Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

khóa luận tốt nghiệp Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở sóc sơn – hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.2 KB, 78 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ
của tình hình kinh tế - xã hội đất nước thì việc xây dựng nếp sống văn hóa gia
đình ở nước ta ngày càng được quan tâm, chú ý từ nhiều ngành, nhiều giới.
Sự quan tâm đó xuất phát từ một thực tế xã hội dễ thấy là mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình đang trở nên lỏng lẻo và ít quan tâm đến nhau;
các giá trị đạo đức gia đình đang bị xâm phạm; các tệ nạn xã hội đang xuất
hiện ngày càng nhiều hơn trong mỗi gia đình và xuất phát từ mối quan hệ
trong gia đình.
Hiện nay, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của điều kiện
kinh tế thị trường (KTTT), những giá trị truyền thống trong gia đình cũng
phần nào chịu tác động và ảnh hưởng. Sự xuất hiện của những giá trị mới của
thời đại cả tích cực và tiêu cực đã làm cho nếp sống gia đình có những thay
đổi, bên cạnh những giá trị tích cực đang hình thành là sự bình đẳng, dân chủ
trong gia đình được đề cao, tự do cá nhân được coi trọng thì cũng có không ít
những vấn đề nổi lên như lối sống chạy theo những giá trị vật chất; chủ nghĩa
cá nhân tự do, ích kỷ phát triển mạnh mẽ; mâu thuẫn giữa các cá nhân trong
gia đình… Năm 2003, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em đã đưa ra chủ đề và
thông điệp của năm là: Xây dựng nếp sống gia đình văn hóa và chủ động
phòng chống các tệ nạn xã hội ngay tại cộng đồng và gia đình.
Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình là một nhiệm vụ tất yếu của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có gia đình xã hội chủ nghĩa thì
không thể có thắng lợi hoàn toàn và triệt để của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, cùng
với xã hội, gia đình là nơi sinh ra, nuôi dưỡng, giáo dục những con người mới
để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, bản thân sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi phải xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nếp sống văn hóa gia
đình được coi là cơ sở, nền tảng làm lên thắng lợi và kết quả của sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1



Sóc Sơn là một huyện nằm ở phía Bắc của thành phố Hà Nội. Trong
những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của điều kiện kinh tế - xã hội đã
làm cho diện mạo của huyện có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này cũng có tác
động không nhỏ tới việc xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn.
Những mối quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình với nhau, giữa gia đình
với cộng đồng xã hội ở nhiều nơi đang có những dấu hiệu không tốt, ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến quá trình xây dựng đời sống văn
hóa ở Sóc Sơn hiện nay.
Nhằm đánh giá sự vận động, biến đổi của nếp sống văn hóa gia đình
và phân tích, lý giải, tìm giải pháp xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc
Sơn hiện nay trong điều kiện của KTTT, tôi lựa chọn vấn đề “ Xây dựng nếp
sống văn hóa gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở Sóc Sơn – Hà Nội
hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây đã có nhiều công trình, hội thảo khoa học đề cập
đến vấn đề gia đình và xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Việt Nam từ các
góc độ khác nhau.
Nghiên cứu chung về gia đình có một số công trình, bài viết của nhiều
tác giả. Trong hội thảo khoa học của Viện Khoa học xã hội và trung tâm
nghiên cứu khoa học về phụ nữ tổ chức năm 1991, tác giả Lê Ngọc Lân có
bài: “Góp vào nhận diện gia đình Việt Nam”; Hồng Hà có bài: “Nhận diện
hiện trạng gia đình Việt Nam trong sự chuyển biến của xã hội”… phản ánh
những biến đổi của gia đình Việt Nam trong bối cảnh đương đại. Trong cuốn
sách: “Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam”, Viện xã hội học,
Hà Nội 1991, chuyên đề “Về gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng
Nho giáo”, Trần Đình Hượu đã nhấn mạnh tác động của gia đình truyền thống
Việt Nam dưới ảnh hưởng của Nho giáo và tiếp biến với hiện đại. Trong bài
“Suy nghĩ về việc xây dựng chiến lược phát triển gia đình hiện nay” đăng trên
Tạp chí Cộng sản, số 10-2003, Lê Thị Quý đã nhấn mạnh việc phát triển gia

2


đình trong mối quan hệ giới và bình đẳng giới; v.v… Các bài viết trên đã đề
cập nhiều khía cạnh của vấn đề gia đình và phát triển xã hội; tính tất yếu
khách quan của sự biến đổi cơ cấu, quy mô gia đình khi chuyển từ xã hội
nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Các tác giả cũng đã lý giải sâu sắc ảnh
hưởng nhiều mặt của xã hội với sự biến đổi của gia đình và dự báo những xu
hướng phát triển của gia đình.
Đề cập đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình, tác giả Lê Thi
có một loạt công trình chuyên khảo như: “Gia đình Việt Nam – các trách
nhiệm, các nguồn lực trong sự đổi mới của đất nước”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995; “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát
triển bền vững”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004; “Gia đình Việt Nam
trong bối cảnh đất nước đổi mới”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
Các công trình trên là những tài liệu tham khảo hết sức bổ ích. Tuy vậy,
vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ và thấu đáo
vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng nếp
sống văn hóa gia đình trong điều kiện KTTT, khóa luận đánh giá thực trạng
xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn hiện nay và đề xu ất gi ải pháp
nhằm xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn trong đi ều kiện KTTT
hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những khái niệm: nếp sống, nếp sống văn hóa, nếp sống văn
hóa gia đình; ảnh hưởng của điều kiện KTTT đến nếp sống văn hóa gia đình ở
Sóc Sơn hiện nay.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng xây dựng nếp sống văn hóa gia đình

Ở Sóc Sơn hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nếp sống văn hóa
gia đình ở Sóc Sơn trong điều kiện KTTT hiện nay.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn- Hà Nội
trong điều kiện KTTT hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nếp sống văn hóa gia đình ở huyện Sóc Sơn hiện
nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Được thực hiện dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước về gia đình. Đồng thời khóa luận kế thừa những thành tựu
nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa gia
đình trong điều kiện hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp thống kê và điều
tra xã hội học, phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những
luận điểm lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng nếp sống văn hóa gia đình
ở các huyện ngoại thành; góp phần nâng cao tầm quan trọng của việc xây
dựng nếp sống văn hóa gia đình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khóa luận gồm 3 chương.

