Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm cơ bản của CHỦ NGHĨA DUY vật BIỆN CHỨNG về sự PHÁT TRIỂN và ý NGHĨA của nói đối với VIỆC NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.44 KB, 21 trang )

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CNDVBC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU

Nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng; chỉ có một thế giới
duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Ph. ăngghen viết, “Tính thống
nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này
được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo
thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa
học tự nhiên”1 Tính thống nhất của thế giới không chỉ được hiểu một cách
đơn giản là vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, một thế giới bao la rộng lớn “vô cùng, vô tận”, thế
giới thống nhất ở tính vật chất; mà còn phải hiểu rằng, trong thế giới có vô
số các sự vật hiện tượng khác nhau, chúng tồn tại trong mối liên hệ thống
nhất biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận
động biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy, để cải tạo thế giới, con
người phải nhận thức được các nguyên lý, quy luật vận động của thế giới,
từ đó tìm ra phương pháp tác động đúng, thúc đẩy sự vật hiện tượng phát
triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Muốn vậy, tư duy
của con người không thể nghèo nàn, khô cứng, hay cô lập tách rời; mà phải
phong phú, sinh động, linh hoạt, nhìn nhận và xét đoán sự vật hiện tượng
phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Phép biện chứng duy vật Mác xít là sản phẩm của sự phát triển tư duy
trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Sự ra đời của phép
biện chứng duy vật Mác xít là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan của Mác- Ăng ghen vào những năm 40 của thế kỷ

1


C. Mac và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t20. tr67.

1


XIX. Theo Ph. Ăngghen, phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và của tư duy.
Trong lịch sử, ngay từ khi triết học ra đời, những tư tưởng biện chứng đã xuất
hiện. Thời cổ đại, trong các học thuyết triết học đã chứa đựng những tư tưởng
biện chứng thiên tài, nhưng những tư tưởng đó chưa được chứng minh bằng
khoa học, nó còn mang tính chất mộc mạc, ngây thơ, trực quan, mang tính
phỏng đoắn . Đó là các tư tưởng biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp, La
mã cổ đại; tư tưởng biện chứng của triết học Phật giáo, Nho giáo ở phương
đông . Trong sự phát triển, phép biện chứng cũng đã có thời kỳ gắn liền với
chủ nghĩa duy tâm, đó là phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen
trong triết học cổ điển Đức. Phép biện chứng duy tâm ít có tác dụng trong
nhận thức và cải tạo thế giới. Chỉ đến thời kỳ của Các Mác và Ph. Ăngghen,
hai ông bằng thiên tài của mình đã giải phóng phép biện chứng thoát khỏi chủ
nghĩa duy tâm và đặt nó trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, giải phóng chủ
nghĩa duy vật khỏi ảnh hưởng của phương pháp siêu hình tạo thành chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật thực sự có giá trị to lớn trong
quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra sự khác hẳn về chất so với các
hình thức của phép biện chứng đã tồn tại trong lịch sử.
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật phản ánh một
cách khách quan, toàn diện toàn bộ quá trình vận động và phát triển của thế
giới thông qua hệ thống những nguyên lý, phạm trù và quy luật cơ bản của
mình; giúp cho con người luôn nhìn nhận, thấy rõ tính phong phú muôn vẻ,
tính vận động và phát triển không ngừng của thế giới vật chất, từ đó các chủ
thể có một cách nhìn biện chứng về thế giới, để khám phá ra phương pháp
hành động thích hợp tác động vào thế giới một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu

cầu của con người và xã hội. Trong hệ thống những nguyên lý ấy, nguyên lý
về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là một trong những nguyên lý
quan trọng, nó đã vạch rõ nguồn gốc, trạng thái, cách thức, khuynh hướng quá

2


trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Đó cũng là
một trong những cơ sở phương pháp luận quan trọng để nhận thức và chỉ đạo
thực tiễn. Với ý nghĩa như vậy Học trò xin chọn nội dung nhỏ này làm đề tài
của bài thu hoạch.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN ĐIỂM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật Mác xít, phát triển là một phạm
trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ
kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển là một trường hợp
đặc biệt của vận động. Phát triển cũng là một hình thức vận động, cũng là một
kiểu vận động, nhưng thông qua kiểu vận động đặc biệt này sẽ cho ra đời một
“cái mới” hơn hẳn về chất so với cái cũ (cao hơn và hoàn thiện hơn cái cũ).
Như vậy, không phải mọi sự vận động đều được coi là phát triển, mặc dù có
năm hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất (vận động cơ học, vận
động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học và vận động xã hội), nhưng
chỉ những hình thức vận động nào, những sự vận động nào làm cho các mặt,
các thuộc tính của sự vật hiện tượng, hoặc làm cho bản thân sự vật hiện tượng
đó tiến lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
ngày càng hoàn thiện hơn, sự vật hiện tượng có một bước nhảy vọt về chất,
cái mới được ra đời phủ định cái cũ, đó mới được coi là sự phát triển, sự phát
triển ấy là một quá trình “của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Như sự phát triển của một con người từ khi được sinh ra, lớn lên - trưởng

