Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.7 KB, 11 trang )

KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC MẦM NON
1. Lời giới thiệu
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở
trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp
theo. Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn
diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành
nên nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề
cần thiết đặt nền tảng cho việc học tập ở cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt
đời. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền
giáo dục tốt”. Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, nhất là ở bậc học mầm non là
tiền đề quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu đổi mới
của đất nước.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
nhu cầu gửi con em vào các trường mầm non của nhân dân là rất lớn. Chính vì vậy
mà quy mô giáo dục mầm non ngày càng tăng, mạng lưới giáo dục mầm non được
củng cố và phát triển rộng trong cả nước với chủ trương đa dạng hoá các loại hình
công lập, tư thục…Quyết định số 60/2011/QĐ- TTg ngày 26/10/2011 của Thủ
tướng Chính phủ “Quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai
đoạn 2011- 2015”, được ban hành và triển khai thực hiện. Sự quan tâm sâu sắc của
Đảng và Nhà nước giành cho giáo dục mầm non, chất lượng giáo dục mầm non là
một trong những căn cứ quan trọng cho những chủ trương biện pháp và hoạt động
giáo dục tiếp theo nhằm nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục.
Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục mầm
non của tỉnh luôn nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành
nhiều cơ chế chính sách thúc đẩy GDMN phát triển: quy mô trường lớp, chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ ngày một tăng cường; Chính sách về xây dựng trường, lớp,
bồi thường, giải phóng mặt bằng mở rộng diện tích đất đai trường học; chế độ cho
giáo viên mầm non, hỗ trợ học phí cho các cháu mẫu giáo con nông dân... Do đó mà
giáo dục mầm non Vĩnh phúc đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Phát triển


qui mô trường, lớp đa dạng hóa các loại hình giáo dục. Số trường, lớp, trẻ mầm non
tăng đều hằng năm; Hiện có 184 trường (173 trường MN công lập, 11 trường MN tư
thục, 94 cơ sở tư thục được cấp giấy phép hoạt động giáo dục. Tỷ lệ trẻ nhà trẻ (từ 636 tháng tuổi) ra lớp đạt 52,1%; Tỷ lệ trẻ mẫu giáo (36 -72 tháng tuổi) ra lớp 98,8%,
thấy rằng các địa phương rất quan tâm đầu tư xây dựng mới trường MN. Các trường
MN đã thực hiện tốt công tác xã hội hóa, thu hút trẻ đến trường tăng đều hàng năm
và giao chỉ tiêu trẻ mẫu giáo/lớp đúng qui định Điều lệ Trường mầm non. Trẻ 5 tuổi
huy động ra lớp đạt 99,9% trở lên trong 3 năm gần đây, riêng từ năm 2012 có 19.868
cháu mẫu giáo 5 tuổi và được Bộ GD&ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập GDMN trẻ
em 5 tuổi. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên mầm non có trình độ chuyên môn vững
vàng, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiêm cao, có ý thức vươn lên
về mọi mặt.
1


Hiện nay, trước yêu cầu đổi mới chương trình Giáo dục Mầm non nằm trong xu
hướng chung của đổi mới GD&ĐT. Đặc biệt là đổi mới chương trình Giáo dục Tiểu
học đặt ra cho Giáo dục Mầm non cần có sự tiếp nối có hiệu quả, chuẩn bị tốt cho trẻ
vào lớp 1. Chương trình Giáo dục Mầm non là căn cứ cho việc quản lý, chỉ đạo và tổ
chức chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 72 tháng tuổi ở tất cả các cơ sở Giáo
dục Mầm non. Đồng thời là căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng giáo viên Mầm non, tăng
cường cơ sở vật chất và đảm bảo các điều kiện thực hiện chương trình Giáo dục
Mầm non có chất lượng. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện chương trình GDMN, cán
bộ quản lý, giáo viên nhận thấy chương trình linh hoạt, mềm dẻo tạo điều kiện cho
họ thực hiện một cách sáng tạo, lựa chọn các nội dung và hoạt động giáo dục một
cách phù hợp với khả năng, sở thích và hứng thú của trẻ. Trẻ học chương trình
GDMN tự tin, nhanh nhẹn, chủ động trong giao tiếp và tích cực tham gia vào các
hoạt động. Đặc biệt chương trình có sự tham gia góp sức của các bậc cha mẹ trong
chuẩn bị môi trường học tập cho trẻ ở lớp, ở trường và chăm sóc giáo dục trẻ tại
gia đình.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chương trình GDMN vẫn còn nhiều hạn