4



B. NỘI DUNG
Chương 1
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NẾP SỐNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở SÓC SƠN – HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Nếp sống văn hóa gia đình
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm nếp sống
Trong cuốn sách “Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”, các
tác giả có đề cập đến khái niệm nếp sống: “Nếp sống là những hành vi ứng xử
của con người đã được lặp đi lặp lại nhiều lần thành nếp, thành thói quen,
thành phong tục được xã hội công nhận” [8, tr.20]. “Nếp sống thể hiện ở
những chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử của cả xã hội mà mỗi cá nhân đã tự ý
thức, tự biến đổi bản tính của mình thành những hoạt động ổn định, thường
xuyên mang tính chung của xã hội” [8, tr20]. “Nếp sống là lối sống hoặc một
bộ phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nền nếp, thói quen, nghĩa là
được định hình, định tính được xác lập giá trị thành một nét văn hóa được cá
nhân và cộng đồng thừa nhận làm theo hoặc quy định thành điều ước, luật
pháp. Nếp sống lâu đời có thể trở thành phong tục tập quán” [8, tr. 20].
Khi nghiên cứu về lối sống và nếp sống, các nhà nghiên cứu xã hội học
đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau. L.V. Ko- kan trong bài “Nếp sống của
cá nhân, những lý thuyết và phương pháp luận” có viết “Nếp sống của con
người được coi như là sự phản ánh của cá nhân vào xã hội, còn lối sống của
con người được coi như là sự phản ánh của xã hội vào cá nhân”[8, tr. 19].
Còn A.P. Bu-chen-ko thì cho rằng “Nếp sống không phải là một phần mà là
một trong những hình thức biểu hiện của lối sống”[8, tr. 19].
Khi bàn đến “Ảnh hưởng của văn hóa Phương Đông trong nếp sống
người Việt”, các tác giả có nêu lên khái niệm nếp sống. “Nếp sống bao gồm

5



những cách thức, những quy ước đã trở thành thói quen trong sản xuất, trong
sinh hoạt, trong tổ chức đời sống xã hội” [2, tr.46].
Như vậy, từ những khái niệm, những nghiên cứu và nhận định nêu trên
có thể hiểu nếp sống là toàn bộ những hành vi ứng xử của con người được
lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen trong sinh hoạt, trong sản xuất,
chiến đấu, trong những mối quan hệ xã hội…được cá nhân và cộng đồng làm
theo hoặc quy định thành điều ước, luật pháp.
1.1.1.2. Khái niệm nếp sống văn hóa
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, “Nếp sống văn hóa là sự
biểu hiện văn hóa cụ thể của lối sống, là văn hóa ứng xử của con người đối
với thiên nhiên, xã hội và cộng đồng. Khi nói đến nếp sống văn hóa tức là
nhấn mạnh đến mặt văn hóa của nếp sống, ở những chuẩn mực, khuôn mẫu
ứng xử của xã hội mà mỗi cá nhân tự ý thức được ở các hoạt động ổn định,
thường xuyên thành nếp trong đời sống hàng ngày” [26, tr. 231].
Như vậy, có thể nói rằng nếp sống văn hóa được thể hiện thông qua
cách ứng xử của mỗi con người, qua mỗi hành vi và hoạt động hàng ngày của
bản thân mỗi người một cách có văn hóa đối với môi trường xung quanh mình
bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; trong công việc hàng
ngày, trong lao động, học tập, tổ chức đời sống cá nhân… Những hoạt động,
hành vi đó phải phù hợp với những chuẩn mực xã hội đặt ra, phù hợp với lối
sống, thuần phong mỹ tục của con người Việt Nam.
Nếp sống văn hóa được hình thành và có ảnh hưởng từ truyền thống
xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta từ xưa đến nay, từ quá trình đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, từ những phẩm chất của con người Việt Nam
như cần cù, sáng tạo, yêu lao động, tinh thần chiến đấu anh dũng và kiên
cường…mang những nét bản sắc con người và văn hóa Việt Nam. Thông qua
quá trình nhận thức và sự hiểu biết về tự nhiên và xã hội ngày càng cao của
con người thì nếp sống văn hóa đóng một vai trò rất quan trọng tất cả hoạt

động hàng ngày của con người, nó thể hiện sự phát triển của nhân cách, trình
6


độ văn hóa cũng như trình độ hiểu biết xã hội ngày càng được nâng cao. Và
nó cũng thể hiện trình độ phát triển của xã hội, bộ mặt của xã hội như thế nào
không chỉ có sự phát triển về kinh tế, mà đi cùng với nó là sự văn minh, hiện
i , th hi n m t n p s ng có v n hóa trong i s ng c a cá nhân và toàn xã h i .
1.1.1.3. Khái niệm nếp sống văn hóa gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường
quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu đều cho rằng gia đình là một
nhóm xã hội được gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống. Các
thành viên trong gia đình có quan hệ tình cảm, mật thiết với nhau bởi trách
nhiệm và quyền lợi, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Sinh thời, Bác Hồ đã khẳng định “Nhiều gia đình cộng lại mới thành
xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt; hạt nhân
của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú
ý hạt nhân cho tốt” [15, tr. 523]. Trong thời kỳ hiện nay, cùng với sự thay đổi
mạnh mẽ của kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội, thì vai trò và chức năng của
gia đình vẫn giữ một vị trí hết sức quan trọng. Gia đình đóng vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người, sức lao động,
của cải vật chất, tinh thần và đáp ứng nhu cầu của các thành viên. Gia đình
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy những giá trị văn
hóa tinh thần, bản sắc dân tộc từ đời này sang đời khác.
Song song với quá trình phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội, gia
đình Việt Nam hiện nay cũng có nhiều thay đổi về cấu trúc gia đình, về chức
năng, điều kiện sinh hoạt gia đình… Nhưng có thể nói rằng trong gia đình

Việt Nam hiện nay, yếu tố truyền thống và hiện đại vẫn tồn tại trong mỗi gia
đình, và việc tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại phù hợp với bản sắc

7


của dân tộc Việt Nam là một xu hướng tất yếu. Điều này được thể hiện thông
qua một số đặc trưng cơ bản của gia đình Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, gia đình Việt Nam là gia đình một vợ, một chồng, được xây
dựng trên cơ sở quan hệ hôn nhân tự do và tiến bộ.
Hôn nhân tự do và tiến bộ hiện nay là hôn nhân bình đẳng, tự nguyện
xuất phát từ quan điểm tình yêu chân chính giữa hai bên nam nữ đã đến tuổi
trưởng thành được pháp luật quy định. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, các
quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội đang từng bước được thiết lập, trình độ
dân trí ngày càng được nâng cao, vai trò và địa vị của người phụ nữ ngày
càng được khẳng định… Đây chính là cơ sở để xây dựng và thiết lập mối
quan hệ hôn nhân mới tự do và tiến bộ trong gia đình.
Tự do và tiến bộ trong quan hệ hôn nhân gia đình sẽ góp phần chống
lại các tệ nạn tiêu cực còn tồn tại trong xã hội như nạn ngoại tình, mại dâm,
đồng thời khẳng định được giá trị và sự phát triển của gia đình.
Th hai, quan h gi a các thành viên trong gia ình là quan h bình n g
Sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình Việt
Nam đó là sự bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái,
giữa anh chị em trong một gia đình. Đó chính là việc các thành viên trong gia
đình tôn trọng lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống gia
đình, trong việc thực hiện và bảo vệ các nhu cầu lợi ích của cá nhân cũng như
giải quyết các mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Sự bình đẳng ở đây không
phải là làm đảo lộn trật tự của các mối quan hệ trong gia đình, không phải là ý
muốn độc lập chủ quan của các thành viên mà phải trên cơ sở tôn trọng quyền
và nghĩa vụ cũng như lợi ích của mỗi thành viên trong gia đình.