thành - hoàn thiện hơn về mọi mặt (cả về hình dáng, kích thước, thể chất,
trình độ.v.v.). Quan điểm của phép biện chứng duy vật khác hẳn, thậm chí
còn đối lập với quan điểm siêu hình khi bàn về sự phát triển. Nếu như phép
biện chứng duy vật cho rằng; phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật hiện tượng, là quá trình có sự nhảy vọt về chất, có sự ra đời của cái mới,
thì quan điểm duy vật siêu hình cho rằng sự vật hiện tượng không có sự phát
triển, hoặc nếu có thừa nhận sự phát triển của sự vật hiện tượng, thì đó chẳng
3


qua chỉ là sự tăng lên về mặt số lượng một cách đơn thuần chứ không có sự
nhảy vọt về chất, sự phát triển diễn ra theo đường tròn khép kín, chứ không
phải theo đường xoắn ốc vô tận. Như thế, quan điểm siêu hình về sự phát triển
của sự vật hiện tượng, thực chất là không thừa nhận có sự phát triển, đó chỉ là
sự vận động dẫn đến sự lặp lại sự vật hiện tượng cũ một cách nguyên si,
không có sự ra đời của cái mới. Khi so sánh phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình, V.I. Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản về sự phát
triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là sự giảm đi và tăng lên, như là sự
lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân
đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan
hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập), quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo
nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới
cho ta chìa khoá của sự (tự vận động) của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có
nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của
tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ
và nảy sinh ra cái mới”2.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vật hiện tượng, đó là quá trình tự thân vận động, tự thân phát triển;
sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới đều có nguyên nhân,
nguồn gốc từ bên trong của bản thân sự vật hiện tượng, do quá trình đấu tranh

giải quyết mâu thuẫn, chứ không phải do “cái hích” của thượng đế, sự tác
động của một đấng siêu nhiên nào từ bên ngoài vào sự vật hiện tượng. Sự tác
động từ bên ngoài sự vật hiện tượng (không phải thần linh, thượng đế) chỉ
làm tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình phát triển của chúng, chứ không phải
là nguyên nhân hay nguồn gốc của sự phát triển ấy.
Xã hội loài người là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên và
của chính con người, muốn tồn tại và phát triển cũng vậy, trước hết xã hội đó
phải tự giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội, như mâu
2

. V.I. Lênin toàn tập, tập 29, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1981, tr.379.

4


thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất về mặt kinh tế, giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng về mặt cấu trúc xã hội, giữa các giai cấp
trong xã hội có giai cấp.v.v.
Bản thân con người muốn phát triển được cũng phải tự giải quyết rất
nhiều mâu thuẫn ngay ở bên trong con người, như mâu thuẫn giữa quá trình
hấp thụ và bài tiết, giữa đồng hoá và dị hoá, giữa nhu cầu và khả năng, giữa
cái muốn biết và cái chưa biết.v.v.
Chỉ khi nào những mâu thuẫn cơ bản của sự vật hiện tượng được giải
quyết, khi đó mới có sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất và sự ra đời của cái
mới. Song không phải cứ có mâu thuẫn là lập tức có ngay kết quả của sự giải
quyết mâu thuẫn ấy, có ngay sự nhảy vọt về chất, mà chính ngay bản thân
mâu thuẫn đó cũng phải trải qua một quá trình phát triển (có thể là lâu dài, có
thể là nhanh chóng, điều này tuỳ thuộc vào tính chất của sự vật hiện tượng,
của mâu thuẫn và phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể), mâu thuẫn đó
phải vận động phát triển bắt đầu từ sự khác biệt, đến sự đối lập, đến mâu

thuẫn và mâu thuẫn gay gắt không thể điều hoà, tạo nên những “cuộc xung
đột” giữa các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn. Đồng thời với quá trình
phát triển của mâu thuẫn là quá trình diễn ra sự tích luỹ dần dần về lượnglượng của chất- của sự vật hiện tượng, cũng chính sự tích luỹ về lượng này đã
làm cho mâu thuẫn có sự vận động phát triển đến đỉnh cao của nó, đến khi nó
không thể giữ nguyên được trạng thái như cũ nữa, tức là mâu thuẫn đó phải
được giải quyết, sự thống nhất cũ phải được phá vỡ để thiết lập một sự thống
nhất mới, cái chất cũ đến đây đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh mới nữa, đòi hỏi phải có một chất mới, một sự vật
hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật hiện tượng cũ; đó cũng là lúc sự vận
động của lượng đã vượt quá giới hạn (gọi là độ) đạt đến điểm nút, cái giới hạn
mà ở trong đó đã diễn ra sự biến đổi về lượng (cũ) đến đây cũng bị phá
vỡ, thay vào đó là một giới hạn mới được thiết lập và tất nhiên lại có một sự