chế như: Kinh phí đầu tư cơ sở vật chất mua sắm trang thiết bị trong thực hiện
chương trình giáo dục mầm non ở một số trường vùng nông thôn còn hạn hẹp, các
thiết bị, phương tiện hiện đại để phục vụ hoạt động giáo dục trẻ còn ít, một số ít cán
bộ quản lý, giáo viên năng lực còn hạn chế, chưa dám mạnh dạn đổi mới sáng tạo,
đôi khi còn dập khuôn máy móc trong thực hiện chương trình. Công tác quản lý, chỉ
đạo của một bộ phận cán bộ quản lý còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; Lập kế hoạch
hoạt động còn theo thói quen cũ, chưa chú ý thay đổi, chưa chú ý đến việc phát huy
tính tích cực của trẻ; trẻ ít được thực hành, trải nghiệm, mặt khác chưa chú ý đến
việc lựa chọn nội dung tổ chức các hoạt động cho từng độ tuổi. Việc vận dụng các
phương pháp giáo dục phù hợp với từng nội dung của hoạt động theo hướng phát
huy tính tích cực của trẻ, phù hợp với đối tượng còn nhiều hạn chế. Khắc phục được
tình trạng trên là một việc làm quan trọng và thiết thực góp phần vào nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non trên địa bàn tỉnh. Để thực hiện được đòi hỏi
người làm công tác quản lý cần có những biện pháp sáng tạo trong công tác quản lý,
chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chương trình GDMN.
I. Những vấn đề cơ bản của chương trình GDMN
1. Cơ sở lý luận của việc ban hành chương trình GDMN
Chương trình Giáo dục mầm non mới được biên soạn trên cơ sở quy định của
Luật Giáo dục và đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ban hành theo
Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009.
Chương trình được ban hành xuất phát từ những lí do: Thực hiện chủ trương
đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục mầm non
nói riêng của Đảng và Nhà nước; Sự đổi mới chương trình của các cấp học, đặc
biệt là tiểu học; Những bất cập, hạn chế của Chương trình cải cách được ban hành
từ năm 1994, 1995 như chương trình chủ yếu tập trung đề cập nội dung giáo dục
mà chưa thể hiện đầy đủ các thành tố khác của chương trình, nội dung trong các
hoạt động giáo dục chưa mang tính tích hợp, chưa tạo được sự gắn kết, nội dung
các hoạt động học tập còn nặng về cung cấp kiến thức riêng lẻ, chưa coi trọng việc
2



hình thành và phát triển các năng lực, kĩ năng sống cho trẻ; Những ưu điểm của
Đổi mới hình thức thực hiện từ năm 2000; Những nhu cầu và sự phát triển của trẻ
trong những năm gần đây có sự thay đổi; Những xu hướng đổi mới giáo dục nói
chung và giáo dục mầm non nói riêng trên thế giới và trong nước.
Chương trình GDMN được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo
quy trình khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm, cán bộ
quản lí, giáo viên mầm non. Chương trình Giáo dục Mầm non được ban hành là
chương trình khung, có kế thừa những ưu việt của các chương trình chăm sóc, giáo
dục trẻ trước đây, được phát triển trên các quan điểm đảm bảo đáp ứng sự đa dạng
của các vùng miền, các đối tượng trẻ, hướng đến sự phát triển toàn diện và tạo cơ
hội cho trẻ phát triển. Trên cơ sở chương trình khung các cơ sở Giáo dục Mầm non
xây dựng kế hoạch năm học và tổ chức thực hiện chương trình phù hợp với địa
phương; trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường, giáo viên chủ động xây dựng kế
hoạch phù hợp với nhóm/lớp, khả năng của cá nhân trẻ và điều kiện thực tế của địa
phương. Chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động
của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp với kinh
nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương.
2. Mục tiêu của chương trình GDMN
Mục tiêu của chương trình là hướng đến sự phát triển toàn diện và tạo cơ hội
cho đứa trẻ sự phát triển toàn diện về tất cả các mặt: Thể chất; ngôn ngữ; nhận thức;
tình cảm xã hội và thẩm mĩ; chú trọng hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý,
năng lực chung của con người; phát triển tối đa tiềm năng vốn có, hình thành những
kỹ năng sống cần thiết cho trẻ phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng, xã hội;
chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau. Nội dung chương trình chủ yếu được tổ
chức thực hiện theo hướng tích hợp và tích hợp theo chủ đề gần gũi thông qua các
hoạt động đa dạng, thích hợp với trẻ và điều kiện thực tế của địa phương. Phương
pháp giáo dục: Tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động với các hình thức đa
dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu, hứng thú và hoạt động tích cực của trẻ; tạo cơ hội
cho trẻ hoạt động, trải nghiệm, khám phá bằng vận động thân thể và các giác quan