Luật Hôn nhân và gia đình được ban hành chính là một văn bản pháp lý
để mỗi gia đình có trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện theo đó, để góp phần
xây dựng gia đình hòa thuận, ấm no, hạnh phúc, tiến bộ chống lại các hiện
tượng tiêu cực trong gia đình cũng như các tệ nạn xã hội.

8


Gia đình và các đặc trưng cơ bản của gia đình Việt Nam cũng góp
phần vào việc xây dựng nếp sống văn hóa gia đình hiện nay với nguyên tắc là
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tự do và tiến bộ giữa các thành viên trong gia
đình và giữa gia đình với cộng đồng xã hội.
Xung quanh vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, cũng có một
số quan điểm và ý kiến của một số tác giả khi nói tới xây dựng gia đình văn
hóa cũng như những biến động của gia đình hiện nay.
Trong cuốn sách Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới,
bài viết của một số tác giả nhận định “Gia đình là sản phẩm của văn hóa nhân
loại. Văn hóa gia đình biểu hiện rõ nhất nền văn hóa của một dân tộc, thể hiện
ngay trong đời sống sinh hoạt vật chất, tinh thần, văn hóa, trong cách tổ chức
lao động sản xuất và định hướng phát triển. Nếp sống văn hóa gia đình được
thể hiện qua nếp ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình với
cộng đồng và thiên nhiên, trong ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức công dân và
cả trong khía cạnh tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo” [22, tr. 60].
Còn trong cuốn sách Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi
mới, Giáo sư Lê Thi có đề cập đến nếp sống văn hóa gia đình. “Nếp sống văn
hóa gia đình thể hiện giá trị văn hóa đạo đức được các thành viên trong gia
đình chấp nhận và thực hiện trong quan hệ ứng xử với nhau, qua việc làm và
lời nói của họ… Nội dung tư tưởng chứa đựng trong nếp sống văn hóa gia
đình đó là: Sống có tình, có nghĩa giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, ông bà và
con cháu; Sự công bằng dân chủ trong quan hệ giữa các thành viên đi đôi với

sự tin cậy, lòng trung thực, sự khoan dung độ lượng; Sự nhận thức đúng đắn
mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích gia đình và cộng đồng xã hội”
[19, tr.262].
Như vậy, có thể thấy rằng nếp sống văn hóa gia đình được thể hiện
thông qua cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau, thông qua
các giá trị đạo đức trong gia đình, thể hiện cách ứng xử giữa gia đình với cộng
đồng xã hội, nhằm xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ.
9


1.1.2. Những biểu hiện của nếp sống văn hóa gia đình
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), khi luận chứng về những
điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của con người, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa
ra định nghĩa về gia đình: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [13, tr. 41].
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “gia đình là tập hợp những người có quan
hệ hôn nhân và huyết thống sống chung trong cùng một nhà” [26, tr. 719].
Dưới góc độ luật học, nhà nghiêm cứu Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng:
“Gia đình là một tập hợp dựa trên các quan hệ hôn nhân và huyết thống và về
nuôi dưỡng đã gắn bó những người có quan hệ với nhau bởi các quyền về
nghĩa vụ tài sản và nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất, để
tương trợ nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái” [23, tr. 15-16].
Như vậy có thể thấy rằng, có nhiều quan niệm về gia đình song trong
các khái niệm gia đình đã đề cập chủ yếu đến mối quan hệ hôn nhân và huyết
thống tức là mối quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, anh chị
em trong gia đình. Đây là mối quan hệ cơ bản nhất thể hiện sự liên kết, gắn bó
trong gia đình để thực hiện những chức năng và duy trì sự ổn định, bền vững
của gia đình. Nhưng sống trong xã hội, con người không chỉ có mối quan hệ
với nhau trong gia đình mà cần phải có những mối quan hệ khác ngoài xã hội,

quan hệ với cộng đồng, làng xóm, tức là mối quan hệ giữa gia đình với cộng
đồng xã hội.
Nếp sống văn hóa gia đình chính là cách ứng xử giữa các cá nhân
trong gia đình, thể hiện mối quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, ông
bà và con cháu, và mối quan hệ giữa gia đình với cộng đồng xã hội. Mà gia
đình lại được tạo nên bởi các quan hệ hôn nhân và huyết thống, trong đó cũng
có quan hệ nuôi dưỡng, bởi vậy khi nghiên cứu về nếp sống văn hóa gia đình
tức là đi nghiên cứu về biểu hiện tập trung trong mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, giữa gia đình và xã hội.
10


Nếp sống văn hóa gia đình biểu hiện trước hết thông qua mối quan hệ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và con cháu, giữa các
anh chị em.
Trong gia đình, tình cảm vợ chồng là tình cảm thiêng liêng, sự quan
tâm, chăm sóc, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ và chồng trong cuộc sống
hàng ngày thể hiện nét đẹp văn hóa trong truyền thống gia đình Việt Nam. Từ
xưa đến nay, tình cảm thủy chung, gắn bó sâu sắc giữa vợ với chồng đã trở
thành một truyền thống quý báu của dân tộc, tạo ra một giá trị bền vững trong
gia đình. Nó được gìn giữ và truyền từ đời này qua đời khác hình thành một
nếp sống văn hóa trong gia đình.
Trong gia đình không chỉ có quan hệ vợ chồng mà còn có quan hệ cha
mẹ với con cái, quan hệ ông bà với con cháu, quan hệ anh em. Giữa cha mẹ
và con cái, ông bà và con cháu, anh chị em trong nhà là quan hệ huyết thống,
thể hiện tình cảm ruột thịt với nhau. Các mối quan hệ này gắn bó khăng khít
với nhau, giữa cha mẹ và con cái là sự quan tâm, chăm sóc, dạy bảo; giữa ông
bà và con cháu là sự yêu thương, khoan dung, độ lượng; giữa anh chị em là sự
gắn bó, chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau… Đây cũng là những nét đẹp văn hóa trong
gia đình, đã được khẳng định và được lưu truyền qua bao nhiêu thế hệ gia

