Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.93 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG Ở CÁC
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG.
I. ĐẶC ĐIỂM NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG VÀ NHIỆM VỤ KẾ TOÁN
1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG.
Bán hàng là nghiệp vụ cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh
doanh lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại. Thực hiện
nghiệp vụ này, vốn của doanh nghiệp chuyển từ hình thái hiện vật là
hàng hoá sang hình thái tiền tệ. Nghiệp vụ bán hàng của doanh nghiệp
thương mại có những đặc điểm sau:
1.1. Các phương thức bán hàng.
Bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại được tiến hành theo
2 khâu
+Bán buôn
+Bán lẻ
1.1.1. Bán buôn:
Bán buôn là việc bán hàng cho các đơn vị các tổ chức kinh tế
khác với mục đích để chuyển bán hoặc để tiếp tục sản xuất. Đặc điểm
của nghiệp vụ bán buôn là hàng hoá chưa đến tay người tiêu dùng, giá
trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa được thực hiện đầy đủ.
Hiện nay có 2 phương thức bán buôn như sau:
+Bán buôn qua kho
+Bán buôn chuyển thẳng.
1.1.1.1 Bán buôn qua kho:
Là bán buôn hàng hoá mà hàng bán được xuất ra từ kho bảo quản
của doanh nghiệp. Trong phương thức này có 2 hình thức.
a. Bán buôn qua kho bằng cách giao hàng trực tiếp:
Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho doanh nghiệp
để nhận hàng. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại
diện bên mua. Sau khi đại diện bên mua kí nhận đủ hàng, bên mua đã
thanh toán


1.1.1.2. Bán buôn chuyển thẳng :
Là các doanh nghiệp sau khi mua hàng, nhận hàng mua không về
nhập kho mà chuyển bán thẳng cho bên mua.
Phương thức này có thể thực hiện theo các hình thức :
a. Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán :
Doanh nghiệp mua hàng của nhà cung cấp và chuyển đi bán thẳng
cho bên mua bằng phương tiện vận tải tự có hoặc mua ngoài. Hàng hoá
gửi đi vẫn còn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Khi nào bên mua
nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì doanh nghiệp mới ghi
nhận doanh thu.
Doanh nghiệp thương mại vừa thanh toán tiền mua hàng với người
cung cấp vừa phải kết toán tiền hàng với người mua.
Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp chịu hay bên mua phải trả tuỳ
thuộc vào hợp đồng đã ký giữa hai bên.
b. Bán buôn vận chuyển thẳng không có tham gia thanh toán :
Doanh nghiệp thương mại là trung gian hưởng hoa hồng theo
thoả thuận còn việc thanh toán tiền hàng, nhận hàng thì do quan hệ
giữa doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp cung cấp.
1.1.2. Bán lẻ :
Bán lẻ là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc cho
cơ quan, xí nghiệp để tiêu dùng tập thể, không mang tính chất sản
xuất. Trong khâu bán lẻ, chủ yếu là bán thu bằng tiền mặt và thường
thì hàng hoá xuất giao cho khách hàng và thu tiền trong cùng một thời
điểm. Vì vậy thời điểm tiêu thụ đối với khâu bán lẻ được xác định
ngay khi hàng hoá giao cho khách hàng.
Hiện nay việc bán lẻ thường được tiến hành theo các phương thức
sau:
1.1.2.1. Phương thức bán hàng thu tiền tập trung :
Phương thức này tách rời nghiệp vụ bán hàng và nghiệp vụ thu
tiền. Nhân viên thu ngân có nhiệm vụ viết hoá đơn thu tiền và giao cho