dưới nhiều hình thức; chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi; coi
trọng việc tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động.
Đổi mới giáo dục mầm non và đổi mới chương trình giáo dục mầm non là tất
yếu trong xu hướng đổi mới của giáo dục và đào tạo nói chung. Đây là xu hướng tất
yếu phù hợp với điều kiện của đất nước và trình độ của giáo viên, góp phần nâng
cao chất lượng của công tác giáo dục.
II. Thực trạng công tác chỉ đạo thực hiện chương trình GDMN trong các
trường mầm non tỉnh Vĩnh Phúc
Đảm bảo chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ luôn là nhiệm vụ được coi trọng
hàng đầu trong các trường mầm non tỉnh Vĩnh Phúc. GDMN Vĩnh Phúc đã xác
định lấy chất lượng để duy trì và phát triển số lượng. Sau khi có Nghị Quyết
09/2010/NQ-HĐND ngày 19/12/2010 của Hội đồng nhân dân về tỉnh Vĩnh Phúc về
việc chuyển đổi các trường mầm non bán công của tỉnh sang loại hình công lập,
100% GVMN ngoài biên chế được hưởng lương theo trình độ đào tạo, tăng lương
định kỳ, phụ cấp đứng lớp, hỗ trợ đóng BHXH, BHYT từ ngân sách Tỉnh. 100% trẻ
3


MG con nông thôn được miễn học phí từ 2010 đến nay. GDMN Vĩnh Phúc ngày
càng được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp vừa là nội dung tuyên truyền, thuyết
phục cộng đồng xã hội nhằm tạo được niềm tin trong các bậc phụ huynh.
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng nội
dung kế hoạch hệ thống văn bản chỉ đạo triển khai chương trình giáo dục mầm non
qua từng năm học. Chỉ đạo các đơn vị thực hiện theo đúng lộ trình của kế hoạch từ
năm học 2009 - 2010 Sở chỉ đạo thí điểm chương trình GDMN mới tại các trường
trọng điểm, trường chuẩn quốc gia và những trường có điều kiện, toàn tỉnh có 108
trường đạt 64,2%; năm học 2010 - 2011 Sở triển khai chương trình GDMN mới tới
100% các trường mầm non và 90% số lớp; năm học 2011- 2012 Sở triển khai đại trà
chương trình GDMN mới tới 100% số trường và 99% lớp mầm non. Đến năm học

2012- 2013 chỉ đạo 100% trường, lớp mầm non thực hiện chương trình GDMN.
Việc thực hiện chỉ đạo chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo độ tuổi được
trú trọng. Hiện nay 100% số trường, lớp thực hiện chương trình GDMN theo
Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ Trưởng Bộ
GD&ĐT. Các trường đã chủ động xây dựng kế hoạch năm, tháng, tuần theo quan
điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm; 89% trẻ được đánh giá đạt khá trở lên theo các
lĩnh vực phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẩm mỹ. Giáo
viên ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào giảng dạy tổ chức các hoạt động
giáo dục đã phát huy tính tích cực học tập, vui chơi, sáng tạo ở trẻ. Chương trình
GDMN giúp trẻ tự tin, chủ động, nhanh nhẹn, hoạt bát hơn trong giao tiếp và tham gia
tích cực vào các hoạt động giáo dục. 100% trẻ 5 tuổi được theo dõi đánh giá sự phát
triển của trẻ trong cả năm học và đạt các chỉ số theo bộ Chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.
100% CBQL,GVMN tham gia tập huấn chương trong chương trình GDMN.
CBQL, giáo viên chủ động lập kế hoạch, linh hoạt trong tổ chức thực hiện chương
trình, chủ động, sáng tạo trong các hoạt động giáo dục. Giáo viên tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin, soạn giáo án điện tử elearning trong tổ chức các hoạt động giáo
dục. Giáo viên biết lựa chọn những chỉ số trong bộ Chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi vào
hỗ trợ thực hiện chương trình GDMN một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong các hoạt
động của trẻ, giáo viên luôn tạo môi trường theo hướng mở, biết tận dụng môi trường
sẵn có để tổ chức các hoạt động cho trẻ trải nghiệm, khám phá. Tổ chức môi trường
học tập cho phù hợp chủ đề, làm đồ dùng, đồ chơi bổ sung vào từng chủ đề giúp trẻ
hứng thú tích cực tham gia vào các hoạt động.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chương trình GDMN còn gặp phải những
khó khăn: Nhận thức của CBQL, GV về chương trình chưa thật đầy đủ. Khi tổ
chức các hoạt động giáo dục, một số giáo viên ôm đồm quá nhiều nội dung tích
hợp dẫn đến hiệu quả giáo dục chưa cao. Tổ chức môi trường giáo dục ở một số
trường nông thôn, miền núi chưa phong phú, trang trí nhóm lớp chưa thực sự hấp
dẫn trẻ, khai thác và sử dụng đồ dùng đồ chơi phục vụ các hoạt động chưa thực sự
hiệu quả. Khả năng ứng dụng CNTT của một số giáo viên trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ ở trường mầm non còn hạn chế. Việc chỉ đạo nâng cao chất

lượng thực hiện chương trình GDMN nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ là cần thiết đáp ứng với yêu cầu đổi mới GDMN trong giai đoạn hiện nay.
4


III. Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng thực hiện chương trình GDMN
trong các trường mầm non tỉnh Vĩnh Phúc
1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ CBQL - GVMN trong thực hiện chương
trình GDMN
Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên mầm non
(GVMN) hiểu rõ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới chương trình
GDMN. Trên cơ sở đã nhận thức đúng đắn, sâu sắc, cán bộ quản lý, giáo viên tìm
được những biện pháp phù hợp thay đổi tư duy, suy nghĩ cho công tác quản lý, xây
dựng kế hoạch thực hiện chương trình phù hợp với điều kiện thực tế địa của phương.
Để nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của chương trình cho cán bộ, giáo
viên, nhân viên trong nhà trường đòi hỏi hiệu trưởng phải thực hiện tốt các nội dung
sau:
+ Chỉ đạo sưu tập các giáo trình, tài liệu, sách báo, bài viết trong các tạp chí
khoa học giáo dục liên quan đến nội dung chương trình để giới thiệu cho toàn thể cán
bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường nghiên cứu và tham khảo.
+ Tập trung và hệ thông hóa những yêu cầu của chương trình và tổ chức cho
toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên cùng nghiên cứu, quán triệt để xác định rõ vai
trò, trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân trong việc xây dựng kế hoạch tổ
chức thực hiện chương trình. Từ đó đề ra qui định thống nhất để cùng phối hợp thực
hiện. Phải thay đổi một cách một cách căn bản nhận thức của các thành viên từ hiệu
trưởng, các phó hiệu trưởng, giáo viên, nhân viên.
+ Để phù hợp với việc đổi mới nội dung, chương trình sẽ triển khai thực hiện
đại trà chương trình GDMN trong các trường mầm non của tỉnh, hiệu trưởng cần
thống nhất chỉ đạo thay đổi cách trao đổi, rút kinh nghiệm và đánh giá hoạt động dạy
học của giáo viên từ chỗ quan tâm đến việc truyền đạt và chuyển tải nội dung dạy

học đến trẻ sang việc chú trọng rèn kỹ năng trong từng hoạt động giúp cho trẻ tích
cực hoạt động, tạo mọi điều kiện cho trẻ trải nghiệm, khám phá.
+ Nhà trường cần tổ chức hội thảo, báo cáo chuyên đề, hoặc hội thi giáo viên
giỏi cấp trường định kỳ hàng năm. Đồng thời tổ chức tham quan, học tập, dự giờ
những trường có điều kiện thực hiện tốt chương trình GDMN. Tham gia các lớp bồi
dưỡng thường xuyên do ngành tổ chức về đổi mới nội dung, chương trình, đổi mới
phương pháp dạy học.
+Tập trung bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ quản lý và quản lý chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ quản lý một cách bài bản có chất lượng. Tổ chức giao lưu trao đổi và
học tập kinh nghiệm quản lý. Trao đổi những sáng kiến hay trong quá trình chỉ đạo,
tổ chức triển khai thực hiện chương trình GDMN một cách đồng bộ, có hiệu quả.
+ Khuyến khích cán bộ quản lý trong nhà trường tự vận dụng sáng tạo các
phương pháp giáo dục phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường và văn
hóa của địa phương.
+ Cung cấp đủ chương trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, tài liệu bồi
dưỡng liên quan đến công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình GDMN.
2. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình
- Việc lập kế hoạch có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là sự xếp đặt có tính toán
trước một cách khoa học các mục tiêu, trình tự tiến hành các công việc trong khoảng
5


thời gian định sẵn. Lập kế hoạch giáo dục giúp cho công tác quản lý, chỉ đạo thực
hiện chương trình của các nhà trường thực hiện thuận lợi hơn do xác định rõ được
khối lượng công việc, cách thực tiến hành cũng như các nguồn lực để thực hiện mục
tiêu chương trình GDMN.
+ Hiệu trưởng chỉ đạo trường mầm non xây dựng kế hoạch thực hiện chương
trình hiệu quả, các chỉ tiêu, biện pháp đề ra phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh địa
phương, theo sự chỉ đạo xuyên suốt từ tỉnh đến các huyện, thị, thành phố trong tỉnh.
Do đó việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình phải được bồi dưỡng, hướng