5


biến đổi mới về lượng ở trong giới hạn mới này. Đến đây ta có thể khẳng
định: mâu thuẫn đã được giải quyết, chất cũ đã bị chất mới phủ định, sự vật
hiện tượng cũ đã bị sự vật hiện tượng mới phủ định (cái mới đã ra đời thay thế
cái cũ).
Sự phát triển của sự vật hiện tượng thường là một quá trình lâu dài, liên
tục, do đó chúng ta không được nóng vội, áp đặt dễ dẫn đến chủ quan, duy ý
chí. Chúng ta chỉ có thể nhận biết quá trình đó, tác động vào, định hướng cho
sự phát triển đó nhanh hơn để có tác dụng tốt hơn cho nhu cầu của con người.
Quá trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới không phải
chỉ đi theo đường thẳng, mà phát triển theo đường xoắn ốc; chúng trải qua
nhiều lần phủ định biện chứng, với những chu kỳ (vòng khâu của sự phát
triển) khác nhau, mỗi chu kỳ phát triển lại có hai lần phủ định cơ bản và có
thể có nhiều lần phủ định không cơ bản. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần một
tạo ra cái đối lập với cái ban đầu, giai đoạn này còn được gọi là khâu trung

gian trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Khi kết thúc phủ định cơ
bản lần hai tạo ra một sự vật hiện tượng mới có nhiều thuộc tính giống như
cái ban đầu, nên đôi khi tưởng là cái ban đầu, nhưng thực chất nó không phải
là cái ban đầu, mà là cái mới, là cái dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên
cơ sở cao hơn. Đến đây mới kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật hiện
tượng. Song, quá trình phát triển của sự vật hiện tượng không phải chỉ có một
chu kỳ, mà có thể có nhiều chu kỳ phủ định, với những tính chất mức độ khác
nhau; cứ kết thúc chu kỳ này lại có sự ra đời của chu kỳ mới.
Do sự vật hiện tượng có nhiều mặt, nhiều thuộc tính khác nhau, nên có
sự vận động biến đổi về lượng, sự vận động phát triển của các loại mâu thuẫn,
sự nhảy vọt về chất của chúng diẽn ra rất phong phú, đa dạng, làm cho sự ra
đời của cái mới cũng rất đa dạng, phong phú muôn vẻ. Cái mới ra đời không
nhất thiết khi nào cũng phải là cả toàn bộ sự vật hiện tượng, mà có thể cái mới
ra đời chỉ ở mặt này, mặt kia; cũng như sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất

6


vừa có những bước toàn bộ, vừa có những bước cục bộ, bộ phận. Điều đó cho
thấy, quá trình nhận thức và cải tạo thế giới con người phải luôn có cách nhìn
biện chứng, phải vừa thấy cái toàn bộ, đồng thời vừa thấy cái bộ phận, cái cụ
thể, tránh phiến diện hoặc chung chung, đại khái, qua loa cho xong việc; từ đó
tìm ra nhiều phương pháp tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất.
Hình ảnh đường xoắn ốc cho thấy, quá trình phát triển của các sự vật
hiện tượng trong thế giới diễn ra quanh co, phức tạp, khó khăn, có thể có
những bước thụt lùi tạm thời. Bước thụt lùi này chỉ như một giai đoạn có thể
diễn ra, nằm trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng, chứ không được
cho rằng bước thụt lùi ấy cũng là một sự phát triển – hai cách hiểu đó hoàn
toàn khác nhau. Do sự đa dạng, phong phú muôn hình, muôn vẻ của thế giới
vật chất, nên khả năng xảy ra bước thụt lùi này cũng rất phong phú, đa dạng,

chúng có thể xảy ra ở mặt này hay mặt khác, ở nơi này hoặc nơi khác trong
quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Vì vậy, chúng ta không nên bi
quan, chán nản, nghi ngờ và thiếu niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, nhất
là khi cái mới vừa được “thoát thai” từ trong lòng cái cũ, cái cũ chẳng những
còn rất mạnh, mà chúng còn có khả năng “thích nghi”, còn đang được “che
giấu”rất tinh vi xảo quyệt để tiếp tục tồn tại và phát triển cùng với cái mới; cái
mới ra đời thường còn rất non yếu, bản thân “sức đề kháng” của cái mới chưa
đủ sức chống lại sự tấn công từ nhiều phía của những cái đối lập, chưa thực
sự “quen” với môi trường hiện tồn. Do đó, sự thụt lùi, sự thất bại của cái mới
ở giai đoạn đầu này cũng là điều dễ hiểu, đòi hỏi con người phải nhận biết
được vấn đề này để vạch ra cách thức, bước đi, cách làm phù hợp, hạn chế tối
đa những tổn thất đáng tiếc đi đến thành công. Bên cạnh đó, chúng ta vừa cần
có thái độ dứt khoát ủng hộ, bảo vệ cái mới, vừa tạo điều kiện cho cái mới
phát triển. Đồng
thời, cần phân biệt rõ cái mới thực sự và cái mới giả hiệu – giả danh để kịp thời
ngăn chặn, loại trừ. Cái mới thực sự là cái ra đời hợp quy luật, mang nội dung