khách hàng để khách hàng đến nhận hàng ở quầy do nhân viên bán
hàng giao .
Cuối ca hoặc cuối ngày, nhân viên thu ngân tổng hợp tiền, kiểm tiền và
xác định doanh số bán. Nhân viên bán hàng căn cứ vào số hàng đã giao
theo hoá đơn lập báo cáo bán hàng, đối chiếu với số hàng hoá hiện còn
để xác định số hàng thừa, thiếu.
1.1.2.2. Phương thức bán hàng thu tiền trực tiếp :
Nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền và giao hàng cho khách.
Cuối ca (hoặc cuối ngày) nhân viên bán hàng kiểm tiền làm giấy nộp
tiền, kiêm kê hàng hoá hiện con ở quầy để xác định lượng hàng hoá
bán ra trong ca(ngày). Sau đó lập báo cáo bán hàng để xác định doanh
số bán, đối chiếu với số tiền đã nộp theo giấy nộp tiền.
Ngoài hai phương thức trên, trong bán lẻ còn có các hình thức khác
như bán lẻ tự phục vụ, bán hàng tự động,...
1.2. Các phương thức thanh toán :
Sau khi giao hàng cho bên mua và nhận được chấp nhận thanh
toán, bên bán có thể nhận tiền hàng theo nhiều phương thức khác nhau
tuỳ vào sự tín nhiệm, thoả thuận giữa hai bên mà lựa chọn phương
thức thanh toán cho phù hợp.
Hiện nay các doanh nghiệp thưong mại áp dụng hai phương thức
thanh toán:
• Thanh toán trực tiếp
• thanh toán không trực tiếp
1.2.1. Thanh toán trực tiếp :
Là thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, ngân phiếu giữa người mua
và người bán. Khi nhận được hàng hoá vật tư, lao vụ, dịch vụ thì bên
mua xuất tiền ở quỹ để trả trực tiếp cho người bán hay người cung cấp.
1.2.2. Thanh toán không trực tiếp :
Là hình thức thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển
tiền ở tài khoản của công ty hoặc bù trừ giữa cá đơn vị thông qua trung

gian là ngân hàng. Ngân hàng là cơ quan thanh toán không dùng tiền
mặt có trách nhiệm kiểm tra, đảm bảo việc thanh toán giữa các đơn vị
để tránh những rủi ro trong quá trình thu hồi vốn đồng thời khẳng định
rõ vai trò của mình trong các mối quan hệ kinh tế.
Trong thanh toán không trực tiếp có các phương thức thanh toán
sau:
1.2.2.1. Thanh toán chấp nhận :
Hình thức này áp dụng đối với các cơ quan doanh nghiệp tín
nhiệm với nhau, buôn bán giao dịch thưòng xuyên. Theo phương thức
này người bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền bán hàng ở người mua.
Người bán chỉ được thanh toán khi có sự đồng ý của bên mua. Khi bên
bán gửi hàng cho bên mua phải làm giấy tờ nhờ ngân hàng thu hộ tiền
bán hàng. Ngân hàng bên mua nhận được chứng từ và được sự đồng ý
của bên mua sẽ trích tiền từ tài khoản tiền gửi của bên mua để thanh
toán cho bên bán thông qua ngân hàng phục vụ bên bán.
1.2.2.2. Thanh toán theo kế hoạch :
Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp hai đơn vị
có quan hệ mua bán thường xuyên, có tín nhiệm với nhau. Đối với hình
thức thanh toán này thì căn cứ vào hợp đồng kinh tế bên bán định kỳ
chuyển cho bên mua hàng hoá và bên mua định kỳ chuyển cho bên
bán tiền hàng theo kế hoạch. Cuối kỳ hai bên sẽ điều chỉnh thanh toán
theo số thực tế.
1.2.2.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi :
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu ngân
hàng trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người cung
cấp hàng hoá, dịch vụ.
1.2.2.4. Thanh toán bằng séc :
Séc là chứng từ thanh toán do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn
đặc biệt của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản của
mình để trả cho người được hưởng có tên trên tờ séc dó. Đơn vị phát

