chủ như Đảng cộng sản
Việt Nam. Đây chính là đặc sắc trong tư duy bản chất liên hệ thực tiễn để đưa ra lý luận
của Hồ Chí Minh.
Từ đó, người đã dẫn dắt con đường hoạt động cách mạng Việt Nam giành thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp và giải phóng dân tộc.
Giải quyết yêu cầu thực tiễn giải phóng dân tộc đã thực hiện, Hồ Chí Minh đã tiếp

tục nhìn lại yêu cầu thực tiễn mới đặt ra và xây dựng một lý luận mới. Sự thắng lợi của
dân tộc ta sau năm 1945 đặt ra cho Hồ Chí Minh một yêu cầu về lý luận. Lý luận ở đây
không phải là giải phóng dân tộc nữa mà phải xây dựng chế độ dân chủ mới. Chế độ dân
chủ nhân dân làm tiền đề cho thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn Việt Nam sau 1945 yêu cầu Hồ Chí Minh phải xây dựng một nhà nước
như thế nào, một xã hội nào để có thể đưa người dân đến với tự do, ấm no hạnh phúc.
Từ yêu cầu thực tiễn ấy, Hồ Chí Minh đưa ra lý luận chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã
13
hội thì dân tộc Việt Nam mới hoàn toàn được tự do, bình đẳng. Người lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hoàn cảnh nước ta.
Người đặc biệt nhạy cảm với lý luận về lợi ích của người lao động. Đó là lợi ích hàng
ngày của người lao động, người nông dân, là lợi ích gắn kết với cuộc sống của họ. Từ
thực tiễn, người thấy rõ “chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó
khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là
ích chung và lợi riêng… làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện
nay”[8].
Từ quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã trình bày rõ
sự cần thiết phải tìm tòi sáng tạo về phương pháp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta: “Chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để
tiến lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn
giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ mày mò, muốn đỡ sai phạm, sai lầm, thì chúng
ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một
cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin để dùng
lập trường quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh
nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như
thế, chúng ta mới có thể dần dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã
hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải học tập lý luận, phải nâng
cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết của cán bộ nòng cốt”[8].

Trong nhiều luận điểm của mình về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn
gắn cách mạng chủ nghĩa xã hội với khoa học tri thức và chú trọng trí thức hiền tài, coi
đó là tài sản quý của đất nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Người
nói: “Chủ nghĩa xã hội với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô
tận”[10] và “cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học, kỹ thuật,
với sự phát triển văn hoá của nhân dân”[10]. Đưa sức mạnh của khoa học, của văn hoá
vào thực tiễn để xây dựng chủ nghĩa xã hội là một chiến lược, một đường lối và phương
pháp. Hồ Chí Minh tính đến công việc lâu dài của một cuộc vận động giáo dục văn hoá,
trước hết là nâng cao học vấn toàn dân, cải tạo tâm lý ý thức nhân dân cho phù hợp với
đời sống mới. Người đặt nhiều hy vọng ở thế hệ trẻ sẽ lớn lên, trưởng thành trong sự
giáo dục, đào luyện về khoa học, tư tưởng, đạo đức và chính trị của chủ nghĩa xã hội. Ở
đây, sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa tư tưởng và phương
pháp, Hồ Chí Minh tìm thấy sự biểu hiện chân thực nhất.
Với tầm nhìn khoa học của tư tuởng, phương pháp mới có thể đi tới thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội là xây dựng, kiến thiết một chế độ mới, giáo dục đào tạo con người
mới. Người cảm nhận rằng dốt nát là một sự cản trở ghê gớm đối với sự phát triển. Nó
là một kẻ địch nguy hiểm, giam hãm dân ta trong tăm tối lạc hậu. Một dân tộc dốt là
14
một dân tộc yếu. Một dân tộc nghèo là một dân tộc hèn. Một dân tộc ỷ lại vào nước
ngoài, dân tộc đó không xứng đáng được tự do độc lập. Sau lễ tuyên bố độc lập ngày
2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố rằng chính phủ phải quyết tâm hành động vì dân, của
dân, công việc của chính phủ là chăm lo hết mình cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của
dân. Do đó phải tập trung giải quyết ngay những việc cấp bách: chống giặc đói, chống
giặc dốt, chống giặc ngoại xâm, xây dựng thể chế, phát triển kinh tế, văn hoá…
Bằng lý luận và thực tiễn, người đã thấy rõ: “chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại cho nhân dân ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một
dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam
độc lập”[8]. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch
chống nạn mù chữ”[8]. Người hiểu rằng: Địch dốt nát giúp địch ngoại xâm. Địch dốt nát
tấn công ta về tinh thần cũng như địch ngoại xâm tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực

dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực
dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng. Hồ Chí Minh đã hy vọng và mong chờ thế hệ trẻ:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các em”[4].
Và cứ tiếp tục, thực tiễn Việt Nam đặt ra yêu cầu như thế nào thì lý luận trong
hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh được bổ sung và giải quyết thực tiễn ấy. Cho nên
phương pháp luận trong hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là xây dựng lý luận để
thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam không có mục tiêu tự nó. Nói như C.Mác, chủ nghĩa cộng sản phải là
câu trả lời cho một sự mong muốn của con người mà là câu trả lời cho sự vận động của
lịch sử hiện thực – mà lý luận về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện
thực, phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch
sử cụ thể, không rập khuôn, giáo điều, không chủ quan. Lý luận về con đường cách
mạng vô sản ở Việt Nam phải được xây dựng từ thực tế Việt Nam và hướng vào giải
phóng những vấn đề bức xúc của thực tiễn Việt Nam đặt ra.
2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để
khắc phục và ngăn ngừa bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
Tư duy giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những quan điểm, những
nguyên lý bất biến, không tính đến những tài liệu mới từ thực tiễn, những điều kiện lịch
sử cụ thể của chân lý. Trong triết học, chủ nghĩa giáo điều gắn liền với quan điểm phản
biện chứng, phủ nhận sự tiến bộ. Trong chính trị, chủ nghĩa giáo điều dẫn tới chủ nghĩa
bè phái. Kinh nghiệm là một cực đoan, những người tư duy theo lối kinh nghiệm thường
phóng đại theo quan điểm siêu hình về vai trò của nhận thức cảm tính, của kinh nghiệm,
không đánh giá đúng mức vai trò của trừu tượng hoá và do đó phủ nhận tính tích cực,
chủ động của tư duy sáng tạo. Cả hai lối tư duy giáo điều và kinh nghiệm đều là những
lối tư duy không khoa học, siêu hình kinh viện, lối tư duy của những người sản xuất
15
nhỏ. Đây là sản phẩm của nền sản xuất nông nghiệp, lạc hậu, không cần lý luận, khoa
học. Thực tiễn lặp đi lặp lại ít có sự biến đổi đã in vào ý thức lối tư duy kinh nghiệm

vụn vặt, nhận thức bị xơ cứng trong lớp vỏ những kinh nghiệm, những quan niệm được
coi như những khuôn vàng thước ngọc.
Lối tư duy như vậy là do chúng ta đã đẩy lý luận ra xa và không liên hệ thực tiễn.
Chính việc tách rời lý luận và thực tiễn thì sớm muộn gì cũng dẫn đến căn bệnh giáo
điều. Theo Hồ Chí Minh đó là lý luận suông, thực tiễn không được hướng dẫn chỉ đạo,
tổ chức và tổng kết bằng lý luận, tạo cho bệnh kinh nghệm chủ nghĩa nảy sinh tồn tại và
phát triển, thực tiễn trở nên mù quáng. Nếu lý luận thực sự gắn liền với thực tiễn, do
thực tiễn quy định thì bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa cũng không thể
tồn tại được. Nhưng thực tiễn càng phát triển đòi hỏi lý luận cũng phải phát triển để chỉ
đạo, tổ chức thực hiện để thực tiễn không bị mất phương hướng.
Theo Hồ Chí Minh, để quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì
trước hết cần khắc phục “bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông”
đối với các cán bộ, đảng viên. Nếu chúng ta coi khinh lý luận, kém lý luận, lý luận
suông chúng ta sẽ mắc phải bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo điều sách vở. Có lý
luận đúng đắn khoa học cần phải kết hợp với kinh nghiệm thực tế một cách chặt chẽ,
biện chứng, lý luận phải gắn với thực tiễn cách mạng, liên hệ với thực tiễn cách mạng.
“Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn
sinh động”[8]. Đó là những yêu cầu mà Hồ Chí Minh đặt ra cho các cán bộ, đảng viên.
Chúng ta thấy rằng, tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn,
do thực hành mà sinh ra. Tri thức kinh nghiệm có vai trò quan trọng trong đời sống
hằng ngày, trong công tác cách mạng và thực nghiệm khoa học. Tuy nhiên, tri thức kinh
nghiệm cũng có những hạn chế nhất định bởi nó là sự hiểu biết riêng rẽ, rời rạc, không
liên hệ, không quan hệ… không thể hiện được tính bản chất, tính tất yếu của sự vật hiện
tượng. Vì vậy, nếu đề cao kinh nghiệm, coi thường lý luận thì sẽ rơi vào “bệnh kinh
nghiệm”. Hồ Chí Minh nói: “có bệnh kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ”[5].
Việt Nam trải qua cuộc chiến tranh xâm lược do đó điều kiện học tập của các cán
bộ rất hạn chế ngược lại họ có nhiều kinh nghiệm quý báo. Chính vì có kinh nghiệm,
một số cán bộ không tiếp tục học tập nên thường họ coi khinh lý luận, đề cao kinh
nghiệm của mình. Hồ Chí Minh nói: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ làm được

việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại
mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: Nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết
thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều”[5].
Nhưng nếu đề cao quá lý luận, coi thường kinh nghiệm thì sẽ rơi vào “chủ nghĩa
giáo điều”. Chủ nghĩa giáo điều là tư tưởng tuyệt đối hoá vai trò của lý luận, coi lý luận
là bất di bất dịch, là vạn năng có thể giải quyết mọi “bài toán” của hiện thực. Bệnh giáo
điều coi thường kinh nghiệm, nếu có áp dụng lý luận vào thực tiễn cũng chỉ dừng ở
16
nguyên lý trừu tượng không có quan điểm lịch sử - cụ thể và sự phát triển của hiện thực.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần
đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều… lý
luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo, lý luận luôn luôn
cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong hoạt động thực tiễn sinh
động”[8].
Hồ Chí Minh còn nhắc nhở cán bộ trong khi chống chủ nghĩa giáo điều cấn tránh
rơi vào chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại nhân danh đặc điểm dân tộc, nhân danh thực
tế để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Để ngăn ngừa bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vai trò rất quan trọng của lý luận và học tập lý luận, thường xuyên nhắc nhở mọi
cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập và vận dụng lý luận trên nguyên tắc thống nhất
lý luận và thực tiễn – là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí
Minh đã phát hiện những biểu hiện của bệnh giáo điều trong cán bộ quản lý lãnh đạo.
Người đã kiên quyết đấu tranh với những sai lệch trong cả tư tưởng và hành động của
những người mắc phải căn bệnh đó. Người phê phán cách tiếp thu lý luận theo kiểu
thuộc lòng máy móc. Người cho rằng lý luận chỉ có sức sống khi nó gắn thực tiễn, soi
sáng thực tiễn, được bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện trên cơ sở những kinh nghiệm thực
tiễn mới. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ: “Việc học tập lý luận của các đồng chí không
phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông mà nhằm làm thế nào
cho công tác của các đồng chí tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của
chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa

Mác – Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt
những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học tập
lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế”[8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những người mắc bệnh khinh lý luận đề cao kinh
nghiệm, nếu không có lý luận hoặc lý luận non nớt mà chỉ đạo thực tiễn không những
kém hiệu quả mà nhiều khi còn dẫn tới “những khuynh hướng sai lầm hoặc “tả” hoặc
“hữu”… không đảm bảo được việc thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính
phủ”[6].
Vì vậy, trong hoạt động phải nắm vững nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn để khắc phục có hiệu qủa bệnh giáo điều kinh nghiệm của cán bộ ta trong điều kiện
hiện nay.
2.3. Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
Hồ Chí Minh trong hoạt động của chúng ta
Hoc tập và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt
động của chúng ta là cơ sở để có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả và đúng
đắn. Trong số những luận điểm của Hồ Chí Minh có một nguyên tắc mà chúng ta cần
phải thực hiện đó là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
17
Nắm vững nguyên tắc giữa lý luận và thực tiễn là yêu cầu cần thiết cho bản thân
của mỗi người trong quá trình hoạt động. Bản thân Hồ Chí Minh đã nắm vững nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, người đã vận dụng nguyên tắc ấy trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập cho dân tộc và xây dựng một xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Đảng ta
đã từng bước khắc phục những quan điểm sai lầm và bổ sung thêm trong đường lối đổi
mới lý luận, bổ sung lý luận từ trong những biến đổi của thực tiễn. Sai lầm của Đảng ta
trong nhưng năm 70, 80 của thế kỷ XX đã để đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng. Đó là do chúng ta rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí nóng vội
muốn đốt cháy giai đoạn, muốn mau chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng
việc xây dựng “quan hệ sản xuất đi trước một bước” không phù hợp với “trình độ của