đình Việt Nam. Những mối quan hệ này qua nhiều thời gian đã trở thành nếp
sống văn hóa trong gia đình.
Trong truyền thống của dân tộc Việt Nam, tình làng, nghĩa xóm, sự
quan tâm chia sẻ lẫn nhau giữa các gia đình những lúc buồn vui cũng là một
nét đẹp trong văn hóa người Việt Nam. Gia đình – Làng – Nước là mối quan
hệ gắn bó, là cấu trúc ổn định đã có từ lâu trong các xã hội trước thể hiện tinh
thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Đó là giá trị văn hóa của dân tộc. Mối
quan hệ giữa gia đình với cộng đồng xã hội cũng được thể hiện trên tinh thần
đó. Gia đình là tế bào của xã hội, vận động và biến đổi theo sự phát triển của
xã hội, do vậy gia đình không thể tồn tại độc lập một mình được mà phải có
sự liên hệ với xã hội, mà ở đây chính là quan hệ giữa gia đình với cộng đồng
xã hội.
11


Như vậy, cùng với quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc của
dân tộc, những giá trị văn hóa trong gia đình qua mối quan hệ giữa các cá
nhân trong gia đình như quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
quan hệ giữa ông bà và con cháu, quan hệ giữa anh chị em; mối quan hệ giữa
gia đình với cộng đồng xã hội được hình thành và phát triển, trở thành một giá
trị bền vững. Tất cả những điều đó chính là sự thể hiện nếp sống văn hóa gia
đình.
Những biểu hiện cụ thể của nếp sống văn hóa gia đình là:
Thứ nhất, trong mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau trong gia đình
Đây là một biểu hiện quan trọng của nếp sống văn hóa gia đình. Vì
chính sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau trong công việc, học tập cũng như các vấn
đề tâm lý, tình cảm làm cho mỗi người cảm thấy vơi bớt đi nỗi buồn hoặc
niềm vui được nhân lên. Quan trọng hơn, khi nhận được sự yêu thương, đùm
bọc của gia đình làm cho mỗi thành viên cảm thấy có niềm vui, động lực giúp
họ vươn lên, vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

Trong mối quan hệ giữa vợ - chồng đó là sự bình đẳng, tôn trọng, hòa
thuận và tin cậy lẫn nhau trên cơ sở tình yêu chung thủy; thường xuyên quan
tâm, chăm sóc lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau tham gia công tác, học tập và
lao động; cùng nhau gánh vác trách nhiệm nuôi dạy con cái, trách nhiệm
chăm lo tổ chức cuộc sống gia đình có khoa học, tạo thời gian cho nhau nghỉ
ngơi, học tập, giải trí; ở người chồng (hoặc vợ) phải thể hiện sự tế nhị khéo
léo, nhạy cảm, hiểu biết về tâm sinh lý của nhau và luôn quan tâm tới những
diễn biến tư tưởng và tâm tư của nhau. Mặt khác, trong mối quan hệ giữa vợ
và chồng cũng đòi hỏi mỗi người dám có tinh thần đấu tranh với những nhược
điểm của chồng hoặc vợ và giúp nhau xây dựng cuộc sống gia đình hạnh
phúc.
Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ phải là những tấm
gương mẫu mực cho con cái học tập và noi theo thông qua những cử chỉ, hành
vi, thái độ giao tiếp, cách cư xử với mọi người xung quanh.
12


Cha mẹ dạy con những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, luôn quan
tâm, chỉ bảo uốn nắn con ngay từ khi còn bé; dạy con cách cư xử có lễ phép
đối với mọi người xung quanh.
Cha mẹ giành thời gian quan tâm đến việc học tập, các mối quan hệ
bạn bè của con, những việc làm cụ thể của con hàng ngày; Thường xuyên tâm
sự, đóng góp ý kiến, giải thích cho con khi con cái gặp những điều băn khoăn
trong cuộc sống, tình bạn, công việc.
Ngược lại, đối với cha mẹ con cái phải kính trọng, biết ơn công sinh
thành cũng như dưỡng dục của cha mẹ, đồng thời phải luôn cố gắng trong học
tập, trong công tác lao động, lễ phép chăm ngoan là cách để làm vui lòng ông
bà, cha mẹ.
Con cái giúp đỡ cha mẹ những công việc của gia đình hàng ngày, chia
sẻ những khó khăn vất vả của cha mẹ. Khi con cái đã trưởng thành, cần quan

tâm đến tình trạng sức khỏe, nhu cầu của cha mẹ nhất là những người đã có
tuổi. Khi đi làm, học tập, công tác xa nhà, con cái thường xuyên động viên,
thăm hỏi cha mẹ.
Trong mối quan hệ giữa ông bà – các cháu, con cháu phải biết hiếu
thảo, kính trọng, lắng nghe những lời dạy bảo của ông bà. Ông bà là những
người cao tuổi nhất trong gia đình, vì thế có rất nhiều kinh nghiệm sống quý
báu. Ông bà trở thành những tấm gương, là người đem những kinh nghiệm
quý báu đó truyền lại cho con cháu, bảo ban con cháu cùng nhau học tập, lao
động và công tác tốt, giữ được nền nếp gia đình.
Trong mối quan hệ giữa các anh, chị, em trong gia đình, phải sống yêu
thương, đoàn kết, nhường nhịn lẫn nhau, cùng nhau chung sức xây dựng gia
đình hạnh phúc, ấm no; anh em trong một nhà phải sống hòa thuận, giúp đỡ
lẫn nhau, người anh lớn trong gia đình có trách nhiệm bảo ban, dạy dỗ các em
giúp cha mẹ, còn các em phải biết tôn trọng, vâng lời, lễ phép trước những
điều hay lẽ phải.

13


Như vậy, mối quan hệ giữa ông bà - cha mẹ - con cái là mối quan hệ
rất đặc biệt, trên cơ sở quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Để mỗi
gia đình thực sự có nếp sống văn hóa thì mỗi gia đình phải xây dựng mối
quan hệ giữa các cá nhân thật tốt. Quan hệ giữa vợ và chồng có hòa thuận thì
mới tạo điều kiện cho quan hệ giữa cha mẹ và con cái tốt được. Sự quan tâm,
chăm sóc, chia sẻ, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa các cá nhân trong gia
đình tạo nền tảng để xây dựng một gia đình hạnh phúc, tiến bộ.
Thứ hai, trong mối quan hệ giữa gia đình với cộng đồng, xã hội
Nếp sống văn hóa gia đình không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa các
cá nhân trong gia đình với nhau mà còn thể hiện mối quan hệ giữa các gia
đình với nhau, giữa gia đình với cộng đồng xã hội.