dẫn, định hướng sẽ nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục trong chương trình
GDMN.
- Căn cứ vào các văn bản và yêu cầu trong chương trình khung, Hiệu trưởng
phải biết vận dụng các chức năng quản lý, phương pháp quản lý vào việc tổ chức chỉ
đạo thực hiện chương trình, xác định hướng thực hiện kế hoạch đảm bảo đúng theo
sự chỉ đạo của ngành phù hợp với đặc thù của từng trường.
+ Cán bộ quản lý chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch năm cho từng khối lớp.
Dự kiến thời gian thực hiện các chủ đề trong năm. Khi xây dựng kế hoạch căn cứ
vào đặc điểm tình hình từng lớp, trẻ, giáo viên và phụ huynh để đề ra các biện pháp
chỉ đạo thống nhất trong quá trình thực hiện chương trình trong đơn vị. Kế hoạch
giúp cán bộ quản lý thể hiện hướng đi riêng của đơn vị và những định hướng cơ bản
để từ đó giáo viên xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch trong từng nhóm, lớp một
cách có hiệu quả.
+ Gắn trách nhiệm cụ thể đối với Ban giám hiệu từ đó có quy chế thi đua, khen
thưởng đối với ban giám hiệu do vậy sẽ kích thích sự lắng nghe chia sẻ của ban giám
hiệu với các giáo viên đồng thời ban giám hiệu cũng nhìn nhận mỗi giáo viên là một
cố vấn đắc lực cho ban giám hiệu.
+ Trên cơ sở kế hoạch năm học của nhà trường, giáo viên chủ động xây dựng
kế hoạch sao cho phù hợp với tình hình thực tế của nhóm, lớp mình phụ trách. Chủ
động xây dựng kế hoạch tháng, tuần và ngày cho lớp mình; giáo viên thực hiện các
bước phát triển của chủ đề nhánh, bao gồm chọn chủ đề cụ thể, xác định mục tiêu
giáo dục, xây dựng mạng nội dung, mạng hoạt động của chủ đề và lên kế hoạch cụ
thể hàng tuần cho phù hợp với trẻ và điều kiện vật chất và văn hóa của địa phương.
+ Lập kế hoạch giúp giáo viên chủ động, sáng tạo thực hiện nhiệm vụ, tránh
được tình trạng chồng chéo, hoặc tùy tiện cắt xén các hoạt động trong quá trình thực
hiện chương trình Giáo dục Mầm non. Giáo viên có điều kiện quan tâm đến trẻ, thấy
được những tiến bộ và những khó khăn của trẻ và từ đó tìm được những biện pháp
tác động đến trẻ phù hợp hơn.
+ Tạo cơ hội cho giáo viên biết chia sẻ, hợp tác chặt chẽ và thống nhất với nhau
để hoàn thành các nhiệm vụ trong quá trình thực hiện chương trình. Kế hoạch của

giáo viên phải được Ban giám hiệu kiểm tra, ký duyệt trước khi triển khai tổ chức
thực hiện.
- Cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và ban giám hiệu các trường có trách
nhiệm nghiên cứu văn bản để triển khai thực hiện. Luôn có sự động viên giáo viên
về vật chất, tinh thần một cách kịp thời. Vấn đề nghiêm khắc phê bình cũng cần được
chú ý đến để tránh những lệch lạc trong quá trình thực hiện.
6


3.Tăng cường cơ sở vật chất, sử dụng tốt đồ dùng, đồ chơi trong việc thực
hiện chương trình GDMN
- Việc quản lý chỉ đạo sử dụng trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi góp phần đổi
mới phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục, nâng cao chất lượng thực hiện
chương trình giáo dục mầm non và chăm lo xây dựng, bảo quản cơ sở vật chất nhà
trường của hiệu trưởng trường mầm non trong giai đoạn hiện đại hóa cơ sở vật chất
trường học nói chung là công việc quan trọng và rất cần thiết.
+ Làm cho đội ngũ giáo viên các trường mầm non nhận thức rõ vai trò, tác
dụng của thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi trong việc thực hiện đổi mới phương
pháp tổ chức các hoạt động CS-GD trẻ, từ đó có ý thức tự giác sử dụng, khai thác
triệt để hiệu quả sử dụng đồ dùng, đồ chơi vào tổ chức các hoạt động học tập và vui
chơi cho trẻ theo các chủ đề giáo dục, mang lại chất lượng và hiệu quả của việc thực
hiện chương trình GDMN.
+ Hiệu trưởng các trường mầm non nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của
thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi trong việc áp dụng chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ, từ đó có tinh thần trách nhiệm trong quản lý chỉ đạo sử dụng tốt cơ sở vật
chất, có ý thức xây dựng, bảo vệ cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Xây dựng phong trào tự nghiên cứu và tự làm đồ dùng, đồ chơi trong các
trường mầm non một cách thường xuyên không chỉ để khắc phục tình trạng thiếu đồ
dùng, đồ chơi cho trẻ mà còn để đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình.
+ Chỉ đạo các đơn vị tích cực tham mưu với các cấp lãnh đạo về sự cần thiết