7


mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những yếu tố còn phù hợp của cái cũ, là cái
khác hẳn về chất so với cái cũ, mặc dù có thể cái mới còn nhiều mặt non yếu,
chưa theo kịp yêu cầu đòi hỏi của điều kiện khách quan, nhưng cái mới bao
giờ cũng là cái tất thắng. Vì lẽ đó, trong cuộc sống cũng như trong quá trình
hoạt động thực tiễn, một mặt, chúng ta luôn chú trọng hướng tới cái mới, phát
hiện ra cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển của nó một cách
vừa sâu sắc, vừa toàn diện; mặt khác, chúng ta cần phải luôn tỉnh táo, sắc sảo
trong phân biệt cái mới với cái cũ, cái mới thực sự với cái mới giả hiệu. Tích
cực hoạt động thực tiễn để làm chuyển biến “tương quan lực lượng” giữa cái
mới và cái cũ, làm cho cái cũ mất dần đi, cái mới ngày càng mạnh lên.

Xuất phát từ đặc điểm, tính chất, trạng thái, cách thức của quá trình vận
động phát triển của sự vật hiện tượng, nên có thể có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau, đòi hỏi con người phải nhận thức được từng giai đoạn phát
triển ấy, vạch rõ được những đặc điểm, dự báo khuynh hướng cũng như một
số khả năng ngẫu nhiên có thể xảy ra của từng giai đoạn. Trên cơ sở đó dự
kiến các “phương án” để bảo vệ và phát triển cái mới, đáp ứng nhu cầu của
mỗi con người và toàn xã hội. Tránh xem xét cứng nhắc, bảo thủ, định kiến
hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào trong quá trình phát triển của
sự vật hiện tượng. Tuỳ theo từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo khả
năng của từng sự vật hiện tượng mà đặt ra yêu cầu đòi hỏi “vừa sức” ở sự
phát triển của sự vật hiện tượng, đồng thời cần phát huy tốt vai trò tích cực,
chủ động, sáng tạo của con người để tạo ra sự thuận lợi cho sự phát triển của
sự vật hiện tượng, nhất là trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản
của phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, cách thức, con đường
quá trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Nguyên tắc phát
triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan
trọng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phát triển là một

8


trường hợp đặc biệt của vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương
thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày
càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển
của sự vạt, hiện tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi
về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển; phải chỉ ra được
nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu
thuẫn; phảI xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ

định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật,
hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy luật vận động
và phát triển, bởi vậy phải biết ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt
nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự
vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng
phát triển của nó trong tương lai. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát hiện những khuynh
hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa những khuynh
hướng ấy.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình
trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triểnlại có những đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để
tìm ra những hình thức tác động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế
sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới
hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ; phải
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ v. v…Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn

9


ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiiến thắng cái
cũ. Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời,
tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Nhận thức được như vậy sẽ
vững tin ở cái mới, tìm mọi cách vượt qua cản trở trên con đường phát triển,
tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ. Trong quá trình thay thế cái cũ
phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo nhữngyếu tố tích cực đã đạt

được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Nguyên lý triết học Mác xít nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói
riêng là cơ sở lý luận khoa học và cách mạng cho con người đi nhận thức và
cải tạo thế giới. Sự ra đời của cái mới là một tất yếu khách quan, là su hướng
của sự vật trong thế giới tuân theo quy luật khách quan. Vận dụng nguyên tắc
phát triển vào nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Sự phát triển của xã hội loài người không phải là một quá trình biến đổi
lộn xộn, toàn những ngẫu nhiên, mà là một quá trình biến đổi có quy luật, gắn
liền với vai trò của con người một cách chặt chẽ, sự phát triển đó được đánh
dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện ở sự phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất và kế tiếp nhau của các nền văn minh. Mỗi giai đoạn chuyển giao từ
hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác đều có một thời
kỳ quá độ, đó là thời kỳ còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố tàn dư của xã
hội trước đó với những yếu tố mới, nhân tố mới của xã hội mới ra đời. Do
vậy, việc nhận thức đúng và xác định đúng con đường phát triển mới của mỗi
quốc gia, dân tộc là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Dưới ánh sáng lý luận
Mác-Lênin về nguyên lý phát triển, chúng ta sẽ có cơ sở nhận thức đúng đắn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trước hết, việc lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội và kiên định mục
tiêu con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ cũng như Nhân Dân ta
10