Mối quan hệ giữa các gia đình với nhau ở đây là các gia đình trong một
khu dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm, làng…thể hiện sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau lúc gặp khó khăn, hoạn nạn, chia sẻ, trao đổi những kinh nghiệm về phát
triển kinh tế, kế hoạch hóa gia đình, những kinh nghiệm về chăm sóc và nuôi
dạy con cái cho nhau; khi một gia đình có khó khăn mà được giúp đỡ thì khó
khăn đó sẽ được vơi đi, còn khi một gia đình có niềm vui mà được chia sẻ thì
niềm vui đó sẽ được nhân lên gấp bội…Đó chính là một nét đẹp truyền thống
của dân tộc Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái.
Gia đình có trách nhiệm thực hiện tốt các quy định, quy ước của thôn,
xóm, khu dân cư, tổ dân phố…như bảo vệ môi trường xung quanh, không vứt
rác bừa bãi, không làm mất trật tự khu phố, thôn, xóm nhằm xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở trong đó có việc xây dựng gia đình văn hóa và khu dân
cư văn hóa, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội như ma túy, mại
dâm, bạo hành trẻ em và phụ nữ… Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách
pháp luật của nhà nước, nhất là có kiến thức để thực hiện có hiệu quả Luật
hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

14


1.2 Sự cần thiết phải xây dựng nếp sống văn hóa gia đình trong điều
kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Sóc Sơn
1.2.1. Tác động của điều kiện kinh tế thị trường đến nếp sống văn hóa
gia đình ở Sóc sơn hiện nay
1.2.1.1. Đặc điểm của gia đình ở Sóc Sơn hiện nay
Trong xu thế hội nhập, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra
mạnh mẽ ở Sóc Sơn hiện nay đang ảnh hưởng không nhỏ đến sự thay đổi của
mỗi gia đình. Sự phát triển của kinh tế - xã hội là nhân tố chủ yếu tác động
đến sự thay đổi của gia đình ở Sóc Sơn hiện nay.
Nếp sống văn hóa gia đình truyền thống ở Sóc Sơn hiện nay là sự thể

hiện các giá trị đạo đức trong gia đình thông qua mối quan hệ giữa các cá
nhân trong gia đình và quan hệ giữa gia đình với cộng đồng xã hội. Các giá trị
đạo đức truyền thống của mỗi gia đình, nề nếp của dòng họ, trật tự trong gia
ình. ó là cách ng x trong quan h v ch ng, gi a ông bà, cha m và con cái.
Nếp sống văn hóa gia đình truyền thống ở Sóc Sơn hiện nay được biểu
hiện ở tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa ông bà, cha mẹ, con cái, tình nghĩa
hàng xóm, láng giềng với nhau.
Gia đình ở Sóc Sơn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nên cấu trúc
gia đình mở rộng vẫn chiếm một tỉ lệ lớn. Gia đình mở rộng chủ yếu là có ba
thế hệ cùng sinh sống. Trong gia đình, ông bà và cha mẹ là tấm gương mẫu
mực để con cháu noi theo, ông bà và cha mẹ luôn nghiêm khắc giáo dục con
cháu những điều hay lẽ phải trong cuộc sống hàng ngày, luôn chỉ bảo uốn nắn
con cháu ngay từ khi còn nhỏ để chúng hiểu được đạo con cháu. Trong gia
đình vấn đề giáo dục con, nuôi dạy con cái được đề cao, trách nhiệm của
người chồng và người vợ đối với gia đình là phải cùng nhau xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc.
Gia đình ở Sóc Sơn luôn đề cao các chuẩn mực đạo đức trong gia
đình, gia đình phải có trật tự, nề nếp, các hành vi của cá nhân phải tuân theo
truyền thống gia đình, không đi ngược lại với lợi ích của gia đình. Chẳng hạn
15


như con cái phải nối nghiệp truyền thống của gia đình; dù làm gì, ở đâu thì
cũng phải giữ được truyền thống gia đình, đó là sự hiếu học, lòng kính trọng
ông bà, cha mẹ, tôn trọng người lớn tuổi, không làm những điều xấu ảnh
hưởng đến danh dự của gia đình… Gia đình hòa thuận, êm ấm chính là mục
tiêu phấn đấu của nhiều gia đình. Trong quan hệ giữa vợ và chồng có sự chia
sẻ công việc cho nhau, người phụ nữ trong gia đình với vai trò là người mẹ,
người vợ luôn chăm lo đến việc xây dựng cuộc sống gia đình, biết cách tổ
chức và sắp xếp đời sống gia đình sao cho trong ấm, ngoài êm.

Đối với ông bà, cha mẹ con cháu cũng thể hiện lòng kính trọng, sự
biết ơn bằng những thành tích trong học tập, bằng việc tham gia giúp đỡ ông
bà, cha mẹ trong những công việc của gia đình. Khi có công việc trong gia
đình thì mọi người có sự bàn bạc, tham gia đóng góp ý kiến, và ý kiến của
người cha, người ông, người trưởng họ có ý nghĩa quyết định, mọi người đều
phải tôn trọng.
Trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội, nhất là tình làng, nghĩa xóm,
quan hệ hàng xóm láng giềng thường xuyên thăm hỏi và giúp đỡ lẫn nhau.
Khi gia đình có công việc, dù vui hay buồn thì luôn có sự quan tâm chia sẻ,
giúp đỡ của các gia đình đối với nhau, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, tinh thần cộng đồng. Khi đồng bào gặp khó khăn, nhất là trong thiên
tai, lũ lụt thì các gia đình lại thể hiện sự chia sẻ bằng cách quyên góp, ủng hộ
các giá trị vật chất cũng như tinh thần, mong muốn họ vượt qua khó khăn,
hoạn nạn.
Từ truyền thống của gia đình có nề nếp, nên ý thức tuân thủ pháp luật
trong gia đình được thực hiện. Đó là việc chấp hành các quy định, quy ước
của thôn, xóm, bảo vệ môi trường xung quanh.
Bên cạnh những yếu tố tích cực trong gia đình truyền thống thì cũng có
không ít những tồn tại có tác động đến xây dựng nếp sống văn hóa gia đình
trong điều kiện KTTT hiện nay ở Sóc Sơn. Như trên đã phân tích, gia đình
truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết
16


thống; bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt
gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ
nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và nuôi dạy thế hệ trẻ. Đó
là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà chúng ta cần kế thừa và
phát huy. Tuy nhiên, trong khi gìn giữ các giá trị tốt đẹp thì gia đình truyền
thống cũng bảo trì luôn cả những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh

đó sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó
tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông bà – các cháu; giữa cha mẹ
và con cái trong gia đình. Bên cạnh việc duy trì tính cộng đồng, gia đình
truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Trên thực tế, nhiều phong tục lạc hậu trong tổ chức ma chay, đám hỏi ở
một số gia đình của huyện Sóc Sơn còn mang nặng những nghi lễ rườm rà,
tốn kém; sự khác nhau về tuổi tác, lối sống, trình độ văn hóa cũng làm ảnh
hưởng tới quá trình xây dựng nếp sống văn hóa gia đình hiện nay. Ông bà,
cha mẹ có những suy nghĩ không giống với con cháu, cho rằng con cháu luôn
phải lắng nghe lời dạy bảo của ông bà, cha mẹ; không được trái lời khi có
quyết định trong gia đình. Do vậy làm cho sự phát triển của mỗi cá nhân bị
ảnh hưởng chính do sự áp đặt của gia đình trong việc chọn trường học, chọn
nghề nghiệp, kết bạn…
Như vậy, nếp sống văn hóa gia đình truyền thống ở Sóc Sơn vẫn mang
những giá trị truyền thống của gia đình có từ trước đến nay của dân tộc ta.
Những biểu hiện tốt đẹp trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình
cũng như giữa gia đình với cộng đồng xã hội vẫn được duy trì. Điều đó là phù
hợp với hoàn cảnh, cuộc sống cũng như truyền thống của văn hóa của nhân
dân Sóc Sơn. Tuy nhiên, gia đình truyền thống cũng có những mặt hạn chế,
đó là vẫn tồn tại các phong tục, nghi lễ lạc hậu, lỗi thời trong việc cưới hỏi,
ma chay; sự tôn trọng, bình đẳng giữa các cá nhân trong gia đình chưa được
đề cao; ông bà, cha mẹ nhiều khi áp đặt các ý kiến cá nhân buộc con cái phải
thực hiện theo.
17


Sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội ở Sóc Sơn hiện nay có tác
động có tác động đến gia đình trên nhiều phương diện, do vậy cũng tác động
đến nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn. Cũng chính sự tác động của điều
kiện kinh tế - xã hội đến gia đình và nếp sống văn hóa gia đình mà đặc điểm

của gia đình ở Sóc Sơn có sự thay đổi.
Có sự chuyển đổi dần từ gia đình nông nghiệp sang gia đình công
nghiệp, sản xuất kinh doanh.
Trước đây, Sóc Sơn còn là một huyện nghèo, sản xuất nông nghiệp
chiếm ưu thế, tỉ trọng trong nông nghiệp còn cao, ở mức 64%. Vì thế gia đình
nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Đặc điểm của
gia đình nông nghiệp là đông con cái, tập trung nhiều thế hệ, nghề nông trồng
lúa theo thời vụ rất cần có sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau nên con người sống
gắn bó, gia đình nào đông người thì càng tăng thêm sức lao động, hỗ trợ nhau
trong công việc đồng áng để thu hoạch nhanh chóng. Gia đình nông nghiệp
thường mang tâm lý tiểu nông, tư duy hạn hẹp, thường chỉ gắn bó với làng
quê, ruộng đồng, tác phong chậm chạp.
Sự phát triển của điều kiện kinh tế thị trường đã làm thay đổi cách suy
nghĩ của các gia đình, tạo điều kiện cho các gia đình chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, sản xuất nông nghiệp không còn chiếm ưu thế nữa mà các gia đình đã
chuyển sang sản xuất kinh doanh nhiều hơn. Gia đình thuần nông dần chuyển
sang gia đình thủ công nghiệp, sản xuất kinh doanh và dịch vụ, vì trong cơ
cấu kinh tế của huyện Sóc Sơn có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Xu hướng là
giảm tỉ trọng các ngành nông nghiệp, và tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ, đối với công nghiệp là 41,4%, đối với dịch vụ là 35,5%, còn nông
nghiệp chỉ còn là 25,1%.
Gia đình thủ công nghiệp, sản xuất kinh doanh có tư duy nhanh nhạy
hơn, tinh thần dân chủ, tự do giữa các thành viên có phần nhiều hơn so với gia
đình nông nghiệp, sự tham gia vào các hoạt động xã hội, hoạt động giao tiếp
của các cá nhân nhiều hơn.
18


Hiện nay, trong nhiều gia đình ở Sóc Sơn có sự đan xen của nhiều
ngành nghề khác nhau của các thành viên. Chẳng hạn, gia đình nông nghiệp

nhưng không phải tất cả các thành viên đều sản xuất nông nghiệp mà họ có
thể làm việc ở nhiều ngành nghề khác nhau, bố mẹ có thể làm nông nghiệp,
nhưng con cái có thể là công nhân, giáo viên, bác sỹ… Nghĩa là trong gia
đình có sự xuất hiện của nhiều ngành nghề, vừa có nông dân, vừa có trí thức,
công nhân. Sự thay đổi này chính là do những tác động của điều kiện kinh tế xã hội, do sự vận động của xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Vai trò và a v c a ng i ph n trong gia ình và xã h i có s thay i
Thời gian trước đây, khi kinh tế con gặp khó khăn, nhất là trong thời
kỳ bao cấp, người phụ nữ ở Sóc Sơn phải chịu nhiều vất vả trong công việc
gia đình, vừa lao động sản xuất vừa chăm sóc con cái, hơn thế nữa điều kiện
lao động đối với phụ nữ không được bảo đảm, người phụ nữ phải chịu thiệt
thòi và bị phân biệt đối xử.
Nhưng hiện nay, cùng với quá trình đổi mới của đất nước thì người
phụ nữ cũng được giải phóng, có điều kiện để phát triển năng lực của bản
thân hơn. Trong gia đình ở Sóc Sơn hiện nay, người phụ nữ đóng một vai trò
quan trọng, họ không chỉ chăm lo cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái mà sự
tham gia công tác xã hội của người phụ nữ ngày càng nhiều hơn. Người phụ
nữ ngày càng có trình độ văn hóa cao hơn và nhất là họ đã đảm đương những
chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp.
Chính là sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội đã làm cho vai trò và địa
vị của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội có sự thay đổi.
Kinh tế - xã hội phát triển làm cho quy mô của gia đình ở Sóc Sơn có
sự thay đổi.
Trước đây, gia đình nông nghiệp truyền thống thường tập trung nhiều
thế hệ cùng sinh sống, có thể là 3 hoặc 4 thế hệ, và trong gia đình thường là
đông con cái. Vì sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sự tập trung của tất cả các