hành séc phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng séc, séc chỉ được phát
hành khi tài khoản ở ngân hàng có số dư.
Có 3 loại séc : Séc bảo chi, Séc chuyển khoản, Séc định mức.
1.2.2.5. Thanh toán bù trừ :
Hình thức này áp dụng trong trường hợp hai bên có quan hệ mua
bán hàng hóa với nhau. Định kỳ hai bên phải tiến hành đối chiếu giữa
số tiền được thanh toán với số tiền phải thanh toán. Các bên tham gia
thanh toán bù trừ chỉ cần phải trả số chênh lệch sau khi đã bù trừ.
1.2.2.6. Thanh toán bằng thư tín dụng và tài khoản đặc biệt :
Thư tín dụng là lệch của ngân hàng phục vụ bên mua đề nghị
ngân hàng phục vụ bên bán trả tiền cho bên bán về số tiền hàng mà bên
bán đã cung cấp cho bên mua. Hình thức này thưòng áp dụng với các
đơn vị khác địa phương không có sự tín nhiệm lẫn nhau.
Việc thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa tích cực đối với nền
kinh tế quốc dân cũng như đối với doanh nghiệp. Nó làm giảm dược
lượng tiền trong lưu thông, giảm chi phí có liên quan đến việc in ấn và
phát hành tiền, giảm chi phí liên quan đến việc bảo quản, vận chuyển
tiền, cho phép kiểm soát được dễ dàng tính hợp pháp của các quan hệ
thanh toán trong nền kinh tế. Nó đảm bảo vốn bằng tiền mặt của các
đơn vị kinh tế và làm cho quá trình thanh toán trở nên đơn giản và
thuận lợi hơn rất nhiều so với việc thanh toán dùng tiền mặt.
1.3. Phạm vi thời điểm xác định hàng bán :
Trong doanh nghiệp thương mại, bán hàng là khâu cuối cùng của
hoạt động kinh doanh và có tính quyết định đến cả quá trình kinh
doanh. Do đó, việc xác định đúng hàng bán có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, khả năng thanh toán của
người tiêu dùng. Nó giúp cho các nhà doanh nghiệp xác định đúng
phương hướng hoạt động, xác định được lợi nhuận và các khoản nộp
ngân sách nhà nước... Để xác định hàng hoá là hàng bán thì căn cứ vào
các điều kiện sau đây:

• Phải thông qua mua-bán và thanh toán tiến tiền hàng theo một
phương thức thanh toán nhất định.
• Doanh nghiệp thương mại mất quyền sở hữu về hàng hoá và được
quyền đòi tiền hoặc thu được tiền của người mua.
• Hàng hoá bán ra thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp do
doanh nghiệp mua vào hoặc sản xuất, chế biến.
Ngoài ra còn có một số trường hợp ngoại lệ khác cũng được coi
là hàng bán như:
• Hàng hoá xuất để đổi lấy một hàng hoá khác, còn gọi là hàng đối
lưu (hàng đổi hàng).
• Hàng hoá xuất để thanh toán tiền lương cho công nhân viên,
thanh toán thu nhập, chia cho các bên tham gia liên doanh, thanh toán
các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá cho bên mua.
• Hàng hoá hao hụt tổn thất trong khâu bán theo hợp đồng bên mua
chịu.
Thời điểm xác định bán hàng là thời điểm chuyển quuyền sở hữu
về hàng hoá, nó phụ thuộc vào phương thức bán hàng và thanh toán
tiền hàng.
Đối với nghiệp vụ bán buôn, việc bán hàng có thể thanh toán
ngay hoặc chưa thì thời điểm được xác định là bán hàng là khi nhận
được tiền của bên mua hoặc nhận được báo có của ngân hàng hoặc giấy
chấp nhận thanh toán của bên mua.
Đối với phương thức bán lẻ thì thời điểm ghi chép hàng bán là
ngay sau khi nhận được báo cáo bán hàng và giấy nộp tiền.
1.4. Giá cả hàng bán:
Doanh nghiệp nào kinh doanh cũng vì mục tiêu lợi nhuận. Do vậy
mà khi kinh doanh một mặt hàng nào thì cũng phải xác định được giá
bán sao cho hợp lý để không ảnh hưởng đén tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp. Tức là phải đảm bảo bù đắp được giá vốn, bù đắp được
chi phí kinh doanh và hình thành lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp thường xác định giá bán theo công thức sau:


Thặng số thương mại được dùng để bù đắp chi phí kinh doanh và hình
thành lợi nhuận và được tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá mua thực tế
của hàng hoá tiêu thụ.
Gía bán = Gía mua thực tế + Thặng số thương mại
Cách tính mới là :

Hiện nay, Nhà nước chỉ quy định giá ở một số mặt hàng thiết
yếu, quan trọng còn các hàng hoá khác giá cả được xác định theo cung
cầu thị trường. Gía hàng bán được xem là một công cụ cạnh tranh của
doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải tự xác định được mức giá bán
phù hợp dựa vào nhu cầu thị trường, chu kỳ sản phẩm, uy tín về nhãn
mác của sản phẩm,... Trên thực tế tình hình kinh doanh luôn biến động,
thị trường luôn thay đổi đòi hỏi các nhà quản lý phải có tầm nhìn bao
quát, khả năng nghiên cứu nắm bắt kịp thời thông tin từ thị trường, từ
người tiêu dùng để đưa ra mức giá bán thích hợp cho từng mặt hàng
vào từng thời điểm, địa điểm cụ thể.
2. YÊU CẦU QUẢN LÝ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG :
Nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá liên quan đến từng khách hàng, từng
phương thức thanh toán và từng mặt hàng nhất định. Do đó, công tác
quản lý nghiệp vụ bán hàng đòi hỏi phải quản lý các chỉ tiêu như :
Quản lý doanh thu, tình hình thay đổi trách nhiệm vật chất ở khâu bán,
tình hình thu hồi tiền, tình hình công nợ và thanh toán công nợ về các
khoản phải thu của người mua, quản lý giá vốn của hàng hoá đã tiêu
thụ, ... quản lý nghiệp vụ bán hàng cần bám sát các yêu cầu sau :
• Quản lý sự vận động của từng mặt hàng trong quá trình xuất,
nhập, tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị.
• Nắm bát theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể

thức thanh toán, từng khách hàng và từng loại hàng hoá tiêu thụ.
• Đôn đốc thanh toán, thu hồi đầy đủ tiền hàng.
Gía bán = Gía mua thực tế × (1+ Tỉ lệ thặng số thương mại )
• Tính toán xác định từng loại hoạt động của doanh nghiệp.
• Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo chế độ quy
định.
3. NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN BÁN HÀNG :
Hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý
kinh doanh, nó là công cụ quan trọng phục vụ cho công tác điều hành
và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý vốn của các doanh
nghiệp. Đồng thời nó là nguồn thông tin số liệu tin cậy để Nhà nước
điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, kiểm tra, kiểm soát hoạt động
của các ngành, các lĩnh vực.
Do đó kế toán bán hàng cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Ghi chép, phản ánh chính xác đầy đủ, kịp thời tình hình bán
hàng cả về mặt giá trị và hiện vật của từng mặt hàng, nhóm hàng.
+Kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch về quá trình bán hàng. Tính toán chính xác giá vốn hàng hoá đã
tiêu thụ từ đó xác định đúng đắn kết quả hoạt động bán hàng.
+ Phản ánh và giám đốc tình hình thu hồi tiền, tình hình công nợ
và thanh toán công nợ với người mua.
+ Cung cấp các thông tin tổng hợp và chi tiết cần thiết về hàng
bán kịp thời phục vụ cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN
HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1. SỰ CẦN THIẾT :
Kế toán là một hệ thống thông tin kiểm tra tình hình và sự biến
động tài sản của đơn vị. Kế toán là một công cụ quản lý quan trọng để
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, để tổ chức, phản ánh và

giám đốc các loại tài sản vật tư tiền vốn.Từ việc phân tích các số liệu
kế toán các nhà quản lý đề ra biện pháp và hướng kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp thương mại tiêu thụ hàng hoá là khâu
vận động cuối cùng của hàng hoá nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó
việc quản lý quá trình tiêu thụ là rất quan trọng. Một trong các công cụ
quản lý quá trình tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất đó chính là kế
toán bán hàng. Kế toán bán hàng quản lý chặt chẽ các yếu tố của
nghiệp vụ bán hàng như : giá cả, quá trình thanh toán, thu hồi công nợ
và các chi phí có liên quan,... để từ đó tính toán chính xác kết quả của
hoạt động tiêu thụ hàng hoá, góp phần tiết kiệm chi phí bán hàng, tăng
vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho hoạt động kinh
doanh đạt hiệu quả cao nhất.
Ngày nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp thương mại đặc biệt phát triển mạnh.Do đó các hoạt động mua
bán trao đổi được mở rộng.Hoạt động tiêu thụ hàng hoá đã có nhiều
thay đổi cụ thể là có nhiều hình thức tiêu thụ hơn, có nhiều phương
thức thanh toán hơn,... tóm lại là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều
hơn, đa dạng hơn và phức tạp hơn. Lúc này hệ thống kế toán bán hàng
cũ sẽ không kiểm soát được hết các yếu tố của nghiệp vụ bán hàng. Do
đó cần phải hoàn thiện kế toán bán hàng để đáp ứng yêu cầu quản lý
trong điều kiện mới. Việc hoàn thiện kế toán bán hàng là rất cần thiết
và xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan.
2. NỘI DUNG HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI :
2.1. Hoàn thiện hạch toán ban đầu :
Hạch toán ban đầu là quá trình theo dõi, ghi chép, hệ thống hoá
các nghiệp vụ kinh tế, các hiện tượng và quá trình kinh tế trên chứng
từ làm cơ sở cho hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết. Hoàn thiện
hạch toán ban đầu đựơc thực hiện trên các nội dung sau :