đã và đang thực hiện là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, hợp với quy luật phát
triển của lịch sử xã hội loài Người. Bởi xem xét lịch sử xã hội loài Người, thì
sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Xã hội từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ phát triển sang xã hội chiếm hữu nô

lệ, rồi tiếp tục chuyển sang chế độ Phong Kiến, rồi xã hội Tư Bản Chủ Nghĩa
ra đời thay thế xã hội Phong Kiến, Cuối cùng chế độ xã hội- xã hội chủ nghĩa
ra đời thay thế chủ nghĩa Tư Bản là một quá trình phát triển hòan toàn phù
hợp quy luật vận động, phát triển của lịch sử tiến hoá của Nhân Loại. Sự phát
triển diễn ra luôn luôn đúng với nội dung căn bản của nguyên lý triết học Mác
đã chỉ ra.. Mặc dù tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay của các nước
trên thế giới, mà nhất là ở Việt Nam chúng ta đang đứng trước những thời cơ
và thách thức không nhỏ. Đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đúng đắn,
khoa học về tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau.
Thứ nhất, Nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hơn
nữa, nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, mà từ chế độ phong kiến lạc hậu, nghèo nàn, trì trệ về mọi
mặt; nên vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn. Trong thời kỳ quá độ này còn
có sự tồn tại đan xen giữa những cái lỗi thời, lạc hậu của chế độ xã hội cũ, với
những yếu tố đang phát triển của chế độ xã hội mới, cuộc đấu tranh giữa
những yếu tố cũ và yếu tố mới đó tuy diễn ra gay gắt, có lúc tưởng chừng như
cái mới đã bị thất bại, nhưng do chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa
ra đời là hợp quy luật phát triển khách quan của lịch sử, là sản phẩm của quá
trình đã có sự tích luỹ lâu dài về mọi mặt trong lòng chế độ xã hội cũ, nên nó
sẽ là cái tất thắng và thực tế nó đã trở thành hiện thực trên thế giới.
Quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một thời kỳ quá
độ đầy dãy những khó khăn, phức tạp với điểm xuất phát rất thấp, cơ sở vật
chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề; trong khi

11


đó những tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại dai dẳng, đan xen với những yếu tố
mới đang nảy sinh, có nhiều vấn đề đối lập giữa chế độ xã hội cũ và chế độ xã

hội mới về tính chất, mục tiêu, phương hướng và khuynh hướng phát triển,
giữa những mặt còn tồn tại rất mạnh với những mặt mới ra đời còn rất non
yếu, sự ảnh hưởng về tư tưởng, tâm lý, thói quen của chế độ phong kiến hàng
trăm năm ở nước ta còn đè nặng trong cuộc sống của mỗi người dân Việt
Nam, tư duy vẫn chưa thoát khỏi “lối suy nghĩ xưa cũ”, nhiều vấn đề trong lối
sống vẫn giữ nguyên theo “phong tục tập quán cổ xưa”, cách nghĩ, cách làm
phần lớn vẫn chưa thoát khỏi kiểu “thuần nông”, “làng xã”, “khép kín”. Cùng
với đó, là những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới, nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và thời kỳ mở
cửa, hội nhập quốc tế, như các tệ nạn xã hội, sự xuống cấp, suy thoái về đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân…tất cả đã tạo
thành rào cản lớn trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những vấn đề nổi cộm đó đang đối lập gay gắt với những mặt, những nội
dung mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng cho một chế độ xã hội mới tốt đẹp
hơn, như sự công bằng, bình đẳng trong xã hội; dân chủ, kỷ cương của luật
pháp; xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.v.v. đây vừa là
biểu hiện của hàng loạt những mâu thuẫn khách quan, vừa là biểu hiện sự
phong phú của quá trình phát triển không phải theo đường thẳng, mà theo
hình xoắn ốc, quanh co phức tạp. Bởi vậy, nếu chỉ nhìn vào những cái trước
mắt, chỉ thấy những khiếm khuyết trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở thời kỳ quá độ mà bi quan, chán nản, không tin tưởng vào sự tất thắng của
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cũng như ở nước ta là điều nguy
hiểm, là vô tình tạo “kẽ hở” cho các thế lực thù địch “nhảy vào” chống phá.
Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tính tất
yếu, cũng như những khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
12