19


thành viên trong gia đình, có quan hệ kinh tế gắn bó với nhau. Sự phụ thuộc

về kinh tế giữa các thành viên trong gia đình còn lớn.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi, dẫn đến
sự thay đổi trong quy mô gia đình ở Sóc Sơn. Gia đình hạt nhân chỉ có một
hoặc hai thế hệ xuất hiện ngày càng nhiều hơn, gia đình mở rộng có ba hoặc
bốn thế hệ có xu hướng giảm đi. Vì sự phụ thuộc về kinh tế đối với các thành
viên trong gia đình không còn nữa, thay vào đó là sự độc lập trong phát triển
kinh tế của một hoặc nhiều thành viên trong gia đình. Sự phát triển của điều
kiện kinh tế - xã hội làm cho tư duy, nhận thức của nhiều người thay đổi,
nhiều gia đình thay đổi khi làm nông nghiệp không mang lại thu nhập cao để
bảo đảm cuộc sống gia đình. Thế hệ con cái trong gia đình khi đã trưởng
thành, thường tạo lập cho mình một việc làm nhất định, có thể là công nhân,
thợ sửa chữa, buôn bán, kinh doanh… Do vậy, sự phụ thuộc về kinh tế không
còn nặng nề như trước nữa.
Có thể thấy rằng, những ưu điểm của gia đình hạt nhân hiện nay đó là,
gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả
năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có sự độc lập
về quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình
khoảng không gian tự do và tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế - xã hội là nhân tố tác động đến sự
thay đổi của gia đình ở Sóc Sơn hiện nay. Từ gia đình nông nghiệp dần
chuyển sang gia đình công nghiệp và sản xuất kinh doanh; Vai trò và địa vị
của người phụ nữ trong xã hội đang có sự thay đổi; Qui mô gia đình ở Sóc
Sơn cũng có sự thay đổi. Đây có thể nói là ba thay đổi cơ bản nhất đối với gia
đình ở Sóc Sơn trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.
1.2.1.2. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến nếp sống văn hóa gia
đình ở Sóc Sơn
Kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực đến điều
kiện kinh tế - xã hội thì nó cũng có những tác động tiêu cực, nhât là đối với
20



các lĩnh vực về văn hóa – xã hội. Sự tác động của điều kiện kinh tế thị trường
đối với nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn hiện nay cũng thể hiện theo hai
hướng.
Ảnh hưởng tích cực
Thứ nhất, điều kiện vật chất và tinh thần của gia đình không ngừng
được nâng cao, chất lượng cuộc sống được đảm bảo hơn.
Nhờ chuyển sang cơ chế thị trường mà các hộ gia đình đã mạnh dạn
đầu tư vốn và sức người, sức của để phát triển kinh tế gia đình, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế trong nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Nhờ vậy, thu nhập
của gia đình ngày càng được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần được cải
thiện đáng kể. Khi đời sống kinh tế đã được nâng cao thì nhu cầu vật chất và
tinh thần của các thành viên trong gia đình cũng được nâng lên rõ rệt từ ăn,
mặc, ở, đi lại, đến việc tăng cường đọc sách, báo, ti vi…
Khi kinh tế gia đình được đảm bảo và ổn định tạo điều kiện cho sự
quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Bố mẹ có
điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con cái tốt hơn, tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho con cái học tập, vui chơi nhằm hình thành nhân cách con người phát triển
về nhiều mặt. Hơn nữa, sự quan tâm, chăm sóc ông bà về sức khỏe, nhu cầu
về vật chất và tinh thần cũng được đảm bảo hơn.
Thứ hai, Sự phát triển của tình hình kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi cá
nhân và gia đình thay đổi cách suy nghĩ, tạo ra một tác phong công nghiệp
nhanh nhẹn, có kỷ luật hơn trong công việc.
Cơ chế tập trung và bao cấp tồn tại trong một thời gian dài khiến cho
đời sống sinh hoạt của các gia đình gặp nhiều khó khăn, tâm lý trông chờ, ỷ
lại vào sự bao cấp, viện trợ của nhà nước đang dần dần được thay thế bằng
tâm lý quyết đoán , mỗi gia đình phải thay đổi cuộc sống của chính họ bằng
việc vươn lên bằng chính sức lao động của bản thân gia đình, tự quyết định
chất lượng cuộc sống của mình.


21


Tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là một thành
phần kinh tế, các hộ gia đình phải luôn nắm bắt sự thay đổi của nhu cầu thị
trường, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa cũng như khoa học kỹ thuật
để thúc đẩy sản xuất phát triển. Họ đã tạo ra trong mỗi gia đình và cá nhân
một tác phong công nghiệp nhanh nhẹn, có tính kỷ luật của sự phát triển xã
hội. Mỗi thành viên trong gia đình khi tham gia vào quá trình sản xuất họ luôn
ý thức rõ trách nhiệm công việc mà họ đang tiến hành, đồng thời cũng nâng
cao sự đoàn kết gắn bó với nhau giữa các cá nhân trong gia đình.
Thứ ba, sự giao lưu và hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực đã làm
cho các gia đình thực sự bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên – giữa vợ
và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình
được đề cao, người phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào công tác xã hội.
Quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái đã trở nên bình đẳng
hơn. Đó là sự quan tâm, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống, lắng nghe ý
kiến của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Người phụ nữ ngoài vai trò
chăm sóc gia đình họ cũng có vai trò quan trọng trong công tác xã hội, đảm
nhận những vị trí công việc trong xã hội như nam giới.
Quyền tự do cá nhân của con cái được tôn trọng hơn. Cha mẹ tin tưởng
giao cho con quyết định những vấn đề quan trọng của cuộc sống, đặc biệt
trong việc tự do kết hôn, tự do lựa chọn công việc, nghề nghiệp…
Tác động tiêu cực
Thứ nhất, lối sống hưởng thụ, chạy theo các giá trị vật chất đang xuất
hiện ngày càng nhiều hơn trong gia đình
Kinh tế thị trường cũng tạo ra một lối sống mới – đó là lối sống hưởng
thụ đi kèm với nó là tâm lý tiêu dùng. Với lối sống và tâm lý ấy, các giá trị
vật chất đang ngày càng lấn át các chuẩn mực đạo đức và phẩm chất con
người, nhiều phong tục, nếp sống gia đình, và đạo lý cổ truyền bị ảnh hưởng,

xâm hại. Nếu trước đây trong nhiều gia đình ở Sóc Sơn vẫn coi trọng coi
trọng lối sống cần kiệm, thì nay trong nền kinh tế thị trường, nhiều gia đình
22


lại ra sức tiêu xài, phung phí, chạy theo tiện nghi. Chủ nghĩa tiêu dùng đã
được một bộ phận trong xã hội coi như một hệ tư tưởng mới. Sự tiêu dùng
phung phí được xem là một biểu hiện thành công đối với cá nhân, gia đình và
xã hội, cho dù nó không phải là những nhu cầu tiêu dùng hợp lý, trong khi
nhu cầu phát triển tinh thần lại rất thấp.
Sự du nhập các giá trị của phương Tây và quá trình toàn cầu hóa - hội
nhập kinh tế quốc tế trong nền kinh tế trị trường đã khiến cho một số người có
cách nghĩ và lối sống không thích hợp với cả hiện trạng kinh tế và truyền
thống văn hóa của con người Việt Nam. Những tư tưởng vong ngoại, sùng
ngoại ấy đã đang làm suy giảm các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
của gia đình Việt Nam nói chung và Sóc Sơn nói riêng. Điều đáng chú ý là nó
tạo ra sự chia ly, xung đột giữa các thành viên trong gia đình, giữa vợ và
chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong một gia đình.
Cùng với lối sống hưởng thụ và tâm lý tiêu dùng trong môi trường
kinh tế thị trường mà lợi nhuận là cái được đề cao đã hình thành, nảy sinh và
định hình một lối sống hám lợi. Nhiều gia đình bất chấp cả đạo lý, pháp luật
mà làm ăn phi pháp. Họ bị choáng ngợp trước sức mạnh của đồng tiền, đặt
đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ tình cảm anh em, bạn bè và cha mẹ.
Thứ hai, các tệ nạn xã hội trong gia đình đang có xu hướng gia tăng
Sự phát triển của kinh tế gia đình cùng với sự bùng nổ thông tin, các
phương tiện thông tin giải trí xuất hiện ngày càng nhiều, sự thiếu quan tâm
giáo dục của gia đình là một trong những nguyên nhân làm cho tệ nạn xã xuất
hiện trong gia đình. Số trẻ ở tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật, mắc vào
các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm ngày càng tăng lên.
Theo thống kê chưa đầy đủ của công an huyện Sóc Sơn thì số đối