lực lượng sản xuất” đồng thời ưu tiên phát triển công nghiệp nặng dẫn đến hàng loạt các
nhà máy xây dựng dở dang vì thiếu vốn, kỹ thuật và cơ sở hạ tầng. Chúng ta rơi vào
bệnh chủ nghĩa giáo điều kinh nghiệm, rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên
Xô, học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc… một cách máy móc không tính
đến đặc thù của đất nước nghèo nàn, lạc hậu lại vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh kéo
dài. Chúng ta kéo dài quá lâu nền “kinh tế bao cấp” chỉ thích hợp trong chiến tranh, dẫn
đến tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự phân phối của nhà nước, trông chờ vào sự viện trợ
của nước ngoài. Chúng ta kém phát triển về mặt lý luận đã sai lầm trong việc đồng nhất
kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế bao cấp với kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Quá đề cao nhà nước chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp mà coi nhẹ việc
điều hành xã hội bằng luật pháp và bằng các động lực kinh tế… Nguyên nhân đó là do
lý luận của chúng ta không gắn với thực tiễn, xa rời thực tiễn.
Vì vậy trên quan điểm Hồ Chí Minh “lý luận gắn với thực tiễn”, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đảng ta xác định con đường cách mạng Việt
Nam đã bước vào thời kỳ mới cho nên phải có đường lối đúng, chính sách đúng trên cơ
sở tổng kết thực tiễn. Tại Đại hội VI năm 1986 Đảng ta đã đổi mới tư duy và phát triển
kinh tế theo một hướng mới. Chính vì vậy, từ khi đổi mới tư duy Việt Nam ta đã từng
bước phát triển.
Qua 20 năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Đến nay Đảng ta đã bước đầu
hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở cho đường lối của
Đảng, góp phần bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Đã xác định rõ hơn mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là xã hội do nhân dân dân làm chủ, có nền kinh tế
phát triển cao, bền vững, với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp, có nền
18
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, được phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình

đẳng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Tuy nhiên mỗi lần Đại hội, Đảng ta luôn luôn bổ sung những quan điểm lý luận
mới trên cơ sở thực tiễn diễn ra và thay đổi. Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, chỉnh
đốn, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở những kinh nghiệm trong công cuộc đổi
mới, từng bước bổ sung nhằm làm cho đường lối đổi mới ngày một hoàn chỉnh hơn. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ, hàng phút,
một chủ trương của ta hôm nay đúng hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo
kiểm điểm những tư tưởng hành vi của chúng ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng
nhất định ta sẽ không theo lập tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi…”[4].
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, trên nền tảng tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta chủ trương tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá và
hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Chúng ta thấy rằng để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu qủa thì
phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận
dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh
nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực
tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi dưỡng
lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đứng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện
pháp cơ bản để ngăn ngừa khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa
hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta
phải tìm ở cả chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như chính thực tiễn
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết những vấn đề thực tiễn
hôm nay một cách có lý luận.
19

KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, ta có thể thấy rằng tư tưởng triết học của người không đơn thuần mang tính
chất lý luận mà rất gần với thực tiễn. Chúng ta có thể vận dụng quan điểm của người
trong mọi hoạt động.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không phải
mang tính chất tự phát mà là sự kế thừa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo nguyên tắc ấy trong
hoạt động thực tiễn cách mạng của mình.
Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ rõ khái niệm lý luận, thực tiễn được hiểu như thế
nào. Điểm mới ở Hồ Chí Minh là người đã sử dụng khái niệm thực tế thay cho khái
niệm thực tiễn. Đây là cách mà Hồ Chí Minh muốn đưa quan điểm của mình đến với
mọi tầng lớp để họ dễ dàng tiếp thu và hiểu rõ quan điểm của người. Hồ Chí Minh đã
chỉ ra vai trò của lý luận cũng như thực tiễn, quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn.
Từ việc hiểu rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
lấy đó làm cơ sở trong quá trình hoạt động cách mạng. Người đã quan sát thực tiễn Việt
Nam, thực tiễn thế giới và đề ra những đường lối, chiến lược trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân phương
Tây. Nhiệm vụ giải phóng đất nước hoàn thành, người tiếp tục đề ra mục tiêu của việc
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa với yêu cầu của thực tiễn mới. Những lý luận của Hồ
Chí Minh đều phục vụ thực tiễn. Cho nên, lý luận của Hồ Chí Minh không xa rời thực
tiễn mà được thực tiễn kiểm nghiệm. Điều này đã làm cho hoạt động cách mạng của Hồ
Chí Minh luôn đúng đắn.
Trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, người đã vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều
và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhắc nhở các cán bộ, đảng viên là những
người lãnh đạo cho nên phải tránh xa vào những căn bệnh đó nếu không sẽ làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của quốc gia dân tộc.
Ngày nay, chúng ta học tập quan điểm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực

tiễn làm nền tảng trong hoạt động của mình. Yêu cầu này rất quan trọng và cần thiết đối
với đội ngũ lãnh đạo của Đảng, họ là những người đề ra lý luận để phục vụ thực tiễn,
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì vậy quán triệt quan điểm này là phương hướng cho
hoạt động của chúng ta.
Chúng ta không chỉ học tập ở Hồ Chí Minh một quan điểm mà có thể nói toàn bộ
tư tưởng, quan điểm của người. Bởi tư tưởng của người có ý nghĩa rất quan trọng đối
với chúng ta trong quá trình hoạt động. Vì thế học tập và làm theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị
quốc gia.
2. Đoàn Văn Thọ và nnk (2007), Giáo trình triết học, Nxb. Lý luận chính trị.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (1981), Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học.
14. Lê Hữu Nghĩa (2002), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động
15. Trần Dân Tiên (1986), Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
21

×