Thứ hai, Chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn hợp
quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế
chung của thời đại. Tuy chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào
khủng hoảng, thoái trào, không còn như những năm của thế kỷ XX, nhưng
những năm gần đây, sau quá trình được “kiểm chứng” tất cả những gì diễn ra
sau sự sụp đổ ấy, nhân loại trên toàn thế giới nói chung, nhân dân Việt Nam
nói riêng đang ngày càng thấy rõ “bộ mặt” thật của một chế độ xã hội không
phải là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình chính trị mất ổn định, các cuộc
khủng bố đẫm máu, xung đột sắc tộc, xảy ra triền miên, nền kinh tế bị kìm
hãm, đời sống của đại bộ phận nhân dân ở các nước đó bị đảo lộn và ngày
càng xuống cấp một cách trầm trọng, các cuộc chạy đua về chính trị, chạy đua
vào các vị trí lãnh đạo xã hội ngày càng làm gia tăng kiểu “dân chủ vô chính
phủ”, làm rối loạn trật tự xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng ở Việt
Nam chúng ta thì hoàn toàn ngược lại, tình hình chính trị ổn định, các dân tộc
anh em ngày càng đoàn kết chặt chẽ; nền kinh tế ngày một phát triển mạnh
hơn, đời sống của đại bộ phận quần chúng nhân dân từng bước được cải thiện,
sự thành công của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, của cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội khoá XI.v.v. là những cơ sở thực tiễn sinh động minh chứng cho sự
lựa chọn đúng đắn con đường đang đi của dân tộc. Hơn nữa, hiện nay trên thế
giới đã và đang xuất hiện một số nước tuyên bố đi lên theo con đường chủ
nghĩa xã hội, như Vênêzuêna, Bôlivia; có một số nước mặc dù không tuyên
bố, nhưng qua những hoạt động thực tiễn của họ, chúng ta có thể nhận thấy
họ đang từng bước “đặt chân” vào con đường của chủ nghĩa xã hội; ở một số
nước khác như Achentina, Brazin thì các đảng cộng sản hoặc phong trào
cánh tả đang đẩy mạnh hoạt động của mình theo hướng chủ nghĩa xã hội;
hoặc như “ngay ở các nước Liên Xô cũ và Đông Âu, người ta đang thấy sự
xuất hiện nhiều dấu hiệu tích cực mới, báo trước một sự phục hồi ý thức và tổ
chức cách mạng của nhân dân khi nhân dân trải qua kinh nghiệm chính trị
khắc nghiệt của bản thân đang được gỡ bỏ nốt những ảo tưởng cuối cùng.
13



Đứng trước những ung nhọt, khuyết tật cố hữu và những “căn bệnh” mới nảy
sinh của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư sản vẫn phải thừa nhận một tất yếu
khách quan rằng, quá trình phát triển của xã hội loài người sẽ phủ định xã hội
tư bản đương thời để tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Tuy họ
không giám tuyên bố đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng thông qua
những hoạt động thực tiễn của họ ta thấy có xu hướng, nguyện vọng muốn đi
lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, nếu xét sự phát triển của xã hội loài người
từ cộng sản nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu của nó là xã hội chủ nghĩa),
thì đây chính là một biểu hiện khá sinh động về một chu kỳ phủ định biện
chứng. Mà như thế cũng đồng nghĩa với việc phát triển tất yếu từ chế độ xã
hội không có giai cấp, trải qua các chế độ xã hội có giai cấp và lên xã hội
không có giai cấp. Nhưng xã hội không có giai cấp ở kết quả của phủ định lần
hai này không giống nguyên si như xã hội cộng sản nguyên thuỷ- một xã hội
vừa mới “thoát thai” từ loài động vật thuần tuý, mà trên cơ sở cao hơn, khác
hẳn về chất so với tất cả các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Ví dụ như,
ở thời kỳ nguyên thuỷ, con người lao động sản xuất chủ yếu bằng săn bắn, hái
lượm, công cụ lao động chủ yếu là cành cây, hòn đá, rồi đến đồ đồng, đồ
sắt…nhưng đến thời kỳ cộng sản chủ nghĩa, con người lao động trong điều
kiện tự động hoá cao, làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu, con người có
điều kiện phát triển toàn diện nhất. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển
của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta luôn kiên định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một kinh
tế phổ biến là sản xuất nhỏ, tụt hậu qua xa so với các nước trên thế giới, vì
vậy phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, Đảng ta luôn chú ý đến vấn đề
xã hội, từng bước giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đồng thời phải bảo vệ
môi trường nhằm đảm bảo phát triển một cách bền vững.


14


Chế độ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa mới là xu hướng và là sự lựa chọn
của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội ra đời đối lập với chế độ
xã hội cũ trước đó- chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa. Đây là một biểu hiện của
sự phủ định lần hai trong quá trình phát triển của xã hội, sự xuất hiện của xã
hội mới đối lập với xã hội trước đó để dường như lặp lại xã hội ban đầu,
nhưng trên cơ sở cao hơn. Vì lẽ đó, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội không
phải là việc làm áp đặt, mà hoàn toàn là do đòi hỏi của khách quan lịch sử, mục
đích đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ là làm sao cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người được phát triển
toàn diện, không có áp bức bóc lột.v.v.điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng
của các nhà kinh điển mác xít, các ông cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản không
phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện
thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện
thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay”3. Nên một mặt, Đảng ta tích cực chăm lo
cho dân, quyết tâm thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, phát huy vai trò to lớn của toàn dân trong quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa; mặt khác nhân dân ta vẫn một
lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng cộng
sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nên việc chúng
ta nhất quán đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội cũng chính là một biểu
hiện của sự thống nhất, sự phù hợp của ý Đảng với lòng dân, tạo ra sức mạnh
diệu kỳ của tinh thần đoàn kết dân tộc. Nếu như trong lịch sử của dân tộc ta,
Hồ Quý Ly đã bị thất bại vì “lòng dân không theo”, Nguyễn Trãi đã giành
thắng lợi vì ông biết “người đẩy thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là
dân, có bị lật thuyền mới biết dân mạnh như nước”, thì đến Hồ Chí Minh, với
tư tưởng xuyên suốt “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu

cũng xong”, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên những
chiến công vang dội, những kỳ tích không chỉ trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
3

. Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr. 51.