tượng vi phạm pháp luật, mắc vào các tệ nạn xã hội là trẻ em không ngừng gia
tăng trong những năm gần đây, từ 543 em năm 2006 tăng lên 835 em năm
2009. Điều đáng nói là tính chất và mức độ của các vụ vi phạm pháp luật
ngày càng nghiêm trọng, phức tạp hơn.
23


Thứ ba, sự thay đổi các giá trị đạo đức trong gia đình
Quan niệm về hôn nhân đang có những xáo trộn. Số vụ ly hôn ngày
càng gia tăng, tạo nên những xung đột mạnh mẽ trong đạo đức vợ chồng, dẫn
đến nhiều trẻ em sau khi bố mẹ ly hôn không được giáo dục đạo đức một cách
lành mạnh ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của đứa trẻ. Theo số
liệu của Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Tòa án nhân dân huy ện Sóc S ơn,
số vụ ly hôn luôn có chiều hướng tăng nhanh theo các năm. Năm 2000, gần
278 vụ, năm 2004 có 390 vụ, đến năm 2008 tăng lên 512 vụ.
Sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu
thảo, kính trọng của các cháu đối với ông bà đang có những bi ểu hi ện vi
phạm đạo đức gia đình. Cha mẹ mải lo làm ăn kinh tế, nên không quan tâm
đến con cái, ông bà; con cháu đối xử tệ bạc, không tôn tr ọng, kính tr ọng ông
bà, đó là những hiện tượng biểu hiện sự lệch chuẩn đạo đức trong gia đình.
Quan hệ hàng xóm, láng giềng nhiều khi hay xảy ra mâu thuẫn do
nhiều nguyên nhân như sự cạnh tranh trong kinh doanh, buôn bán; những
tranh chấp về đất đai… làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự thôn, xóm, làng xã.
Như vậy, có thể nói rằng sự phát triển của đi ều kiện KTTT hi ện nay
đã tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã h ội trong đó có s ự
tác động không nhỏ đến nếp sống văn hóa gia đình cũng như việc xây d ựng
gia đình văn hóa hiện nay cả về mặt tích cực và tiêu cực. Xây dựng nếp sống
văn hóa gia đình không chỉ là nhiệm vụ của mỗi gia đình mà còn là trách
nhiệm của toàn xã hội để đưa gia đình phát triển thật sự ấm no, bình đẳng,
hạnh phúc v à ti ến b ộ, góp ph ần v ào s ự nghi ệp xây d ựng xã h ội ch ủ ngh ĩa

hi ện nay .
1.2.2. Ý nghĩa của việc xây dựng nếp sống văn hóa gia đình trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Sóc Sơn
Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn là xây dựng con
người, xây dựng nhân cách con người, phát triển con ng ười theo s ự ti ến b ộ
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã h ội hiện nay. Con ng ười m ới hi ện nay ph ải
là người có đạo đức, có văn hóa, và có trình độ khoa học kỹ thuật… Nhân
cách của con người được hình thành trong môi trường giáo dục của gia đình,
của nhà trường và của xã hội, trong đó môi trường gia đình được coi là cái nôi
nuôi dưỡng nhân cách con người. Vì vậy, cần phải xây dựng gia đình v à n ếp
sống văn hóa gia đình để cho nhân cách ấy được hình thành và phát triển.
Một xã hội tốt là một xã hội trong đó có nhiều gia đình tốt và trong m ỗi gia
đình này lại có nhiều con người tốt, và chính những con người t ốt này góp
phần làm nên sự phát triển của xã hội. Lòng nhân ái, tinh th ần đo àn k ết, s ự

24


khoan dung, độ lượng, lòng dũng cảm…đó chính là những đức tính và phẩm
chất cần có trong nhân cách con người.
Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở Sóc Sơn hiện nay l à phát tri ển
văn hoá xã hội, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây d ựng nền văn hoá
vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa thể hiện tính hiện đại, hội nh ập của n ền v ăn
hoá Việt Nam. Văn hóa gia đình biểu hiện trong đó nền văn hóa c ủa dân t ộc,
tình cảm vợ chồng tình nghĩa, thủy chung, tình cảm anh em gắn bó yêu
thương, tình cảm cha con sâu đậm…đó chính là truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta từ bao đời nay. Vì vậy xây dựng nếp sống văn hóa gia đình chính là
phát huy những giá trị truyền thống của dân t ộc trong thời k ỳ hi ện nay. Đó
cũng chính là góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc bởi những giá trị truyền thống trong gia đình cần phải được gìn

giữ và phát huy, đó là nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, bản s ắc c ủa dân t ộc
Việt Nam.
Xây dựng nếp sống văn hóa gia đình có ý nghĩa quan tr ọng đối v ới s ự
phát triển kinh tế - xã hội ở Sóc Sơn. Gia đình hạnh phúc, hòa thu ận, bình
đẳng, chấp hành pháp luật tốt và có kinh tế phát triển chính là góp ph ần v ào
sự phát triển chung của xã hội. Một gia đình m à m ối quan h ệ gi ữa v ợ v à
chồng, con cái và cha mẹ, ông bà và con cháu thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn, xung đột, có nhiều tệ nạn xã hội, không chấp hành các quy định của
thôn, xóm… gây mất trật tự trong khu dân cư, ảnh hưởng đến an ninh c ủa
thôn, xóm, làng xã, có nghĩa là gia đình đó đang gây ảnh h ưởng đến s ự phát
triển chung của xã hội. Nhiều gia đình như vậy sẽ làm cho xã hội không ổn
định. Chính vì vậy xây dựng nếp sống văn hóa gia đình có ý ngh ĩa quan
trọng.
Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở SÓC SƠN
– HÀ NỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY

Để có cơ sở đánh giá thực trạng xây dựng nếp sống văn hóa gia đình ở
Sóc Sơn – Hà Nội trong điều kiện KTTT hiện nay, chúng tôi tiến hành điều
tra bằng bảng hỏi với 150 người bao gồm:
- 20 gia đình
- 92 nữ
- 58 nam
25


×