phải đầu tư thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, phương tiện hiện đại đủ cho các trường mầm
non theo hướng chuẩn hóa, hiện đại. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho CBQL, giáo
viên biết cách sử dụng và bảo quản đồ dùng, đồ chơi, tài liệu, học liệu của nhà
trường cũng như của các nhóm lớp, biết lựa chọn và sử dụng có hiệu quả những đồ
dùng, đồ chơi cần thiết phục vụ công tác giáo dục trẻ.
- Tổ chức tiết dạy về sử dụng đồ dùng trực quan thiết bị hiện đại, thiết kế môi
trường học phù hợp với chủ đề, điều kiện và đặc điểm văn hóa của từng địa phương.
Trang bị cho các trường mầm non sách, tài liệu, học liệu như tuyển tập thơ truyện,
tranh ảnh theo chủ đề, hướng dẫn thực hiện chương trình, băng, đĩa thơ ca truyện
kể…để sử dụng trong hoạt động phát triển ngôn ngữ, trong giờ đón trả trẻ, thể dục
sáng và các hoạt động tập thể, ngày hội, ngày lễ trong các trường mầm non.
+ Thực hiện mục tiêu của từng chủ đề, các đồ dùng, đồ chơi bao gồm cả đồ
chơi mang tính sản phẩm công nghiệp và đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu thiên
nhiên, phế liệu được giáo viên sử dụng hết sức linh hoạt. Trong quá trình tổ chức các
trò chơi, các hoạt động như: Hoạt động học; chơi - hoạt động góc; chơi - hoạt động
ngoài trời…ngoài việc sắp xếp các đồ chơi đẹp mắt, hấp dẫn trẻ, giáo viên gợi ý để
trẻ khai thác tối đa cách sử dụng các nguyên vật liệu đồ chơi theo nhiều cách khác
nhau phát huy khả năng sáng tạo của trẻ.
+ Chỉ đạo việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy của
từng nhà trường, ứng dụng các phần mềm GDMN trong đổi mới phương pháp dạy
học, tạo ra nhiều sản phẩm đồ dùng, đồ chơi từ các phần mềm Kidsmart, Happykids
đưa vào các chủ đề, các hoạt động như làm quen với văn học, làm quen với toán, làm
quen với môi trường xung quanh…
7


+ Phát động phong trào làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu, phế liệu để bổ
sung cho các hoạt động theo chủ đề, phù hợp với chương trình GDMN. Chỉ đạo giáo
viên đầu tư thời gian, công sức làm ra nhiều đồ chơi phong phú về chủng loại phục
vụ đa dạng các hoạt động thiết thực của trẻ.

- Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên phải nhận thức đầy đủ vai trò của thiết bị,
đồ dùng, đồ chơi đối với việc đổi mới phương pháp tổ chức các hoạt động trong việc
thực hiện chương trình GDMN .
+ Sở GD&ĐT tham mưu với UBND Tỉnh, các phòng GD ĐT huyện tham mưu
với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương để có được sự quan tâm tiếp tục đầu tư, hỗ
trợ các trường mầm non kinh phí mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi thực hiện
chương trình.
+ Xây dựng mối quan hệ mật thiết, gắn bó với các cơ quan đoàn thể, làm tốt
công tác tham mưu với UBND xã, phường, hội cha mẹ học sinh để khai thác nguồn
lực cho GDMN.
+ Hiệu trưởng các trường mầm non phải có kế hoạch sử dụng các nguồn lực
đầu tư mua sắm, bổ sung trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi kịp thời, phù hợp với điều
kiện của nhà trường.
4.Tổ chức bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GVMN
- Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên
mầm non. Tạo sự chủ động sẵn sàng về chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ quản
lý, giáo viên trong việc tiếp thu những phương pháp mới, chương trình mới
+ Tiến hành tổ chức hội thảo, các chuyên đề, rút kinh nghiệm một cách hiệu
quả, thiết thực về việc tổ chức triển khai thực hiện công tác chăm sóc - giáo dục trẻ
theo chương trình GDMN.
+ Ngoài ra, còn tăng cường công tác trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản
lý chuyên môn cho đội ngũ hiệu trưởng bằng những hình thức kiểm tra chéo giữa các
trường.
+ Tổ chức cho đội ngũ GV thường xuyên được đi thăm quan học tập những
kinh nghiệm về chuyên môn của trường bạn. Đây là cơ hội để cán bộ quản lý và giáo
viên của các trường giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm.
+ Thường xuyên và định kỳ làm tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện kế hoạch của mỗi GV. Đề xuất công tác khen thưởng và kỷ luật.
+ Nâng cao phương pháp tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo

chương trình GDMN (tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ trong trường mầm non).
Lập kế hoạch của nhà trường và từng khối lớp, lập kế hoạch theo chủ đề Quản lý
nhóm lớp của giáo viên mầm non. Đánh giá sự phát triển của trẻ. Hướng dẫn tích
hợp nội dung lồng ghép trong tổ chức các hoạt động, tổ chức triển khai thực hiện về
giáo dục tài nguyên môi trường biển đảo, giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
trong trường mầm non.
+ Kết quả bồi dưỡng đã làm tăng nhận thức, trình độ, năng lực của đội ngũ
CBQL, GV, giáo viên chủ động lập kế hoạch, linh hoạt trong tổ chức thực hiện các
hoạt động giáo dục, các hoạt động của trẻ được tổ chức theo hướng tích hợp, phát
huy khả năng hoạt động tích cực của trẻ. Ngành đã chỉ đạo các trường mầm non nêu
8