+ Sử dụng mẫu chứng từ
+ Số lượng chứng từ lập
+ Tổ chức luân chuyển chứng từ.
Kế toán nghiệp vụ bán buôn bán lẻ sử dụng các mẫu chứng từ sau :
+ Hoá đơn GTGT ( Sử dụng đối với doanh nghiệp tính thuế
GTGTtheo phương pháp khấu trừ ). Hoá đơn GTGT được lập làm 3
liên, một liên giao cho khách hàng, hai liên giữ lại. Trên hoá đơn
GTGT ghi rõ giá bán chưa thuế, thuế GTGT, tổng gia thanh toán. Nếu
trên hoá đơn chỉ ghi tổng giá thanh toán thì thuế GTGT được tính trên
tổng giá thanh toán theo công thức sau :

Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực
tiếp trên GTGT thì chứng từ sử dụng ban đầu là hoá đơn bán hàng.
Gía ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế.
+ Biên bản thừa thiếu hàng hoá : phản ánh số hàng thiếu hoặc
thừa trong các nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.
+ Biên bản hàng không đúng hợp đồng : phản ánh số hàng không
đúng hợp đồng bị khách hàng trả lại hoặc từ chối thanh toán.
+ Các chứng từ gốc phản ánh quá trình thu hồi tiền, thu hồi công
nợ. Cụ thể :
-Nếu thu bằng tiền mặt, ngân phiếu nhập quỹ thì căn cứ vào các
Thuế GTGT = Tổng giá thanh toán × thuế suất thuế GTGT
phiếu thu, nếu thu bằng séc thì căn cứ vào bảng kê nộp séc.
-Nếu thu qua ngân hàng thì là giấy báo có và bản sao kê của ngân
hàng.
+ Báo cáo bán hàng, bảng kê bán lẻ hàng hoá (với bán lẻ hàng
hoá )
+ Đối với nghiệp vụ tiêu thụ qua đại lý hoặc bán hàng trả góp kế
toán sử dụng các chứng từ : Biên bản giao nhận hàng hoá, hợp đồng
giao nhận đại lý và các chứng từ thanh toán khác...

2.2. Vận dụng đúng tài khoản kế toán vào quá trình hạch toán.
2.2.1. Tài khoản sử dụng :
(1) Tài khoản 511 - “ doanh thu bán hàng“ : Tài khoản này dùng để
phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp thực hiện
trong kỳ kinh doanh, Doanh thu phản ánh trên tài khoản 511 - đối với
doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ - là doanh
thu chưa có thuế, còn đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp thì doanh thu này là doanh thu đã có thuế.
TK 511 được chi tiết thành các tài khoản cấp 2 sau:
+TK 5111- Doanh thu về hàng hoá đã được xác định là tiêu
thụ
+TK 5112 - Doanh thu về bán thành phẩm.
+TK 5113 - Doanh thu về dịch vụ, lao vụ.
+TK 5114 - Doanh thu trợ giá (chỉ sử dụng ở các doanh
nghiệp bán hàng theo chỉ đạo của Nhà nước ).
TK 511 có kết cấu như sau :
- Phản ánh thuế TTĐB hoặc thuế
XNK phải nộp.
- phản ánh doanh thu hàng bán bị
trả lại, giảm giá hàng bán.
- Kết chuyển doanh thu bán hàng
thuần để xác định kết quả.
Nợ TK 511 Có
TK 511không có số dư cuối kỳ
Khi hạch toán trên tài khoản 511 cần chú ý :
• Doanh thu phản ánh trên TK 511 là doanh thu đã thực hiện ( Khi
doanh nghiệp đã giao hàng và người mua đã thanh toán hoặc ký nhận
nợ ).
• Trường hợp đơn vị bán hàng theo phương thức trả góp thì doanh
thu phản ánh trên TK511 là doanh thu tính theo giá bán thu tiền một

lần(Gía bán thông thường ).
• Trường hợp đơn vị bán hàng nhận đại lý thì doanh thu phản ánh
trên TK511 là phần hoa hồng đơn vị được hưởng.
Các trường hợp sau không được phản ánh vào doanh thu :
• Các khoản thu về nhượng bán hoặc thanh lý TSCĐ.
• Các khoản thu về bán cổ phiếu, trái phiếu, thu được phân chia về
liên doanh.
- Phản ánh doanh thu thực tế về bán h ngà

×