15


Tư tưởng đó của Người ngày nay được Đảng ta đang tiếp tục vận dụng và
nâng lên một tầm cao mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng”, “lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các
dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài” 4. Như vậy, chúng ta có thể tự tin mà khẳng định rằng,
chúng ta đã đi đúng con đường của lịch sử, và chúng ta đủ khả năng để tiếp
tục tiến lên một cách vững chắc trên con đường ấy.
Thứ ba,Trong tình hình hiện nay, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ta còn gặp rất nhiều khó khăn, một số khiếm khuyết, một số tiêu
cực mới nảy sinh làm cản trở quá trình phát triển, tạo ra sự quanh co phức tạp,
thậm chí có cả một số mặt bị thụt lùi so với chế độ xã hội trước. Bằng nỗ lực
của mình, những năm gần đây Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức
khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi để tập
trung sức cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau hơn 20 năm đổi
mới, đến nay chúng ta đã và đang thu được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
mặt, “thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất – kỹ thuật
của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động”, “tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định” 5, kết quả đó

càng khẳng định sự lựa chọn đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
dân tộc ta. Những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình xây dựng chế độ xã hội
mới chỉ là tạm thời; với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, giám
nhận khuyết điểm về mình, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy và đang lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày
càng vững mạnh. Vì vậy, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định,
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H..2006, tr.116.
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H..2001,
tr.15.
4
5

16


“tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan vì hợp quy luật tất yếu của lịch
sử loài người”, tiếp tục tư tưởng ấy, đến đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh sự
xác định đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta: “Theo quy
luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” 6. Tại
đại hội Đảng lần thứ X, trong khi đánh giá quá trình thực hiện công cuộc đổi mới
đã đề cập đến vấn đề nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
đại hội đã nêu rõ: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản”7.
Hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang tìm mọi cách để thích nghi trong
điều kiện mới, nên nền kinh tế của các nước này vẫn đang phát triển, nhưng đi
đôi với sự phát triển về kinh tế ấy là sự “tha hoá” từng bước, từng mặt của
con người, nhất là người lao động. Theo tư tưởng của Các Mác và Ph.
Ănghen xã hội tư bản càng phát triển mạnh về kinh tế, thì sự “tha hoá” lao

động, “tha hoá” của con người càng lớn. Trên thực tế ta thấy ở nhiều nước tư
bản chủ nghĩa hiện nay, sự suy đồi về luân lý đạo đức, lối sống; tình trạng thất
nghiệp gia tăng, đời sống người lao động còn nhiều khó khăn, cực khổ; người
lao động dần trở thành “nô lệ” của máy móc, của khoa học hiện đại; nhiều
chính sách xã hội không “xuống đến hàng thứ dân”, xuất hiện ngày càng
nhiều ung nhọt khó chữa như một “căn bệnh thế kỷ” tự tàn phá dần chế độ tư
bản chủ nghĩa ở các nước đó. Trong khi đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói
chung, ở Việt Nam nói riêng, đi cùng với sự phát triển về kinh tế là sự phát
triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Cứ mỗi nấc thang phát triển của nền sản
xuất xã hội là một sự phát triển về chính trị, văn hoá, đời sống vật chất, tinh
thần của người lao động cũng như của toàn dân tộc; con người ở đây lại có
điều kiện để phát triển toàn diện. “Chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì
6

tr.14.
7

tr.17.

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H..2001,
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H..2006,

17


quyền lợi cá nhân và quyền lợi của nhà nước cùng quyền lợi của tập thể mới
nhất trí.”8Vì vậy, những năm gần đây bộ mặt của đất nước ta ngày càng rạng
rỡ, niềm tin của nhân dân ta vào Đảng ngày thêm vững bền, quyết tâm vượt
qua thách thức đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn được biểu hiện sinh
động ở mọi lúc, mọi nơi; những thành tựu đã đạt được trong bao năm qua là