cao ý thức tự giác, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, vận dụng hiệu quả những nội dung
đã được bồi dưỡng vào thực tế quản lý giảng dạy, nâng cao toàn diện chất lượng
chương trình GDMN
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp và thiết thực với từng địa
bàn, trường mầm non. Có kế hoạch về kinh phí để mở lớp bồi dưỡng.
+ Xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo
viên rõ ràng, cụ thể, đề xuất nội dung cần bồi dưỡng kịp thời và đúng đối tượng.
+ Giáo viên mầm non phải có ý thức, tự giác than gia học tập, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Tạo điều kiện đầy đủ tài liệu hướng dẫn của ngành, tài liệu bồi dưỡng, tài liệu
tham khảo, tài liệu đổi mới giáo dục đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học.
+ Hiệu trưởng các trường mầm non phải tổ chức chỉ đạo việc nghiên cứu các
văn bản, những quy định, hướng dẫn của ngành về quản lý và chỉ đạo, tổ chức thực
hiện hoạt động dạy học trong đội ngũ cán bộ quản lý cũng như hướng dẫn tổ chức
thực hiện chăm sóc, giáo dục theo chương trình GDMN.
5. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới công tác quản lý chuyên
môn trong thực hiện chương trình

- Tạo sự thay đổi về phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ
theo chương trình GDMN. Thúc đẩy sự chủ động tìm tòi từ phía các giáo viên mầm
non, kích thích sự phát triển nhận thức và sáng tạo ở trẻ, tránh sự nhàm chán, thụ
động.
+ Xây dựng và thực hiện bộ hồ sơ quản lý nhà trường đồng bộ. Tích cực tham
gia bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý để nâng cao nhận thức và kĩ năng quản lý cho
CBQL. Tìm hiểu các văn bản chỉ đạo đổi mới giáo dục nói chung và chương trình
Giáo dục Mầm non nói riêng, để tìm hiểu và ứng dụng cho GVMN. Tổ chức hội
thảo, họp bàn để lấy ý kiến về thực hiện chương trình.
+ Hiệu trưởng phải biết vận dụng các chức năng, phương pháp quản lý vào việc
tổ chức chỉ đạo hoạt động chăm sóc giáo dục: cụ thể và đưa nội dung bắt buộc trong
nội dung sinh hoạt chuyên môn của tổ, của trường.
+ Đổi mới nhận thức và quan điểm của GV về phương pháp chăm sóc giáo dục
trẻ trong giai đoạn hiện nay, nhằm giúp cho giáo viên có cách nhìn đúng đắn và có
sự nỗ lực phấn đấu trong công tác chuyên môn.
+ Tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung về chủ đề này để GV có thể trao
đổi, thảo luận về việc lựa chọn những biện pháp và hình thức tổ chức hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp, đem lại hiệu quả cao.
+ Luôn có sự động viên giáo viên về vật chất, tinh thần một cách kịp thời. Vấn
đề nghiêm khắc phê bình cũng cần được chú ý đến để tránh những lệch lạc trong quá
trình thực hiện.
+ Tạo điều kiện về cơ sở vật chất trong tổ chức hoạt động thực hành như trang
bị ứng dụng công nghệ thông tin. Việc xây dựng điển hình có thể bắt đầu từ một vài
giáo viên trong cả trường, điển hình được nhân rộng mỗi giáo viên một khối, tiếp đó
là toàn bộ giáo viên trong toàn trường.
+ Sinh hoạt chuyên môn tập trung vào nội dung đổi mới hình thức tổ chức,
phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ. Với mong muốn tự làm mới mình trong chuyên
9



môn nên các hoạt động được các giáo viên chuẩn bị chu đáo, phần minh họa sinh
động. Đặc biệt việc kết hợp sử dụng phương tiện dạy học, giáo cụ trực quan, ứng
dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả và có sức thuyết phục.
6. Tổ chức kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm về chỉ đạo thực hiện chương
trìnhGDMN
- Thông qua kiểm tra giúp cho CBQL, sở, phòng GD&ĐT, Ban giám hiệu
trường mầm non chỉ đạo và tổ chức các trường quan tâm đến quá trình thực hiện
chương trình GDMN nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
Kiểm tra việc quản lý, tổ chức thực hiện kế hoạch chương trình, các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ tại các trường
+ Tích cực kiểm tra, giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kế
hoạch; mỗi năm học phải tạo được những điểm mới, sáng tạo trong thực hiện chương
trình; căn cứ vào kết quả của trẻ, của từng nhóm, lớp, giáo viên xem xét để điều
chỉnh kế hoạch cho phù hợp với nhóm, lớp mình phụ trách, đồng thời điều chỉnh
công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình.
+ Trong kiểm tra công tác quản lý tổ chức thực hiện chương trình tại các nhà
trường cần có căn cứ để đánh giá, gồm: Hồ sơ quản lý chuyên môn, hồ sơ thanh tra
giáo viên, sổ dự giờ, hồ sơ cá nhân trẻ… kiểm tra cơ sở vật chất, thiết bị mua sắm và
tự làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo, trang trí nhóm, lớp, bố trí môi trường hoạt động cho
trẻ; dự hoạt động của cô và trẻ...
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đặc biệt tăng cường công tác kiểm
tra đột xuất, kiểm tra nội bộ. Có nhiều hình thức kiểm tra: kiểm tra toàn diện, kiểm
tra chuyên đề, kiểm tra báo trước và kiểm tra không báo trước. Thanh, kiểm tra đánh
giá đúng thực chất của nhà trường, năng lực của giáo viên, không chạy theo thành
tích. Kiểm tra chủ yếu là giúp đỡ, chấn chỉnh nền nếp, kỉ cương, những sai phạm,
đánh giá công tác quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình. Kịp thời uốn nắn,
phát hiện, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực cũng như những sai phạm trong chuyên
môn, nhất là những trường hợp không tự giác nhận và sửa chữa khuyết điểm; cần có
kế hoạch và nội dung kiểm tra cụ thể phù hợp với từng thời điểm.
+ Công tác kiểm tra được tiến hành thường xuyên, tiến hành một cách nhẹ

nhàng khéo léo, tế nhị và khoa học. Trong việc nhận xét đánh giá làm sao giúp cán
bộ, giáo viên thấy được những vấn đề cần điều chỉnh cho thời gian tới. Nhưng cũng
không phải là quá dễ, nể nang, né tránh, cần có sự nghiêm túc, công bằng trong công
tác kiểm tra đánh giá nhằm đảm bảo chất lượng, thực chất.
+Phải kế hoạch hóa cao công tác quản lý, chỉ đạo việc thực hiện chương trình
GDMN. CBQL, GV, nêu cao ý thức tự giác và chủ động với công việc của mình.
Người đánh giá phải trung thưc, khách quan trong công tác kiểm tra.
IV. Kết quả thực hiện chương trình GDMN tại các trường MN trên điạ bàn
tỉnh Vĩnh Phúc
Các trường mầm non đã chủ động, tìm tòi sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện
chương trình phù hợp với thực tế địa phương. Các hoạt động được tổ chức theo hướng
tích hợp, phát huy khả năng hoạt động tích cực của trẻ.
- Giáo viên đã nắm được các nội dung cơ bản của chương trình, xác định
được mục tiêu các lĩnh vực phát triển, chủ động trong việc xây dựng kế hoạch chủ
10


đề phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và phù hợp với khả năng của trẻ.
Giáo viên biết tận dụng và khai thác các nội dung trên mạng internet làm phong phú
các hoạt động học và vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của trẻ ở
nhóm, lớp mình phụ trách.
- Trẻ được học một cách thoải mái, có nhiều cơ hội được khám phá, thông qua
các hoạt động trẻ được trải nghiệm và giáo dục phát triển các lĩnh vực về thể chất,
ngôn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội và phát triển thẩm mỹ. Trẻ tự tin, chủ động, nhanh
nhẹn, tích cực tham gia vào các hoạt động trong trường, lớp thích tìm tòi khám phá
các hoạt động làm quen với môi trường xung quanh, khám phá khoa học và các hoạt
động thuộc các lĩnh vực phát triển trong chương trình GDMN.
Qua kiểm tra khảo sát có trên 95% trẻ học chương trình GDMN đạt kết quả về
các lĩnh vực phát triển nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ, thể chất, tình cảm xã hội. Riêng
trẻ 5 tuổi đạt 98% các chỉ số của Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.

Cơ sở vật chất trường, lớp học và trang thiết bị chăm sóc giáo dục trẻ được
đầu tư theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa, Số trường mầm non đạt chuẩn quốc
gia tăng nhanh từ 77 trường năm 2009, tính đến nay Vĩnh Phúc đã có 145 trường
MN đạt chuẩn Quốc gia đạt 78,8,%, công nhận thêm được 67 trường từ khi triển
thực hiện chương trình GDMN mới. 100% trẻ có đủ tài liệu, học liệu, 100% nhóm
lớp có đủ tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN, giáo viên rất thuận lợi
trong việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Các cơ sở giáo dục làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham
gia của các bậc cha mẹ và cộng đồng, thu hút được nhiều nguồn lực cho GDMN.
- Khi áp dụng sáng kiến nhà quản lý có cơ sở để kiểm tra, đánh giá năng lực chỉ
đạo các hoạt động của Hiệu trưởng, hoạt động sự phạm của giáo viên trong các
trường mầm non từ đó đưa ra các kế hoạch tổ chức thực hiện chương trình GDMN
gắn với hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ nhằm từng bước nâng cao chất
lượng thực hiện chương trình GDMN.
Triệu Thị Thu Hằng – Phó Trưởng Phòng GDMN

11



×