minh chứng hùng hồn cho một chế độ xã hội ưu việt như xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, quá trình phát triển bên cạnh tính tuần tự có thể còn có sự đột
biến, khi hội tụ đủ những điều kiện cần thiết có thể bỏ qua một vài khâu trung
gian để tiến lên cái cao hơn. Trong lĩnh vực xã hội, để chuyển từ xã hội này
lên xã hội khác cao hơn cũng có thể bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã hội
để tiến lên một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn là hợp quy luật phát triển.
Vận dụng nội dung nguyên lý này chúng ta đã quyết tâm bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy còn một số
quan điểm cho rằng, nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho quá trình
đi lên chủ nghĩa xã hội, nên để tạo ra một lượng cơ sở vật chất kỹ thuật vững
chắc đã rồi mới đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà để có cái đó thì phải đi
lên xây dựng chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa tư bản ắt
sẽ làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản
xuất hiện có (quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất), khi đó mâu thuẫn sẽ chín muồi và sẽ tiến hành một cuộc cách mạng
xã hội để chuyển sang xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta nhận thấy chủ nghĩa
xã hội ở nước ta đang tiến những bước dài vững chắc trong thời kỳ quá độ,
với những thành tựu ngày một cao hơn, điều đó chứng tỏ quan điểm trên là
hoàn toàn sai trái, đi ngược lại sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Mặc dù
còn nhiều khó khăn, nhưng ngay sau khi giải phóng miền Bắc (1954), chúng
ta đã đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương lớn cho
chiến trường miền Nam, sức người, sức của được huy động tối đa, các phong
trào “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả cho tiền
8

. Hồ Chí Minh, “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, Nxb CTQG, H.1970, tr.204.

18



tuyến, tất cả cho đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.v.v được đông đảo nhân dân
hưởng ứng, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cả nước cùng ra trận. Nếu chúng ta
không đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa thì không thể có được kết quả
to lớn ấy. Từ sau năm 1975 đến nay, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước ta đã thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, vị thế của Việt
Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, quan hệ hợp tác ngày
càng rộng mở, thu hút ngày càng nhiều các chiến lược đầu tư của nước ngoài,
độc lập dân tộc vẫn được giữ vững.v.v.một lần nữa cho phép chúng ta khẳng
định: chúng ta không thể không đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu cách mạng của nước ta trong mấy chục năm qua cũng như
những thành công to lớn của công cuộc đổi mới những năm gần đây dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh rằng, cách mạng nước
ta đang đi đúng quy luật của sự phát triển. Kiên định sự nghiệp đổi mới toàn
diện nhưng có nguyên tắc, tỉnh táo cảnh giác vạch trần và kiên quyết đập tan
mọi mưu đồ của các thế lực thù địch đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là sự bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở những vấn đề đã trình bày, đòi hỏi mỗi người chung ta cần
nâng cao nhận thức một cách đúng đắn con đường phát triển chung ,tất yếu
của lịch sử xã hội loài người, là tiến lên Chủ Nghĩa cộng sản, mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam chúng ta , việc lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa là sự lựa chọn hợp quy luật khách quan. Đồng thời còn thể hiện
sâu sắc nguyện vọng chính đáng, mong ước ngàn đời của con người và xã hội
Việt Nam. Tuy nhiên xây dựng chủ nghĩa xã hội là một tiến trình cách mạng
chứa đựng nhiều vấn đề. đặc biệt là một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt,gian
khổ và lâu dài, vì vậy chúng ta không được mơ hồ, đơn giản hoá. Ngược lại
phải xây dựng niềm tin và bản lĩnh, phát huy trí tuệ của toàn dân vào sự
nghiệp chung này, mới đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi cuối cùng. Người
cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là những ngừơi làm công tác
tuyên truyền cần quán triệt quan điểm phát triển vào nhận thức các hiện tư19



ợng quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt cần làm tốt công tác
tuyên truyền xây dựng niền tin tất thắng vào con đường xã hội chủ nghĩa mà
toàn Đảng, toàn Dân và toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng. Đồng
thời tăng cường đấu tranh với những nhận thcs lệch lạc, hoặc sự mơ hồ, đơn
giản hoá trong nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Nhất là
các quan điểm chống phá chủ nghĩa xã hội nói chung, chống phá con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
KẾT LUẬN.

Sự ra đời và phát triển của phép biện chứng duy vật là một quá trình
hợp quy luật khách quan của nhận thức của con người. Với tính cách mạng và
khoa học của phép biện chứng duy vật Mác xít, nó đã trang bị cho chúng ta
một cơ sở lý luận vững chắc trong nhận thức và cải tạo thế giới. Thông qua
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của phép biện
chứng đó chúng ta có thể xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng một cách khách
quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Đặc biệt, nguyên lý về sự phát
triển cung cấp cho chúng ta nhận biết sâu sắc về nguồn gốc, con đường, trạng
thái, cách thức và khuynh hướng phát triển của các sự vật hiện tượng trong
thế giới nói chung, trong lĩnh vực xã hội nói riêng. Từ đó, chúng ta có cơ sở
khoa học và cách mạng để tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, khẳng định chắc
chắn hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình phức
tạp hiện nay./.
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nxb, chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
2- G. PH. A-LÊ-XĂNG- ĐƠ- RốP, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb,
sự thật, Hà Nội, 1958.
3- Giáo trình triết học Mác- lênin,(dùng cho cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết), Nxb, lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.


20


4- Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN, 2006.

21



×